Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHIẾN TRANH TRONG THỜI đại HIỆN NAY và VIỆC CHUẨN bị TINH THẦN CHO QUÂN đội TRONG CHIẾN TRANH bảo vệ tổ QUỐC xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.85 KB, 122 trang )

CHƯƠNG 1
CHIẾN TRANH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ TRONG THỜI ĐẠI
HIỆN NAY

1.1. Bản chất chiến tranh trong thời đại hiện nay
1.1.1. Khái niệm chiến tranh trong thời đại hiện nay
Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội rất phức tạp. Việc
nhận thức đúng nguồn gốc, bản chất và các qui luật vận động của nó, đặc
biệt là các cuộc chiến tranh trong thời đại hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Từ khi chiến tranh xuất hiện đến nay đã có nhiều quan niệm khác
nhau, các nhà tư tưởng trước Mác kể cả Clau-dơ-vít - một nhà lý luận quân
sự tài giỏi của nước Phổ cũng chưa nhận thức đúng đắn và tòan diện về nó.
Trong tác phẩm "Bàn về chiến tranh", ông cho rằng chiến tranh là hành vi
bạo lực dùng để buộc đối phương phục tùng ý chí của mình hoặc chiến tranh
là một hình thái của những mối liên hệ giữa người với người. Các quan niệm
đó đã lẩn tránh vấn đề bản chất như: mục đích chính trị của các bên tham
chiến, lợi ích của giai cấp tiến hành chiến tranh.
Mác - Ănghen - Lênin đã kế thừa có phê phán những tư tưởng đó, đã
xem xét hiện tượng chiến tranh dưới góc độ chính trị - xã hội, chính trị - giai
cấp, đã nêu lên những đặc trưng rất cơ bản của hiện tượng chiến tranh như:
chiến tranh là một phạm trù lịch sử, là sự tiếp tục của chính trị bằng thủ đoạn
bạo lực, là đấu tranh vũ trang có tổ chức theo những qui tắc nhất định...
Hiện nay ở nước ta, các nhà nghiên cứu về chiến tranh tuy cách tiếp
cận có khác nhau, nhưng đều đề cập đến những đặc trưng thống nhất như:
chiến tranh là một loại hình hoạt động xã hội của con người, hoạt động có ý


thức, có mục đích; là một hiện tượng chính trị - xã hội, chính trị - giai cấp;
hình thức bạo lực vũ trang đều được xem là hình thức chủ yếu, phổ biến sử
dụng trong chiến tranh để nhằm thực hiện mục đích chính trị của các bên


tham chiến; chiến tranh chỉ là phương tiện để đạt mục đích chính trị của giai
cấp, nhà nước tiến hành chiến tranh.
Chiến tranh trong thời đại hiện nay đang diễn ra rất phong phú, phức
tạp. Nó là cuộc đấu tranh toàn diện cả kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao,
tâm lý, tư tưởng giữa các bên tham chiến, là sự thử thách sức mạnh tổng
hợp, sức mạnh của một quốc gia, một chế độ xã hội. Phương thức tiến hành
chiến tranh đã có sự kết hợp chặt chẽ bạo lực vũ trang với phi bạo lực vũ
trang, chiến lược "diễn biến hòa bình". Do đó, khái niệm chiến tranh có sự
phát triển mới và có thể khái quát như sau: Chiến tranh trong thời đại hiện
nay là một hiện tượng xã hội - chính trị, là cuộc đấu tranh bằng bạo lực vũ
trang trong sự kết hợp chặt chẽ với chiến lược "diễn biến hòa bình" để giải
quyết các mâu thuẫn cơ bản của thời đại và các mâu thuẫn về lợi ích, về
giai cấp, về dân tộc, sắc tộc, về tôn giáo, lãnh thổ... giữa các quốc gia hoặc
liên minh quốc gia, giữa các giai cấp, các tập đoàn người trong một quốc
gia để thực hiện những mục đích chính trị nhất định.
Khái niệm trên đã khẳng định nội dung, mục đích chính trị của các
bên tham chiến. Thủ đoạn, biện pháp, phương thức chủ yếu để thực hiện
mục đích chính trị đó là đấu tranh vũ trang, là bạo lực vũ trang trong sự kết
hợp với các loại hình bạo lực phi vũ trang. Chiến tranh không đồng nhất với
xung đột quân sự. Hiện nay hình thức và qui mô của chiến tranh diễn ra rất
phong phú đa dạng, nhiều kiểu, loại chiến tranh mới xuất hiện, thủ đoạn
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tính chất ác liệt càng cao. Do phải giải quyết
nhiều mâu thuẫn đan xen trong một giai đoạn nhất định giữâ các giai cấp đối
địch, các nhà nước đối địch trong chiến tranh, nên mục đích chính trị biểu


hiện ra cũng rất phức tạp và việc nhận dạng khách quan, khoa học các loại
hình chiến tranh trong thời đại hiện nay cũng không đơn giản.
Cơ sở để phân loại chiến tranh hiện nay trước hết là lý luận về thời
đại, mà chủ yếu là những mâu thuẫn cơ bản và phương thức giải quyết các

mâu thuẫn đó. V.I.Lênin viết: "Không thể hiểu nổi cuộc chiến tranh hiện nay
nếu không hiểu được thời đại" (42, 388). Nghị quyết Đại hội đại biểu tòan
quốc lần thứ 8 của Đảng đã chỉ rõ: "Loài người vẫn đang trong thời đại quá
độ từ CNTB lên CNXH. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và
phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức, biểu hiện có nhêìu nét
mới. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức"
(90,76). Như vậy, bốn mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại và các loại
chiến tranh có thể xảy ra hiện nay là: 1- chiến tranh giữa chủ nghĩa đế quốc
với các nước xã hội chủ nghĩa; 2- chiến tranh giữa chủ nghĩa đế quốc đứng
đầu là đế quốc Mỹ, các tập đoàn tư bản độc quyền xuyên quốc gia với những
nước đứng lên giành độc lập, các nước đang phát triển; 3- chiến tranh giữa
đế quốc với đế quốc; 4- nội chiến giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản
trong các nước tư bản chủ nghĩa hoặc giữa quần chúng nhân dân với các lực
lượng phản động được sự ủng hộ giúp sức của chủ nghĩa đế quốc và lực
lượng phản động quốc tế.
Từ sau khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, CNXH đi vào thoái trào,
phong trào cách mạng thế giới gặp nhiều khó khăn. Sự phát triển các mâu
thuẫn sắc tộc, tôn giáo, dân tộc, biên giới... đã làm cho tình hình thế giới
càng thêm phức tạp. Chiến tranh khu vực với những cường độ khác nhau,
chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, lấn chiếm biên giới... có thể nổ ra. Sự phát triển
cách mạng khoa học - công nghệ đã ảnh hưởng trực tiếp đến các cuộc chiến
tranh mới, đặc biệt chiến tranh vũ khi công nghệ cao và các dạng chiến tranh
như chiến tranh điện tử, chiến tranh thông tin, chiến tranh sinh học đã xuất


hiện. Do đó, việc nhận thức đúng các loại hình chiến tranh hiện nay có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn nhằm xác định thái độ, trách nhiệm đúng đắn
của những người cộng sản đối với chiến tranh.
1.1.2. Nguồn gốc và bản chất chiến tranh trong thời đại hiện nay
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa có chọn lọc những tư tưởng tiến bộ

trước đó, tổng kết các cuộc chiến tranh và đã nhận thức đúng đắn, khoa học
về nguồn gốc, bản chất của chiến tranh. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin khẳng định chiến tranh chỉ là một phạm trù lịch sử. Chiến tranh chỉ
xuất hiện và tồn tại gắn với sự xuất hiện và tồn tại của chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất và đối kháng giai cấp. Do đó chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
là nguồn gốc về kinh tế của chiến tranh. Chừng nào còn chế độ tư hữu và đối
kháng giai cấp thì còn nguy cơ chiến tranh. Muốn loại bỏ chiến tranh ra khỏi
đời sống xã hội của con người phải xóa bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, xóa bỏ giai cấp và bóc lột. Lịch sử xã hội loài người đã chứng
minh: trong thời kỳ công xã nguyên thủy, chế độ kinh tế dựa trên cơ sở công
hữu nguyên thủy về tư liệu sản xuất chưa có đối kháng và bóc lột. Song do
mức sống xã hội quá thấp kém, quan hệ sản xuất dựa trên sự hợp tác giản
đơn và sự tương trợ trong công xã hay thị tộc, bộ lạc nên mọi lực lượng bên
ngoài đều được xem như lực lượng thù địch chống đối, muốn tồn tại phải
loại trừ những lực lượng ấy và những cuộc xung đột vũ trang đã xảy ra.
Nhưng những cuộc xung đột vũ trang đó không mang tính đối kháng giai
cấp mà chỉ là một ngành phụ trong hoạt động lao động của con người nhưng
là hoạt động đặc biệt để chiếm đoạt lấy lực lượng sản xuất, nó giống chiến
tranh nhưng không phải là chiến tranh nguyên nghĩa như ngày nay.
Sau khi chế độ công xã nguyên thủy bị tan rã, phương thức sản xuất
chiếm hữu nô lệ ra đời, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia giai
cấp xuất hiện thì cũng tất yếu xuất hiện và tồn tại chiến tranh. Các giai cấp


bóc lột đã hợp pháp hóa việc đấu tranh vũ trang có tổ chức để kiếm lời, để
nô dịch các dân tộc khác, để tăng cường sự thống trị cả kinh tế và chính trị
đối với nước mình. Ănghen đã chỉ rõ: không phải là chiến tranh gây nên sự
bất bình đẳng về tài sản và sinh ra giai cấp và ngược lại, chính chế độ tư hữu
và sự phân chia xã hội thành giai cấp đã biến những cuộc xung đột vũ trang
của các bộ lạc nguyên thủy thành chiến tranh như một hiện tượng xã hội chính trị. Chỉ bắt đầu từ đó, chiến tranh mới trở thành nghề nghiệp thừơng

xuyên của những kẻ áp bức bóc lột. Chiến tranh là sản phẩm và là bạn đồng
hành thường xuyên của xã hội có đối kháng giai cấp. Vì muốn duy trì được
sự thống trị của mình, đối với đất nước, muốn nô dịch, xâm lược thôn tính
các nước khác để vơ vét được nhiều của cải, thỏa mãn lòng tham vô đáy của
bọn thống trị bóc lột, chúng phải tổ chức tuyển mộ quân đội thường trực,
trang bị vũ khí và phương tiện quân sự để tiến hành chiến tranh. Do đó, quân
đội đã trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị để sử dụng vào chiến
tranh tấn công hat chiến tranh phòng ngự. Sản xuất càng phát triển, càng tạo
điều kiện thuận lợi để mở rộng phát triển quân đội, tăng cường sản xuất và
trang bị các loại vũ khí kỹ thuật hiện đại hơn, qui mô các cuộc chiến tranh
ngày càng lớn và tính chất tàn bạo dã man càng phản ánh sâu sắc bản chất
của giai cấp thống trị bóc lột. Đặc biệt, chủ nghĩa đế quốc đã gây bao tang
tóc đau thương cho nhân loại. Chỉ đến chủ nghĩa cộng sản, khi mà chế độ tư
hữu và giai cấp không còn nữa mới loại bỏ được chiến tranh ra khỏi đời
sống xã hội.
Là một hiện tượng xã hội, chiến tranh chịu sự chi phối của các qui
luật, các quan hệ xã hội và thông qua hoạt động tự giác của con người để
phát huy tác dụng. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chia làm ba loại nguyên nhân
làm xuất hiện chiến tranh. Nguyên nhân cơ bản, sâu xa xét đến cùng làm
nảy sinh cuộc chiến tranh đó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối


kháng giai cấp. Chừng nào trong xã hội loài người còn tồn tại nguyên nhân
này thì còn nguy cơ xảy ra chiến tranh. Song sự vận động của nguyên nhân
cơ bản đến giai đoạn chín muồi, sự biểu hiện của mâu thuẫn đối kháng nổi
lên trong những điều kiện cụ thể cộng với sự khủng hoảng xã hội sâu sắc đã
trở thành nguyên nhân chủ yếu làm nảy sinh các cuộc chiến tranh. Song
chiến tranh bao giờ cũng là cụ thể, gắn với một nhà nước, một lực lượng
cầm quyền. Các loại nguyên nhân có quan hệ biện chứng với nhau trong đó
nguyên nhân cơ bản đóng vai trò quyết định. Song không phải lúc nào trong

xã hội cũng có chiến tranh. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, nguyên
nhân cơ bản vẫn tồn tại, nhưng nhà nước, đảng chính trị cầm quyền và các
nhà lãnh đạo chính trị giải quyết mâu thuẫn bằng phương pháp hòa bình thì
chiến tranh không thể nổ ra. Hoặc tương quan lực lượng giữa chiến tranh và
hòa bình cho phép ngăn ngừa thì chiến tranh cũng không nổ ra. Nguồn gốc
và nguyên nhân của chiến tranh trước hết là nguyên nhân cơ bản tuy có
thống nhất nhưng không đồng nhất. Nguồn gốc của chiến tranh thì tồn tại
thường xuyên trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và chế độ người bóc
lột người. Do đó việc phân biệt nguồn gốc và nguyên nhân của chiến tranh
có ý nghĩa phương pháp luận thiết thực trong nhận thức và xác định thái độ,
niềm tin của những người cộng sản trong phân tích nguồn gốc và nguyên
nhân chiến tranh trong thời đại hiện nay. Nếu đồng nhất nguồn gốc và
nguyên nhân dẫn đến những nhận thức mơ hồ, bi quan với cuộc sống và xây
dựng đất nước, sợ chiến tranh xảy ra, nhất là chiến tranh hạt nhân. Trên cơ
sở đó để phân tích cụ thể các nguyên nhân và thủ phạm trực tiếp của chiến
tranh trong thời đại hiện nay.
Trong thực tế, để gây chiến tranh xâm lược một nước nào đó kẻ thù
xâm lược thường chủ động phát động chiến tranh, tạo cớ để gây chiến.
Trong chiến tranh ở Việt Nam, đế quốc Mỹ viện cớ "sự kiện Vịnh Bắc Bộ"


để gây chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày 5/8/1964. Gần đây Mỹ và đồng
minh đã tìm cách tạo cớ để gây chiến tranh Vùng Vịnh 1991, chiến tranh
chống Nam Tư 1999. Do đó, không nên nhầm lẫn nguyên nhân và nguyên
cớ. Nguyên cớ chỉ là hiện tượng bên ngoài, ngẫu nhiên, cố tạo cớ để đánh
lừa dư luận nhằm phát động chiến tranh xâm lược. Phân biệt đúng nguyên
nhân và nguyên cớ sẽ có thái độ đúng đắn đối với các bên tham chiến, mới
nhận dạng được thủ phạm chính của các cuộc chiến tranh. Giai cấp vô sản là
lực lượng tiến bộ trong các nước phải cảnh giác, đề phòng không để chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực hiếu chiến xâm lược tạo cớ để gây chiến tranh

xâm lược.
Thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi
toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, là
thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
CNXH gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra
những tiền đề vật chất - kỹ thuật ngày càng đầy dủ cho việc chuyển lên
CNXH. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào thoái trào,
cục diện thế giới có sự biến đổi căn bản. CNTB có sự điều chỉnh, "thích
nghi", tạm thời tạo thế ổn định và phát triển nhưng không điều hòa được
mâu thuẫn mà các mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày càng sâu sắc. Bốn
mâu thuẫn cơ bản của thời đại tuy có những biểu hiện mới nhưng tính chất
của các mâu thuẫn không thay đổi. Một số mâu thuẫn mới xung quanh vấn
đề về giữ vững, kinh tế, sắc tộc, tôn giáo... nổi lên. Cuộc đấu tranh giữa lực
lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt nhằm thực
hiện mục tiêu cơ bản của thời đại là: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
CNXH đang tạo ra những thời cơ và thách thức mới đối với các dân tộc.
Nhưng nguồn gốc, nguyên nhân của chiến tranh trong thời đại hiện nay vẫn


không thay đỏi, chừng nào còn CNTB, chủ nghĩa đế quốc thì còn nguy cơ
xảy ra chiến tranh.
Ngày nay, tuy không còn hệ thống xã hội chủ nghĩa, song mâu thuẫn
giữa CNTB với cacns xã hội chủ nghĩa vẫn là mâu thuẫn cơ bản nhất của
thời đại và đấu tranh giải quyết "ai thắng ai" giữa CNTB và CNXH vẫn là
cuộc đấu tranh gay go quyết liệt. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ
luôn tịm mọi cách, mọi biện pháp để gây chiến tranh xâm lược, kể cả chiến
tranh phi vũ trang để xóa nốt các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Sự tham
vọng, bá quyền của chủ nghĩa đế quốc luôn là nguyên nhân trực tiếp hoặc
gián tiếp gây ra những cuộc xung đột khu vực và có nguy cơ gây ra những
cuộc chiến tranh khu vực mới với những cường độ khác nhau. Trong khi đó

nội bộ của các nước tư bản, đế quốc vẫn không điều hòa được mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản thống trị với giai cấp vô sản và nhân dân lao động, việc
chạy đua vũ trang, quân sự hóa đa làm ảnh hưởng toàn bộ đời sống của các
nước tư bản. Do đó đường lối chính trị và hệ tư tưởng của các nước đế quốc
đã làm tăng thêm dục vọng xâm lược đối với các nước khác trên thế giới,
chúng liên minh, liên kết với nhau thành những khối chính trị - xâm lược do
Mỹ cầm đầu hòng thực hiện quyền áp đặt đối với các nước khác. Chúng
dùng các thủ đoạn bao vây, cấm vận, viện trợ kinh tế và quân sự, kích động
nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc, dân tộc để tạo dựng các mâu thuẫn mới giữa
nước này với nước khác, tìm cách tạo cớ để gây chiến tranh, để xâm phạm
độc lập chủ quyền của các nước khác nằhm thực hiện chiến lược bá chủ thế
giới; xóa bỏ hoàn toàn CNXH và hướng các nước còn lại đi theo con đường
CNTB. Cuộc chiến tranh ở I-rắc, cuộc chiến tranh Nam Tư đã phơi bày bọ
mặt thật của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ. Do vậy, nguồn gốc, nguyên
nhân của chiến tranh trong thời đại hiện nay còn tồn tại tiềm tàng. Thủ phạm
của mọi cuộc chiến tranh có thể vẫn đang còn nhiều tham vọng. Việc nhận


thức và chủ động ngăn ngừa để đi đến loại bỏ chiến tranh ra khỏi đời sống
xã hội là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và các đảng cộng sản trên toàn
thế giới.
Để đánh giá đúng bản chất công tác trong thời đại hiện nay phải trở lại
với tư tưởng của Lênin. Người viết: "Làm thế nào để tìm ra bản chất thực sự
của chiến tranh, làm thế nào để xác định được bản chất đó" và chính Lênin
cũng tự trả lời: "Chiến tranh là tiếp tục của chính trị. Phải nghiên cứu chính
trị được tiến hành trước chiến tranh, chính trị đang dẫn đến và đã dẫn đến
chiến tranh" (36, 106).
Lênin đã chỉ ra phương pháp luận khoa học để xem xét bản chất chiến
tranh, tức là phải phân tích toàn bộ các quan hệ kinh tế - xã hội và chính trị ở
trong nước hay trong hệ thống các nước tiến hành chiến tranh. Khi nhận

định về bản chất chiến tranh thế giới thứ nấht, Lênin viết; "Chính toàn bộ
đường lối chính trị của toàn bộ hệ thống các quốc gia ở châu Âu trong
những mối quan hệ kinh tế và chính trị của các quốc gia đó, mới là là cái cần
xem xét để hiểu được rằng điều tất nhiên, không thể tránh được là hệ thống
ấy đã gây ra cuộc chiến tranh hiện nay" (37, 102). Khi phê phán các lãnh tụ
của Quốc tế II, đem phép siêu hình thay thế cho phép biện chứng để xem xét
giải thích bản chất chiến tranh, Lênin đã đưa ra công thức: "... Chiến tranh
chỉ là một sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể bằng
bạo lực). Đó là công thức của Clau-dơ-vít, một trong những cây bút vĩ đại
viết về lịch sử chiến tranh, những tư tưởng của ông đã được Hêghen làm cho
phong phú thêm. Và quan điểm của Mác-Ănghen luôn luôn cũng chính là
như vậy, các ông coi bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng đều là sự tiếp tục của
chính trị của một số cường quốc hữu quan nào đó - và của các giai cấp khác
nhau trong nội bộ những cường quốc đó - trong một thời gian nhất định"
(46, 275 - 276).


Quan điểm của Lênin khác hẳn về chất, với quan điểm của Clau-dơvít, Người coi vấn đề bản chất xã hội - chính trị của chiến tranh là vấn đề cơ
bản trong việc phân tích, đánh giá chiến tranh. Nhận rõ bản chất chính trị
của chiến tranh tức là vạch rõ thực chất về bản chất giai cấp của nó, xác định
sự lệ thuộc của những mục đích chính trị của chiến tranh đối với các lợi ích
kinh tế và chính trị của các giai cấp và của các nhà nước đang có sự xung
đột. Chỉ có đứng trên lập trường của giai cấp vô sản với phương pháp luận
biện chứng duy vật mới thấy rõ được "chiến tranh chẳng qua chỉ là chính trị
từ đầu đến cuối, chỉ là sự tiếp tục thực hiện cũng những mục đích đó, cũng
do các giai cấp đó theo đuổi với những phương pháp khác mà thôi" (37,
356). Cái chính trị mà chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm là "Mối quan hệ
giữa các dân tộc, các giai cấp" (43, 500). Hoặc Lênin viết: "Chính trị là sự
tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà
nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà

nước". Và Lênin cũng khẳng định: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế" (49, 349).
Từ quan niệm khoa học về chính trị àm chủ nghĩa Mác - Lênin đã
nhận thức đúng đắn b của chiến tranh nói chung và chiến tranh trong thời đại
hiện nay. Các cuộc chiến tranh mới nhất đang chứng minh các chân lý đó.
Như cuộc chiến tranh Nam Tư đã gây chấn động hết thảy các quan hệ quốc
tế lớn, nhỏ trước thềm thế kỷ 21. Bằng không tập với qui mô lớn nhất, với
những vũ khí hiện đại nhất của Mỹ và các nước trong khối Bắc Đại Tây
Dương hướng tới một quyền lực quốc tế. Cuộc chiến tranh này đã phá đi trật
tự thế giới đã được hình thành và đã "định vị" nền chính trị thế giới với một
trật tự mới rất đáng lo ngại. Thực chất cuộc chiến tranh Nam Tư là sự thử
nghiệm một chiến lược mới của Mỹ và NATO. Thực chất bản chất của
chiến tranh trong thời đại hiện nay là mối quan hệ biện chứng giữ chiến


tranh và chính trị là quan hệ giữa mục đích chính trị và phương tiện, thủ
đoạn, biện pháp thực hiện mục đích đó. Song hai yếu tố đó có vai trò không
ngang bằng nhau. Chính trị luôn giữ vai trò quyết định chiến tranh. Chính trị
định ra phương hướng, tính chất chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh cụ thể
của một giai cấp, một nhà nước hay liên minh. Chính trị quyết định mục
tiêu, nhiệm vụ, những điều kiện vật chất, phương tiện, điều kiện quốc tế,
chuẩn bị dư luận, điều hòa các quan hệ xã hội trong nước và nó kiểm soát sự
mở đầu và phần lớn tiến trình chiến tranh, đề xuất và chỉnh lý mục tiêu chiến
lược trong từng giai đoạn, thông qua chiến lược nó tác động đến những hình
thức, phương thức cụ thể, qui mô cường độ, sử dụng lực lượng trong đấu
tranh vũ trang để thực hiện cho được ý đồ chính trị - quân sự chung. Chính
trị quyết định cả quá trình chuẩn bị, tiến trình và kết thúc chiến tranh. Khi
chiến tranh kết thúc, kết quả của chiến tranh được chính trị sử dụng để đề
xuất những mục tiêu và nhiệm vụ mới của giai cấp, của xã hội.
Ngược lại, chiến tranh có tác động trở lại to lớn đối với chính trị. Sự

tác động trở lại của chiến tranh ảnh hưởng cả đến quan hệ đối nội và đối
ngoại, cả đường lối chính trị đến đường lối chính trị và quan hệ quốc tế của
các bên tham chiến. Chiến tranh có thể làm thay đổi chính sách, thành phần
ban lãnh đạo, tình hình xã hội, các quan hệ xã hội và giải quyết hoặc làm sâu
sắc hơn các mâu thuẫn của các bên tham chiến. Chiến tranh là thước đo, là
tiêu chuẩn để kiểm tra toàn bộ sức sống của một chế độ chính trị - xã hội.
Mác đã từng cho rằng: chiến tranh đẩy cả nước vào cơn thử thách. Như
những xác ướp bị rữa ra tức khắc khi đưa ra ngoài không khí, chiến tranh
cũng tuyên án tử hình những cơ cấu xã hội không còn sức sống nữa. Chiến
tranh còn kiểm định đường lối chính trị đúng hay sai, nó biến mục đích
chính trị thành hiện thực, nó có thể làm cho các bên tham chiến phải điều
chỉnh lại liên minh do những điều kiện cụ thể hoặc do so sánh lực lượng chi


phối. Sự tác động trở lại của chiến tranh đối với chính trị diễn ra theo hai
chiều khác nhau, trong đó chủ yếu là sự tác động của kết quả tác chiến, của
chiến thắng hay thất bại của bộ đội trên chiến trường. Chính vì vậy, sau
chiến tranh Nam Tư gương mặt chính trị của thế giới mang dấu ấn sâu sắc
của chiến cuộc. Tổng thống Mỹ đã kiêu ngạo tuyên bố sau chiến tranh rằng,
từ nay nước Mỹ sẵn sàng can thiệp vào bất cứ ở đâu có sự đàn áp sắc tộc và
tôn giáo, rằng nước Mỹ kiên quyết làm điều đó ngay hôm nay, ngày mai nếu
tình hình đòi hỏi. Trên một khía cạnh khác, với so sánh về sức mạnh quân sự
và vũ khí kỹ thuật, Nam Tư còn thua kém NATO. Song với tinh thần quật
cường Nam Tư đã đứng vững trong không kích ác liệt của NATO. Điều đó
chứng tỏ rằng vai trò chính trị tinh thần con người và nghệ thuật tác chiến
được phát huy.
Như vậy, bản chất của chiến tranh hiện đại vẫn có hai yếu tố quan hệ
biến chứng với nhau, trong đó chính trị là yếu tố cơ bản luôn giữ vai trò
quyết định. Còn chiến tranh là công cụ thực hiện mục đích chính trị, có tác
động trở lại rất lớn đối với chính trị. Hai yếu tố tạo nên cấu trúc bản chất cả

chiến tranh luôn quan hệ biện chứng không thể tách rời và xem nhẹ yếu tố
nào. Cho nên nói bản chất chiến tranh là sự kế tục chính trị từ đầu đến cuối
bằng thủ đoạn khác (thủ đoạn bạo lực, thủ đoạn đấu tranh vũ trang). Đó là
quan điểm khoa học đúng đắn, là phương pháp luận tin cậy duy nhất, giúp
chúng ta xem xét và khẳng định các cuộc chiến tranh trong thời đại hiện nay,
kể cả chiến tranh hạt nhân, chính trị trong thời đại hiện nay, về thực chất là
cuộc đấu tranh giai cấp không điều hòa nhưng với thủ đoạn tinh vi và xảo
quyệt hơn. Song chính trị vẫn là mục đích, là nhân tố quyết định mọi đặc
điểm cơ bản nhất của cuộc chiến tranh, nó tác động sâu sắc đến khả năng
phát sinh chiến tranh, cũng như khả năng ngăn ngừa cuộc chiến tranh đó. Do
vậy vấn đề vừa có tính nguyên tắc, vừa là lập trường của người vô sản là sự


khẳng định bản chất của chiến tranh mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra vẫn
còn nguyên giá trị, kể cả đối với chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh hạt
nhân. Song các thuộc tính trong bản chất của chiến tranh không phải là bất
biến, mà nó có sự vận động và phát triển. Nên chúng ta phải nhận rõ mặt ổn
định tương đối và mặt vận động biến đổi của nó, có như vậy mới phân tích
đúng bản chất của các cuộc chiến tranh trong thời đại hiện nay.
Theo quan điểm mác -xít, cái cần xác định là nội dung chính trị của
mỗi cuộc chiến tranh, trong mỗi trường hợp riêng, tức là phải xác định tính
chất giai cấp của chiến tranh, nguyên nhân gây ra, những giai cấp tiến hành
chiến tranh và những điều kiện lịch sử, kinh tế gây ra các cuộc chiến tranh.
Do đó mối quan hệ giữa chính trị và chiến tranh có sự biến đổi vì cả hai yếu
tố đó đều có sự thay đổi và làm cho bản chất của chiến tranh cũng có sự biến
đổi. Sự biến đổi của bản chất chiến tranh phụ thuộc vào sự biến đổi trước hết
của nền chính trị, chế độ chính trị ở mức độ nào đó bao gồm: những biến đổi
của giai cấp cầm quyền, cơ cấu giai cấp trong xã hội, mối quan hệ giữa các
giai cấp, các dân tộc, các nhân vật cầm đầu trong bộ máy nhà nước. Chính từ
sự thay đổi về chính trị mà ảnh hưởng đến bản chất, nội dung và tính chất

của chiến tranh. Sự biến đổi của bản chất chiến tranh còn phụ thuộc vào sự
phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học - công nghệ. Vì đó là
điều kiện tạo ra những phương tiện, phương thức và hình thức của đấu tranh
vũ trang, nó tạo điều kiện mở rộng qui mô chiến tranh, mở rộng không gian,
tăng cường quân đội cả về số lượng và trang bị vũ khí kỹ thuật và tính chất
tàn phá, ác liệt của chiến tranh, hậu quả sâu sắc của chiến tranh làm ảnh
hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội của các bên tham chiến. Đặc biệt trong
thời đại hiện nay các quan hệ chính trị -xã hội trên thế giới ngày càng phức
tạp. Các mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày càng sâu sắc, thêm vào đó là
các mâu thuẫn mới về tôn giáo, dân tộc, sắc tộc, biên giới... Sự phát triển


như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ đang ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống xã hội trên toàn thế giới. Do vậy quan hệ của chiến tranh trong
thời đại hiện nay với chính trị sẽ rất phức tạp và nội dung chính trị - giai
cấp, mục đích kỹ thuật quân sự, phương thức và hình thức sẽ có nhiều biến
đổi mới và hậu quả khó lường. Ngay mục đích chính trị của các cuộc chiến
tranh hiện nay cũng mang tính chất tổng hợp. Thí dụ như cuộc chiến tranh
do Mỹ và NATO chống Nam Tư nhằm nhiều mục đích: 1- "bảo vệ nhân
quyền"; 2- để thử thách thái độ của Nga; 3- đánh vào sự trỗi dậy của châu
Âu để củng cố vai trò siêu cường.
Ngoài ra Mỹ và NATO còn muốn thực hiện tham vọng xây dựng một
vành đai an ninh và quân sự xuyên Âu-Á để bảo vệ lợi ích chính trị, kinh tế,
an ninh của khối quân sự này. Biến Nam Tư thành "thao trường lý tưởng" để
thử nghiệm "khái niệm chiến lược mới", "cuộc chiến tranh không tiếp xúc
với đối phương" bằng vũ khí tàng hình và vũ khí công nghệ cao tiến công từ
xa, một loại hình chiến tranh mà Mỹ dự kiến sữ áp dụng phổ biến trong thế
kỷ 21.
Nhưng dù mục đích có được che đậy bao nhiêu chăng nữa thì bản chất
vẫn là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Cho nên các dân tộc,

các quốc gia phải tìm mọi cách, kiên quyết ngăn chặn không để chiến tranh
nổ ra dưới bất kỳ hình thức nào, mới có thể bảo vệ được hòa bình, ổn định
và phát triển.
Vấn đề bản chất của chiến tranh, mối quan hệ giữa chiến tranh và
chính trị, nguồn gốc và nguyên nhân của chiến tranh đang được các quan
điểm phản động của giai cấp tư sản xuyên tạc nhằm cố gắng chứng minh
chiến tranh là ngẫu nhiên hay do một lực lượng siêu nhiên gây ra một cách
định mệnh. Họ cho rằng: chiến tranh là tất yếu, là vĩnh viễn không thể tránh
khỏi và không thể loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Một số học giả tư sản


tuyệt đối hóa vai trò tư tưởng trong chiến tranh. Họ cho chiến tranh ngày nay
là chiến tranh tư tưởng là và đó là đặc điểm nổi bật. Thí dụ như: Véc-ne-pich
cho rằng, chúng ta đang đứng ở ngưỡng cửa của chiến tranh tư tưởng, quan
điểm Ma-tê-phen lại cho "Thế kỷ này mâu thuẫn tư tưởng là cái có trước".
Đó là những quan điểm duy tâm phản khoa học nhằm biện bạch cho các
cuộc chiến tranh tôn giáo, chiến tranh sắc tộc hiện nay.
Những người theo "thuyết bạo lực" lại tuyệt đối hóa bạo lực. Họ coi
chiến tranh là động lực chủ yếu quyết định tòan bộ quá trình lịch sử. Bạo lực
là nhân tố có trước, qui định toàn bộ các sự kiện và hiện tượng của đời sống
xã hội, thậm chí cả trong kinh tế. Họ phủ nhận qui luật khách quan của xã
hội và phủ nhận sự phát triển của xã hội loài người là "quá trình lịch sử tự
nhiên". Họ cho chiến tranh là thường xuyên không thể loại bỏ khỏi đời sống
xã hội, thậm chí còn bổ ích đối với con người. Bạo lực là vạn năng, là cơ sở
tư tưởng của chủ nghĩa phiêu lưu, hiếu chiến. Nhà triết học Đức Ô.Spen-gơlen (1880 - 1936) viết "Những tư tưởng trở thành máu đòi hỏi phải có máu.
Chiến tranh là hình thức vĩnh viễn sự tồn tại cấp cao của con người, và nhà
nước tồn tại là để tiến hành chiến tranh". Ngày nay các nhà tư tưởng của chủ
nghĩa đế quốc vẫn tiếp tục tuyên truyền tư tưởng vèvt quyết định của bạo
lực, họ kêu gọi dùng bạo lực để đàn áp phong trào cách mạng trên thế giới.
Đế quốc Mỹ với âm mưu thống trị thế giới nên chúng luôn dù vũ khí hạt

nhân để đe dọa, chúng đưa ra các thuyết: "chế ngự hạt nhân tuyệt đối", "sự
thống nhất trong vũ trụ".
Để ngụy trang, phụ họa cho thuyết "bạo lực", một số nhà tư tưởng tư
sản đưa thuyết "cứu nguy nền văn minh", đã bộc lộ thực chất tư tưởng thống
trị toàn thế giới của đế quốc Mỹ. Để thực hiện âm mưu đó, các nhà tư tưởng
tư sản ch rằng có thể dùng những phương tiện quân sự để trả thù, để thủ tiêu
thành quả của cách mạng vô sản, cần thiết phải dùng bạo lực quân sự kể cả


vũ khí hạt nhân, đó là cách tốt nhất để duy trì CNTB tồn tại mãi mãi. Thực
chất chúng muốn che đậy nguyên nhân của việc chạy đua vũ trang và âm
mưu xâm lược, bào chữa cho các cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ ở các khu vực khác nhau trên toàn thế giới.
Quan điểm phân biệt chủng tộc sô vanh về nguồn gốc, bản chất của
chiến tranh rất phản động. Họ phân thành những chủng tộc "thượng đẳng"
và "hạ đẳng" và kết luận rằng: chiến tranh giữa hai loại chủng tộc ấy là động
lực thúc đẩy lịch sử. Và chủng tộc "thượng đẳng" tất yếu sẽ thắng "hạ đẳng".
Những quan điểm này ngày nay được biến thành thuyết "chủng tộc tâm lý".
Họ đề cao các "chủng tộc phương Tây" cho chiến tranh là do có sự hằn thù
giữa các dân tộc, chủng tộc. Họ coi chiến tranh là "đấu tranh chủng tộc". Đó
là các quan điểm phản động, là cơ sở cho các quan điểm phân biệt chủng tộc
và gây ra các cuộc chiến tranh dân tộc, sắc tộc hiện nay.
Các nhà triết học và xã hội học tư sản còn tìm mọi cách xuyên tạc bản
chất của các cuộc chiến tranh hiện nay, đặc biệt là đối với chiến tranh tên lửa
- hạt nhân. Có quan điểm cho rằng, vũ khí tên lửa hạt nhân đã làm "lỗi thời"
luận điểm "chiến tranh là sự kế tục của chính trị". Ô. Mich-sê viết: "Chiến
tranh là sự tiếp tục chính trị bằng các phương tiện khác, nhưng điều đó có
đúng với chiến tranh nguyên tử không - không có ai có thể nói được. Chắc
là ngược lại". Hoặc Pếc-ke (một tên quân phiệt của Tây Đức) tuyên bố: đối
với các nước lớn, chiến tranh là đại lượng không tính được, nó đã mang ý

nghĩa tuyệt đối, và do đó đã mất tính chất là sự tiếp tục chính trị bằng các
phương tiện khác". Hoặc một thượng nghị sĩ của Mỹ tên là Clau-dơ-vít coi
chiến tranh cũng là chính trị, chỉ có điều là thực hiện bằng thủ đoạn khác đã
không có căn cứ nữa rồi, nó đã lỗi thời do sự xuất hiên vũ khí hạt nhân.
Thực chất, họ muốn phủ nhận học thuyết Mác - Lênin về bản chất
chiến tranh. Họ đã làm lẫn lộn giữa mục đích chính trị của chiến tranh với


thủ đoạn, phương tiện sử dụng trong hình thành, lẫn lộn giữa lý luận về bản
chất (nội dung và tính chất) của chiến tranh hạt nhân với việc có nên sử dụng
loại vũ khí đó làm phương tiện để đạt mục đích hay không.Việc chủ mưu
tách chiến tranh tên lửa- hạt nhân ra khỏi đường lối chính trị xâm lược của
chủ nghĩa đế quốc không lừa bịp được dư luận và nhân dân tiến bộ trên toàn
thế giới. Dù chiến tranh tên lửa - hạt nhân nổ ra vẫn là sự kế tục của chính
trị, chiến tranh hạt nhân không thể tự phát sinh ra từ "chân không" hoặc sự
ngẫu nhiên, bao giờ nó cũng do đường lối chính trị mưu tính sinh ra. Nội
dung xã hội, nội dung giai cấp, mục đích của chiến tranh hạt nhân đều do
chính trị quyết định, chiến tranh chỉ là công cụ, phương tiện của đường lối
chính trị của chủ nghĩa đế quốc được thực hiện bằng phương tiện tên lửa hạt nhân. Do đó, chiến tranh ngày nay kể cả chiến tranh tên lửa - hạt nhân
càng trở nên "chính trị' hơn.
Trong tình hình thế giới hiện nay, CNXH ở Đông Âu và Liên Xô sụp
đổ, phong trào cách mạng thế giới đang gặp những khó khăn nhất định.
Nhưng không phải vì thế mà chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ
muốn làm gì thì làm. Những người cộng sản phải kiến quyết đấu tranh
chống lại các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận học thuyết của chủ nghĩa Mác
- Lênin về bản chất chiến tranh. Chúng ta luôn khẳng định rằng, các cuộc
chiến tranh hiện nay kể cả chiến tranh hạt nhân, các cuộc chiến tranh trong
tương lai như "chiến tranh ra đa", "chiến tranh tâm lý thông tin", "chiến
tranh tin học"... bản chất của nó vẫn không thay đổi. Chiến tranh vẫn là sự
kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Chúng ta phải kiên quyết ngăn

chặn mọi cuộc chiến tranh, kiên quyết đấu tranh để tiến tới loại bỏ mọi cuộc
chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội, đem lại hòa bình và hạnh phúc cho con
người.


1.2. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
thời đại hiện nay
1.2.1. Tính cấp thiết của việc chuẩn bị chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời đại hiện nay.
Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc là
qui luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Sau sự tan rã của Liên Xô, sụp đổ
của Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn thì nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trở thành một vấn đề rất cấp
thiết.
Trong những điều kiện lịch sử ở thế kỷ 19, C.Mác và Ph. Ănghen đã
nhận định rằng: "Cách mạng vô sản sẽ là một quá trình đấu tranh khốc liệt
lâu dài, không những sẽ có tính chất dân tộc mà sẽ đồng thời xảy ra trong tất
cả các nước văn minh, tức là ít nhất là ở Anh, Mỹ, Pháp, Đức..." (7, 458).
Hơn nữa, thời kỳ C.Mác, Ph.Ănghen, giai cấp vô sản chưa có Tổ quốc nên
vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chưa được đặt ra một cách trực tiếp
và cấp thiết. Tuy nhiên trong chiến lược cách mạng vô sản, C.Mác Ph.Ănghen đã dự kiến, cần phải có những cuộc "chiến tranh tự vệ" để bảo vệ
những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đạt được.
Bước sang thế kỷ 20 trong điều kiện lịch sử mới: CNTB đã phát triển
đến giai đoạn tột cùng là chủ nghĩa đế quốc. Trước tình hình đó, V.I.Lênin
đã phân tích và phát hiện ra qui luật phát triển không đều của CNTB. Trong
điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã nhận định rằng; "CNXH không thể đồng
thời thắng lợi trong tất cả các nước. Trước hết, nó thắng lợi trong một nước,
hoặc trong một số nước, trong khi các nước khác trong một thời gian dài nào
đó vẫn còn là những nước tư bản hay tiền tư bản. Tình trạng đó không
những sẽ gây ra những va chạm, mà còn làm cho giai cấp tư sản các nước



khác trực tiếp muốn tiêu diệt giai cấp chiến thắng của nước xã hội chủ nghĩa.
Trong trường hợp đó về phía chúng ta chiến tranh là chính đáng và chính
nghĩa" (36, 173)
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết phải bảo vệ Tổ quốc, V.I.Lênin đã lập
luận về lý luận và trực tiếp lãnh đạo công cuộc phòng thủ đất nước, chống
bọn can thiệp nước ngoài và nội chiến trong những năm đầu của chính
quyền Xô Viết còn non trẻ. Người đã luận chứng khoa học về tính tất yếu
khách quan phải vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chống lại sự tấn
công bằng vũ trang xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Bản chất của chủ nghĩa
đế quốc là xâm lược hiếu chiến. Còn chủ nghĩa đế quốc là nguy cơ nổ ra các
cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ trang. Vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa
đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược nhất thiết phải chuẩn bị chiến
tranh chống xâm lược bằng vũ trang để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - do vậy V.I.Lênin yêu cầu, mỗi người
dân phải có thái độ nghiêm túc với quốc phòng, coi bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là nghĩa vụ, trách nhiệm hàng đầu. Đảng Cộng sản phải lãnh đạo
mọi mặt cả sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là nguyên tắc, là điều kiện đảm
bảo để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết bảo vệ Tổ quốc của V.I.Lênin vào thực tiễn sự nghiệp giải phóng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhân dân ta. Đối với Chủ
tịch Hồ Chí Minh bảo vệ Tổ quốc là tất yếu của sự sốn còn của dân tộc, bởi
vì "Không có gì quí hơn độc lập tự do", "Có tự do là có tất cả". Vì vậy trong
Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Người
đã tuyên bố: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực



lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy" (64, 4).
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại khẳng định: "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ... Giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến
giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước" (66; 35, 55). Sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc là sự nghiệp của tòan dân, vì vậy, Người kêu gọi: "Bất kỳ đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc" (65;
21, 524).
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ
quốc là luôn gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, là sự
thống nhất giữa nội dung dân tộc, nội dung giai cấp và nội dung thời đại.
Người đấu tranh suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, xóa bỏ áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ham muốn tột bậc của Người là làm cho nước ta được hòan toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bài ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành. Vì vậy, Người quyết tâm chiến đấu đến cùng để giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Người nói: "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước
ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi" (65; 21, 524)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta
đã nhất tề đứng lên tiến hành hai cuộc kháng chiến đánh thắng hai đế quốc
to là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, thực
hiện thống nhất nước nhà. Ngày nay cả nước ta đã bước vào thời kỳ mới,
thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
tiến hành CNH,HĐH đất nước dưới sự tác động của tình hình thế giới đầy
biến động phức tạp. Do đó mà vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt là việc chuẩn bị chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa



càng trở nên tất yếu, cấp thiết hơn bao giờ hết. Sau khi CNXH ở Liên Xô và
các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và
các thế lực thù địch đã thực hiện chiến lược mới - chiến lược "tiêu diệt kẻ
thù", hòng thôn tính các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó có Việt Nam
là một trọng điểm.
Trên thực tế, gần đây đế quốc Mỹ đã sử dụng NATO như một phương
tiện để thực hiện chiến lược mới để giành tham vọng bá chủ thế giới. Chiến
lược mới của NATO thực chất là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu mới
của Mỹ sau chiến tranh lạnh. Dựa vào sức mạnh quân sự to lớn, đế quốc Mỹ
đã tự cho quyền can thiệp, xâm lược vào bất cứ một quốc gia nào trên thế
giới, bất chấp dư luận và công ước quốc tế. Điều đó chứng tỏ rằng, chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ càng tỏ rã bản chất hiếu chiến xâm
lược một cách trắng trợn. Cuộc chiến tranh Nam Tư gần đây là một thử
nghiệm chiến lược mới của NATO và chiến lược tòan cầu mới của Mỹ và
qua đó sự thật về Mỹ và NATO đã được phơi bày. Đó cũng là thực tế chứng
minh rằng, bản chất của chủ nghĩa đế quốc ngày nay không hề thay đổi, trái
lại ngày càng tỏ ra phản động và tàn ác hơn. Cuộc chiến tranh Nam Tư do
Mỹ và NATO tiến hành đã thức tỉnh loài người phải cảnh giác, hòa bình
trên trái đất này chưa thật vững chắc. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế
quốc Mỹ vẫn là nhân tố gây mất ổn định, là nguyên nhân trực tiếp của các
cuộc chiến tranh. Trong tình hình đó, việc chuẩn bị chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là yêu cầu khách quan, cấp thiết.
Ở nước ta, sau hơn 10 năm đổi mới đã thu được nhiều thành tựu quan
trọng, tạo ta thời cơ mới và những thuận lợi cơ bản cho thời kỳ phát triển
mớicảu đất nước - thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH. Chúng ta đã đẩy nhanh
nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, tạo được một số chuyển biến tích cực về
mặt xã hội, thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống


chính trị, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, quan hệ đối ngoại được mở

rộng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Hiện nay đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng
còn một số mặt chưa được củng cố vững chắc. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (1/1994) nêu lên, đến nay vẫn là
những thách thức lớn. Trong bốn nguy cơ đó có cả nguy cơ "ngoại sinh" và
nguy "nội sinh". Các nguy cơ đó tồn tại trong mối liên hệ tác động lẫn nhau
và đều nguy hiểm hây tác hại lớn, ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Mặt khác, chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta một cách
quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, lối
sống. Hiện nay chúng đang thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" kết
hợp bạo loạn lật đổ với răn đe quân sự và sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân
sự khi có thời cơ tấn công làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên cảnh giác, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân vững mạnh, sẵn sàng đánh thắng mọi âm mưu, thủ
đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính qui luật của cách
mạng vô sản. Đặc biệt trong thời đại hiện nay, thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại, đặc
biệt là mâu thuẫn giữa CNTB và CNXH phát triển ngày càng gay gắt và đặt
ra yêu cầu tất yếu, cấp thiết, trực tiếp phải bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, việc chuẩn bị chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời
đại hiện nay là nhu cầu thực tiễn và có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp


đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.
1.2.2. Dự báo một số đặc điểm cơ bản của chiến tranh bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời đại hiện nay
Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa xảy ra
trong tương lai không phải là ý muốn của chúng ta, nhưng khi còn chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực pảhn động quốc tế thì việc dự báo các cuộc chiến
tranh đó là khách quan, khoa học. Là một loại hình đặc thù của chiến tranh,
bước đầu có thể dự báo một số đặc điểm của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tương lai và sự tác động của nó đến
nhân tố tinh thần quân đội ta:
- Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là chiến
tranh nhân dân hiện đại diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt.
Cuộc chiến tranh này mang tính chính nghĩa cao, là sự phát triển cao của
tinh thần yêu nước, yêu CNXH, cuộc chiến tranh tự bảo vệ mình trước sự
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Cuộc chiến tranh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được tiến hành dưới tác động của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đối tượng tác chiến của chúng ta
sẽ sử dụng các loại vũ khí hiện đại nhất, bằng sức mạnh tổng hợp của vũ
trang và phi vũ trang, trên một không gian rộng lớn của vùng trời, vùng biển,
đất liền, biên giới hải đảo, với các lực lượng thù địch khác nhau. Cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh dân tộc gay go quyết liệt nằhm tiếp tục thực hiện toàn diện và triệt
để mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Đây là cuộc chiến tranh toàn dân do
lực lượng vũ trang làm nòng cốt sẽ chịu sự chi phối của đặc điểm, xu thế và
các mâu thuẫn cơ bản của thời đại hiện nay.


Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình CNH,HĐH. Đó là cơ sở để
xây dựng nền kinh tế, khoa học, công nghệ, quốc phòng, quân sự vững mạnh
hiện đại. Đó là điều kiện thuận lợi để Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ
trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân
vững mạnh, từng bước hiện đại. Trong điều kiện đó Quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay có điều kiện thuận lợi hơn bao gờ hết, được củng cố, xây
dựng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu theo hướng cách
mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Mặt khác trong điều kiện
mới, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, nhân dân ta có thể tiếp thu được
những thành ựu mới nhất của khoa học, công nghệ hiện đại để xây dựng đất
nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân từng
bước hiện đại đáp ứng yêu cầu của chiến tranh nhân dân hiện đại bảo vệ Tổ
quốc, đánh thắng mọi kẻ địch xâm lược được trang bị hiện đại.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng cuộc chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay nhất thiết phải là cuộc chiến
tranh nhân dân hiện đại. Tính chất hiện đại đó ngày càng phát triển dựa trên
nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân được củng cố vững chắc trong
quá trình CNH,HĐH đất nước. Tuy nhiên, chúng ta đang trong quá trình đổi
mới xây dựng và bảo vệ đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, sự
nghiệp đổi mới đất nước đến nay đã thu được nhiều thành tựu quan trọng,
song chúng ta còn đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Vì vậy, trong
cuộc chiến tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
hiện nay nếu xảy ra vẫn phải quán triệt sâu sắc, kế thừa và phát triển truyền
thống đánh gặic giữ nước của dân tộc ta. Đó là truyền thống lấy nhỏ thắng
lớn, lấy ít địch nhiều, lấy thô sơ, tương đối hiện đại và hiện đại kết hợp trang
bị hiện có với từng bước trang bị hiện đại đánh thắng quân địch được trang
bị hiện đại.


- Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sẽ là
cuộc chiến tranh mang tính toàn dân cao chưa từng có trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc. Tính nhân dân của cuộc chiến tranh này được biểu
hiện ở chất lượng mới về lực lượng tham gia, về tính toàn diện của cuộc
chiến tranh, về phương thức kết hợp giữa kinh nghiệm, truyền thống và tính
hiện đại. Song thực tiễn mới đang đặt ra nhêìu vấn đề phải tư duy nghiêm

túc để thực hiện chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nền
kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa vừa tạo ra những khả năng lớn để thực hiện
mục tiêu quốc phòng, vừa gây những cản trở nhất định trong huy động lực
lượng để tiến hành chiến tranh nhân dân toàn diện. Do đó, tòan Đảng, toàn
dân và toàn quân cần có nhận thức sâu sắc yêu cầu khách quan của sự kết
hợp kinh tế và quốc phòng. Việc chăm lo đến sự phát triển của các thành
phần kinh tế và xác định vai trò của nó trong phát triển đất nước và củng cố
nền quốc phòng toàn dân, giải quyết hài hòa các lợi ích, tăng trưởng kinh tế
đi đôi với công bằng xã hội, chăm lo đến đời sống, sức chiến đấu của các lực
lượng vũ trang là nhân tố thường xuyên quyết định tính chất, qui mô, trình
độ phát triển của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
trong tương lai.
Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh toàn dân diễn ra tòan diện
trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa... Đó là vấn đề có
tính chất qui luật. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kháng chiến
toàn dân phải gắn với kháng chiến toàn diện, không cùng toàn lực của nhân
dân về mọi mặt để ứng phó thì không thể nào thắng được. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang
nhân dân, quân đội nhân dân, kết hợp xây dựng đất nước với bảo vệ đất
nước, chuẩn bị mọi mặt cho đất nước sẵn sàng tiến hành chiến tranh bảo vệ


×