PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự
phát triển. Xét trên nhiều phương diện phép biện chứng duy vật có ý nghĩa thế
giới quan và phương pháp luận rộng lớn như bản thân triết học. Phép biện chứng
duy vật mácxit do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập và V.I.Lênin bảo vệ, phát triển
là sự kế thừa có chọn lọc các tư tưởng biện chứng qua nhiều thế kỷ; vạch ra
những đặc trưng bản chất của phép biện chứng khách quan, nghiên cứu quy luật
phổ biến của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; là "chìa
khóa" để giúp giai cấp vô sản nhận thức và cải tạo thế giới. Nắm vững phương
pháp luận là của phép biện chứng duy vật không những là một nhân tố cơ bản để
hình thành thế giới quan khoa học, mà còn là điều kiện tiên quyết để chính đảng
cách mạng sáng tạo trong bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong quá trình khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn
vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật. Do đó, đã xây dựng một cách đúng
đắn đường lối lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước tránh được những sai lầm có
thể xảy ra. Thực tiễn những thành tựu 30 năm đổi mới đã chứng minh điều đó.
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới có lúc, có nơi, có thời điểm Đảng ta chưa
thực sự quán triệt tốt sự vận dụng phép biện chứng duy vật, còn mắc bệnh giáo
điều, kinh nghiệm, chủ quan, duy ý chí, coi thường quy luật khách quan nhất là
trước đổi mới năm 1986. Thực tiễn đã chứng minh rằng, bệnh chủ quan, duy ý
chí không những chưa được loại bỏ mà ngược lại, có lúc, có nơi việc đề xuất và
thực hiện một số giải pháp, quyết sách còn có biểu hiện nóng vội, thiếu suy nghĩ
gây hậu quả nghiêm trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực đang diễn ra những biến động hết
sức phức tạp. Đặc biệt cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang biến đổi
hàng ngày, việc quốc tế hóa, toàn cầu hóa đời sống xã hội gắn liền nền kinh tế
tri thức đang đòi hỏi chúng ta phải có những quyết sách đúng đắn để giải quyết
các mâu thuẫn đang đặt ra. Trong bối cảnh chung, Việt Nam đang tiếp tục thực
hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để
vươn tới tầm cao mới phấn đấu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Vì
vậy, có thể nói những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội….nảy sinh trong quá
trình đổi mới không thể giải quyết thành công nếu thiếu tư duy biện chứng duy
vật.
Có thể khẳng định rằng, nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của
phép biện chứng duy vật là một nhu cầu cấp thiết để đổi mới tư duy, là "vũ khí
lý luận sắc bén" để chỉ đạo nhận thức và thực hiện nhiệm vụ của công cuộc đổi
mới của đất nước ta hiện nay.
NỘI DUNG
1. Bản chất khoa học và cách mạng của phép biện chứng duy vật
1.1 Lịch sử phép biện chứng trước Mác và sự hình thành, phát triển
của phép biện chứng duy vật
1.1.1 Lịch sử phát triển phép biện chứng trước Mác
Thế giới tự nhiên rất phong phú và đa dạng tuy có khác nhau nhưng đều
thống nhất ở tính vật chất của nó. Một câu hỏi lớn đặt ra là sự vật tồn tại như thế
nào? Chúng hoàn toàn đứng biệt lập với nhau hay phụ thuộc, ràng buộc lẫn
nhau, tồn tại ngưng đọng, bất biến hay vận động, biến đổi không ngừng? Trong
lịch sử phát triển của triết học mặc dù có nhiều cách trả lời khác nhau về vấn đề
này, nhưng suy cho cùng quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng
và siêu hình.
Quan điểm siêu hình xem xét sự vật một cách cô lập, ngưng động, tĩnh tại,
cứng nhắc. Trái lại, quan điểm biện chứng xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng
buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động, phát triển không ngừng với một tư
duy mềm dẻo, linh hoạt, không chỉ thấy sự tồn tại mà còn thấy cả sự hình thành
và tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái
vận động, biến đổi của sự vật: "Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn
bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng,
trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động,
sự phát sinh và tiêu vong của chung"1
Phép biện chứng có lịch sử phát triển lâu dài, nó xuất hiện ngay từ thời cổ
đại khi con người bắt đầu tìm hiểu các sự vật trong thế giới và suy xét về chúng.
Từ đó đến nay, lịch sử phát triển của phép biện chứng đã có nhiều hình thức
khác nhau, có thể chia làm ba hình thức cơ bản. Đó là phép biện chứng tự phát,
ngây thơ thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức và
phép biện chứng duy vật.
Đặc trưng cơ bản chung của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây
thơ. Các nhà triết học cổ đại nghiên cứu sự vận động, phát triển củ sự vật, hiện
tượng trong bức tranh chung, chỉnh thể về thế giới. Do trình độ còn thấp kém về
khoa học, nên phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm biện chứng
mộc mạc, mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực
giác mà chưa được minh chứng bằng tri thức khoa học.
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức ra đời cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX mà đỉnh cao là phép biện chứng của Hêghen. Thực chất
phép biện chứng của Hêghen là học thuyết về sự phát triển toàn diện với tư cách
là sự vận động và chuyển hóa về chất, với tư cách là sự đi lên theo bậc thang
logic có tuần tự, về tính chất mâu thuẫn của sự phát triển, bao gồm sự tương tác
giữa các mặt đối lập, sự phủ định tồn tại hiện có và đồng thời là sự giữ lại cái
tính tích cực trong quá khứ, tức là sự kế thừa cái cũ một cách hợp lý. Phép biện
chứng được Hêghen lý giải là phương pháp đúng đắn để nhận biết các vấn đề
triết học, phương pháp tư duy biện chứng của Hêghen có căn cứ đầy đủ, là
phương pháp hoàn thiện chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác.
Nhưng do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng dung hòa,
1
1. C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn Tập, Tập 20, tr. 38.
không muốn đối lập với nhà nước Phổ hiện tồn thời đó mà Hêghen đã có những
kết luận mâu thuẫn và không nhất quán
Như vậy, lịch sử phát triển của phép biện chứng trải qua hai hình thức cơ
bản đó là phép biện chứng ngây thơ, tự phát, phép biện chứng duy tâm khách
quan đã đóng góp cho tư tưởng biện chứng ngày một phong phú hơn, ngày càng
hoàn thiện hơn và ngày một tiến gần hơn phép biện chứng khoa học, cách mạng.
Tuy có những cống hiến lớn lao, nhưng do hạn chế về mặt nhận thức và bị chi
phối bởi chủ nghĩa duy tâm, do đó các hình thức phép biện chứng được phát
triển trong lịch sử triết học trước Mác không thể đóng vai trò phương pháp luận
đối với hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
1.1.2 Sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX sự phát triển của khoa học tự nhiên đã
đạt được những thành tựu mới, đòi hỏi những khái quát mới về triết học và phải
có cách nhìn biện chứng về thế giới khách quan thay cho cách nhìn siêu hình thế
kỷ XVII, XVIII. Trong sự phát triển của khoa học tự nhiên, đặc biệt là ba phát
hiện có tính chất vạch thời đại vào thế kỷ XIX, đã làm tiền đề cơ sở cho cách
nhìn biện chứng về sự vật, hiện tượng trong thế giới, làm cơ sở cho việc phát
triển tư duy biện chứng, xây dựng phép biện chứng duy vật như một khoa học.
Triết học Mác không phải là một trào lưu biệt phái, sự ra đời của nó là sự kế
thừa nền văn minh của nhân loại, trực tiếp là trào lưu tư tưởng lý luận ở châu Âu
thế kỷ XIX như Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị Anh và Chủ nghĩa xã
hội không tưởng Pháp. Trên cơ sở đó, C.Mác và Ph.Ăngnghen đã xây dựng một
tư tưởng biện chứng mới, đó là phép biện chứng duy vật.
Kể từ C.Mác và Ph.Ăngnghen, một giai đoạn lịch sử, một trong quá trình
phát triển qua nhiều thế kỷ của phép biện chứng đã bắt đầu. Đó là giai đoạn tổng
kết toàn bộ sự phát triển trước đây của phép biện chứng, thời kỳ hình thành hình
thức triệt để khoa học cao nhất của phép biện chứng - phép biện chứng duy vật.
C.Mác và Ph.Ăngnghen đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy
tâm của Heeghen, sau khi tách hạt nhân hợp lý của nó và sau khi đã vứt bỏ lối
giải thích duy tâm về các hiện tượng tự nhiên và xã hội, vứt bỏ lối quy các quá
trình vật chất vào sự vận động logic của tư duy, vào sự tự nhận thức của "ý niệm
tuyệt đối". Nhưng không chỉ cải tạo phép biện chứng duy tâm mà hai ông còn
đồng thời tiến hành cải tạo một cách biện chứng chủ nghĩa duy vật siêu hình
trước đó. C.Mác và Ph.Ăngnghen đã liên kết, thống nhất chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng, đã xây dựng thế giới quan khoa học duy vật biện chứng với tư
cách là một học thuyết về những quy luật chung nhất của sự phát triển tự nhiên,
xã hội và tư duy. Ph.Ăngghen khẳng định: "Có thể nói rằng, hầu như chỉ C.Mác
và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi duy tâm Đức và
đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử'' 1. Phép biện chứng
duy vật Ph.Ăngnghen coi là sự tổng kết toàn bộ quá trình phát triển của triết học
và khoa học tự nhiên, đồng thời là sự khái quát các quy luật khách quan của giới
tự nhiên và xã hội. V.I.Lênin kế thừa tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngnghen và phát
triển phép biện chứng duy vật trong điều kiện mới. V.I.Lênin đã nghiên cứu sâu
sắc phép biện chứng duy vật với tính cách là một học thuyết về sự phát triển của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Không chỉ dừng lại ở đó,
Người đã nghiên cứu sâu thêm về phép biện chứng chủ quan nghĩa là phép biện
chứng của nhận thức và của tư duy. V.I.Lênin viết: " Phép biện chứng, tức là
học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không
phiến diện"2
1.2 Phép biện chứng duy vật với tính cách là một khoa học
1.2.1 Đối tượng nghiên cứu và nội dung của phép biện chứng duy vật
* Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật
Trong tác phẩm "Chống Đuyrinh", Ph.Ăngnghen đã định nghĩa hoàn
chỉnh về phép biện chứng: "Phép biện chứng chẳng qua chỉ là một môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của
xã hội loài người và của tư duy" 3. Trong tác phẩm "Bút ký triết học" V.I.Lênin
1
1. C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn Tập, Tập 20, tr. 22.
1. C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn Tập, Tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1994, tr. 201.
3
2. C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn Tập, Tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1994, tr. 455.
2
rút ra nhận xét tổng quát như sau: "Có thể định nghĩa phép biện chứng là học
thuyết vê sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của
phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có sự giải thích và một sự phát
triển thêm"1. Như vậy, phép biện chứng được coi là một khoa học. Khi là một
khoa học điều tất nhiên nó phải nghiên cứu những quy luật. Nhưng phép biện
chứng khác với các khoa học cụ thể ở chỗ nó nghiên cứu những quy luật chung
nhất, những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển cả tự nhiên, xã hội
loài người và tư duy con người.
* Nội dung của phép biện chứng duy vật
Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đây là các nguyên lý có ý nghĩa khái
quát nhất. Các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là sự
cụ thể hóa các nguyên lý trên.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Xuất phát từ nguyên lý cho rằng, thế
giới là thống nhất ở tính vật chất của nó, phép biện chứng xem xét các sự vật và
hiện tượng đều có mối liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật,
hiện tượng. Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, chúng giữ
vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn không nên tuyệt đối hóa mối quan
hệ nào cũng không nên tách rời mối liên hệ này khỏi mối liên hệ khác. Từ
nguyên lý mối liên hệ phổ biến, con người rút ra được những quan điểm, nguyên
tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nguyên lý về sự phát triển: Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng
để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa
nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật hiện tượng mới về chất ra
đời. Phát triển là tự thân. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt
1
3. V.I. Lênin, Toàn Tập, Tập 29, Nxb. Tiến bộ, M, 1981, tr. 240.
đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường "xoáy ốc", cái mới
dường như lặp lại một số đặc trưng, đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn;
thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự
phát triển. Từ nguyên lý về sự phát triển, con người rút ra được những quan điểm,
nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Những quy luật và các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật: Những
sự vật, hiện tượng trong thế giới có mối liên hệ phổ biến với nhau không ngừng
vận động và phát triển theo những quy luật khách quan vốn có của nó.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Quy luật này vạch
rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển, là hạt nhân quan trọng của
phép biện chứng duy vật.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại. Nó chỉ ra sự vật, hiện tượng phát triển như thế nào hay
là chỉ rõ cách thức của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra một sự phát triển hình thành như
diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới hình thức khác, ở một trình độ cao
hơn. Một sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường
thẳng. Quy luật này nói lên khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật này không tách rời nhau mà thống nhất với nhau một cách
biện chứng. Song cả ba quy luật cơ bản đó chưa nói hết tính phong phú của sự
vận, phát triển của hiện thực khách quan. Mỗi sự vật, hiện tượng của thế giới là
một chỉnh thể vô cùng phức tạp bao gồm nhiều mặt, nhiều thuộc tính, nhiều mối
liên hệ. Có những mặt, những mối liên hệ bản chất và sự tác động lẫn nhau của
những mặt khác có vai trò nhất định trong sự vận động, phát triển của sự vật.
Những mặt, những mối liên hệ bản chất đó được khái quát thành những cặp
phạm trù của phép biện chứng duy vật như cái chung và cái riêng, bản chất và
hiện tượng, nguyên nhân và kết quả…mối liên hệ biện chứng giữa những mặt
đối lập đó được coi là những quy luật không cơ bản của phép biện chứng duy
vật.
* Phương pháp đặc thù của phép biện chứng duy vật: Đó chính là phương
pháp biện chứng duy vật, là phương pháp duy nhất của nhận thức khoa học và
hoạt động thực tiễn. Đây là phương pháp phản ánh đúng quy luật khách quan
của bản thân thực tại. Thông qua những nguyên lý, quy luật và các phạm trù,
phép biện chứng duy vật rút ra được phương pháp luận chung nhất định hướng
cho chủ thể trong nhận thức cũng như hành động. Đó là phương pháp luận xem
xét sự vật, hiện tượng một cách khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể
và phải gắn với tình hình thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn.
1.2.2 Tính khoa học và cách mạng của phép biện chứng duy
* Tính khoa học của phép biện chứng duy vật
Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là một cuộc cách mạng trong tư
duy triết học. Đó là sự kế thừa một cách có chọn lọc những thành tựu của phép
biện chứng trong lịch sử triết học nhân loại, cải tạo với cách thức phủ định biện
chứng hệ thống phép biện chứng trong nền triết học cổ điển Đức để xây dựng
một phương pháp tư duy khoa học mới về chất so với các hình thức biện chứng
trước đó. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, phép biện chứng đã trở thành
phương pháp nhận thức khoa học thực sự là một khoa học phản ánh những quy
luật duy nhất, phổ biến của sự vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Phép biện chứng duy vật là phép biện chứng tự giác, nó đã dựa chắc vào
thành quả của khoa học tự nhiên, do đó nó đã trở thành một môn khoa học khác
về chất so với các hình thức phép biện chứng trước đó. Nó đáp ứng đầy đủ
nguyên tắc, yêu cầu của một khoa học. Lý luận về phép biện chứng duy vật
không phải được xây dựng bằng những ngôn từ khéo léo của những tư tưởng
duy tâm thần bí, mà lý luận đó được xây dựng trên mảnh đất hiện thực khách
quan, nó xuất phát từ sự vận động, sự phát triển nội tại của thế giới vật chất.
Toàn bộ những khái niệm, những nguyên lý, các quy luật và các cặp phạm trù
mà phép biện chứng duy vật nêu ra, không phải là những phỏng đoán, nó không
phải trên trời, trên không trung, mà nó là những phạm trù của phép biện chứng
khách quan, nó ở trong cuộc sống hiện thực của loài người.
Sự ra đời của phép biện chứng duy vật dựa chắc vào thành tựu phát triển
của các ngành khoa học tự nhiên trong thế kỷ XIX và XX. Vì vậy mỗi luận điểm
của phép biện chứng duy vật đều thấm đượm tinh thần phát triển của khoa học
tự nhiên. Đây cũng chính là sự khác nhau về chất, sự đối lập căn bản của phép
biện chứng duy vật với các hình thức phép biện chứng trong lịch sử tư tưởng
trước Mác. Như vậy, khoa học tự nhiên chính là cơ sở để phép biện chứng khái
quát nên những nguyên lý, quy luật của mình. Đó chính là tính khoa học và cách
mạng của phép biện chứng duy vật mà các hình thức trước đó không có được.
Trong triết học Mác, phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải là
các bộ phận cấu thành riêng biệt, tách rời, mà chúng chuyển hóa cho nhau, xâm
nhập vào nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ. Sự thống nhất giữa phép biện
chứng, lý luận nhận thức và logic học, triết học Mác - Lênin đã khắc phục hoàn
toàn sự tách rời, phiến diện trong học thuyết và nhận thức, tư duy của con người
với vốn đã tồn tại lâu trong lịch sử triết học nhân loại. Sự thống nhất đó đã
khẳng định phép biện chứng là một khoa học nghiên cứu quá trình biện chứng
khách quan của sự vật và quá trình biện chứng chủ quan của tư duy. Do đó, phép
biện chứng đã trở thành một khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Phép biện chứng duy vật có vị trí, vai trò rất quan trọng trong chủ nghĩa
Mác. Lênin đã khẳng định phép biện chứng duy vật là "linh hồn của chủ nghĩa
Mác" và làm cho toàn bộ học thuyết Mác không phải là một giáo điều mà là kim
chỉ nam cho mọi hoạt động.
* Tính cách mạng của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật ra đời đánh dấu một mốc son trong lịch sử phát
triển của phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật khác hẳn về chất so với các
hình thức phép biện chứng trước đó. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học phép
biện chứng được phát triển một cách hoàn bị cả về lý luận và thực tiễn dựa trên
nền tảng của chủ nghĩa duy vật. Nó đã chứng minh được tính hơn hẳn, tính khoa
học và cách mạng. Đã khắc phục những hạn chế về mặt nhận thức của phép biện
chứng cổ đại, lật đổ phép biện chứng duy tâm khách quan và thay thế vào đó là
phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật là một hệ thống hoàn chỉnh,
phản ánh đúng bản chất của thế giới là sự thống nhất ở tính vật chất của nó, là sự
liên hệ, vận động, chuyển hóa và phát triển không ngừng. Phép biện chứng ra
đời như một vũ khí sắc bén để phê phán bọn chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn,
máy móc duy ý chí, kinh viện không thấy được bản chất khoa học, cách mạng
của phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật ra đời trong phong trào đấu tranh cách mạng,
phép biện chứng duy vật còn là sự thống nhất giữa thế giới quan, phương pháp
luận triết học với tinh thần cách mạng triệt để. Về bản chất phép biện chứng là
hệ thống lý luận khoa học cách mạng, nó liên hệ mật thiết với phong trào đấu
tranh cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động, chống lại
mọi áp bức bóc lột và những bất công trong xã hội đương thời.
Với bản chất khoa học và cách mạng sâu sắc, triệt để phép biện chứng là
cơ sở phương pháp luận khoa học chỉ đạo hoạt động nhận thức và cải tạo thế
giới của con người.
* Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng của phép biện
chứng duy vật
Tính khoa học và tính cách mạng của phép biện chứng duy vật thống nhất
với nhau cả về nội dung và hình thức. Khi xây dựng phép biện chứng duy vật,
khoa học triết học về sự phát triển phổ biến đã ẩn chứa trong lý luận cách mạng
đối với cải tạo thế giới. Đó là sự tiến hành đứng trên lập trường của giai cấp vô
sản, là sự xây dựng và phát triển với tính cách một lý luận phê phán cách mạng.
Tính cách mạng của phép biện chứng ở trong nó đã chứa đựng và thể hiện
rõ tính khoa học của mỗi luận điểm về những quy luật chung nhất, phổ biến nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Lý luận đó không khoan nhượng với quyền lợi
của các giai cấp bóc lột và gạt bỏ sự thỏa hiệp với hệ tư tưởng của các giai cấp
bóc lột. Như vậy, tính khoa học và tính cách mạng thống nhất với nhau tạo nên
lý luận khoa học của phép biện chứng duy vật trong xem xét, đánh giá và cải tạo
thực tiễn xã hội.
Về thực chất tính khoa học và tính cách mạng của phép biện chứng duy
vật có mối quan hệ biện chứng với nhau, mỗi luận điểm của phép biện chứng
duy vật là khoa học đã thấm được tính cách mạng ở trong đó và ngược lại. Vì
vậy, phép biện chứng duy vật là một khoa học luận giải những quy luật chung
nhất vê tự nhiên, xã hội và tư duy một cách khoa học, cách mạng.
Tóm lại, lịch sử hình thành và phát triển của phép biện chứng đã trải qua
những chặng đường quanh co, khúc khuỷu với nhiều hình thức khác nhau.
Trong đó, phép biện chứng duy vật là hình thức phát triển cao nhất, nó biểu hiện
với tính cách là một khoa học về những nguyên lý, các quy luật, các cặp phạm
trù ý thức trong sự tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể. Từ đó rút
ra hệ thống nguyên tắc phương pháp luận đóng vai trò là cơ sở lý luận và
phương pháp luận cho nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người mang
tính đúng đắn, khách quan và khoa học hơn.
2. Vai trò của nghiên cứu phép biện chứng duy vật đối với nhận thức
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
2.1 Nghiên cứu phép biện chứng duy vật là cơ sở nhận thức tính tất yếu
của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương
pháp, nó phản ánh đúng đắn thế giới khách quan và chỉ ra cách thức định hướng
cho con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy
vật là lý luận nhận thức khoa học, cách mạng, là một hệ thống đồ sộ, sâu sắc, đó
là sự thống nhất giữa phép biện chứng với lôgic và lý luận nhận thức.
Nhận thức không phải là một hành động tức thời, giản đơn, máy móc và
thụ động mà là một quá trình biện chứng, tích cực sáng tạo, quá trình nhận thức
diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng
đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Vì vậy, "trong
lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả lĩnh vực khác của khoa học, cần suy
luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là
bất di bất dịch và có sẵn, mà xem xét sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu
biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ
hơn và chính xác hơn như thế nào1. Nghĩa là, chủ nghĩa duy vật áp dụng phép
biện chứng vào lý luận phản ánh, lý luận nhận thức. Trong chủ nghĩa duy vật
biện chứng có sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgic
biện chứng. Khác với lôgic hình thức là một bộ môn khoa học nghiên cứu các
hình thức và quy luật của tư duy như sự phản ánh của sự vật, hiện tượng ở trong
trạng thái ổn định tương đối, lôgic biện chứng nghiên cứu các hình thức và quy
luật của tư duy như sự phản ánh sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển
của chúng. Do lôgic biện chứng không thể không dựa trên những quy luật và phạm
trù của phép biện chứng và lý luận nhận thức mácxít. V.I.Lê nin đã nhiều lần nhấn
mạnh rằng, phép biện chứng cũng chính là lý luận nhận thức, là lôgic biện chứng
của chủ nghĩa Mác. Nghĩa là, chúng ta phải nghiên cứu phép biện chứng để thấy
được sự thống nhất trong nhận thức và hành động của công cuộc đổi mới của nước
ta hiện nay. Chính bản thân công cuộc đổi mới là phép biện chứng về sự phát triển.
Nó thể hiện rõ bản chất khoa học thông qua sự tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, nằm trong sự vận động, biến đổi chung của lịch sử loài người.
Có thể nói rằng, phép biện chứng có ý nghĩa về mặt lý luận hết sức quan
trọng đối với công cuộc đổi mới, nó là sự đổi mới tư duy trong nhận thức hiện
thực khách quan và cải tạo đất nước. Phép biện chứng được thể hiện thông qua
các bước quanh co, phức tạp, có cái được, có cái chưa được, có cả sự thành công
và cả sự thất bại. Phép biện chứng về sự phát triển là kết quả của sự khắc phục
quan điểm duy tâm, duy ý chí. Bên cạnh đó, công cuộc đổi mới nước ta cũng
mang tính chất biện chứng đầy mâu thuẫn đó để trở thành động lực mạnh mẽ
nhằm phát triển kinh tế xã hội, thực hiện thành công công cuộc đổi mới ở nước ta.
1
1. V.I. Lênin, Toàn Tập, Tập 21, tr. 117.
Nghiên cứu phép biện chứng duy vật giúp chúng ta hiểu được bản chất
công cuộc đổi mới như là một tất yếu khách quan, là sự sống còn của chế độ xã
hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng diễn ra với tinh thần: tôn trọng sự thật, nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, chúng ta cần phân tích sâu sắc những khuyết
điểm, sai lầm trên cơ sở đó mà đề ra chủ trương, biện pháp để kiên quyết khắc
phục sai lầm, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Trong những năm trước đổi mới, chúng ta mắc những sai lầm do bệnh ấu
trĩ, tả khuynh, duy ý chí, làm trái quy luật khách quan. Một mặt chúng ta chủ
quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Mặt khác, chúng ta mắc sai lầm bảo thủ, trì
trệ, muốn kéo dài bao cấp, không quyết tâm sửa chữa sai lầm. Những khuyết
điểm đó đã làm cho sản xuất bị kìm hãm, mất cân đối ngày càng lớn, năng suất,
chất lượng, hiệu quả ngày càng giảm sút. Trong khi đó, tình trạng không có việc
làm ngày càng gia tăng, các giá trị tinh thần, đạo đức bị xói mòn, nhân dân hoài
nghi, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Thế giới đang từng ngày, từng giờ thay đổi nhanh chóng, các nước xã hội
chủ nghĩa đã khẳng định được tính ưu việt của mình về mọi mặt so với chủ
nghĩa tư bản trên thực tế. Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề
có tầm quan trọng sống còn. Yêu cầu đó vừa là đòi hỏi bên trong của nền kinh
tế nước ta, vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Chỉ có đổi mới cách nghĩ, cách
làm, đổi mới tư duy nhất là tư duy kinh tế, chúng ta mới có thể thoát khỏi tình
trạng khó khăn hiện nay.
2.2 Nghiên cứu phép biện chứng duy vật nâng cao nhận thức nội dung,
bản chất công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo diễn ra
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Đổi mới để phát triển kinh tế, xây dựng đời
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Quá trình đổi mới phải có ánh sáng
của lý luận soi đường, tránh được những bước đi sai lầm, mò mẫm, không có
phương hướng. Chính vì như vậy, Đảng ta đã xác định, đổi mới phải lấy chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động. Để có một phương pháp, lý luận khoa học trong xem
xét thực tiễn đổi mới cũng như đánh giá quá trình đổi mới như thế nào đòi hỏi
phải có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, phải có triết học Mác,
phép biện chứng duy vật - hạt nhân của chủ nghĩa Mác. Có nghĩa là, quá trình
đổi mới cần phải có phép biện chứng duy vật.
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp
lãnh đạo và phong cách công tác. Trước hết, cần khẳng định rằng, toàn diện
không đồng nhất với dàn đều mà phải có sự kết hợp giữa trọng điểm và toàn
diện. Đổi mới thời kỳ đầu được hiểu như là những suy nghĩ, những hành động
riêng lẻ, cụ thể nhằm thay đổi một nhận thức, một cách làm nhất định nào đó có
tính tình thế, về sau nhận thức về đổi mới toàn diện hơn. Đó là vấn đề chiến lược
lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; nó bao quát toàn diện không
trừ một lĩnh vực nào trong quá trình đó. Đổi mới là quá trình loại bỏ những cái
cũ, cái lỗi thời, lạc hậu cản trở sự phát triển, tổ chức lại xã hội đưa vào cơ chế
vận hành của nó một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên
lực lượng cho sự phát triển vượt bậc. Chính vì vậy, đổi mới là quá trình khó
khăn, hết sức phức tạp, đòi hỏi ý chí quyết tâm của toàn dân tộc.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới của ta gặp không ít khó khăn. Nền sản xuất
nhỏ với những nhược điểm vốn có của nó, hậu quả của những cuộc chiến tranh
lâu dài, tàn dư của chế độ cũ đang là những trở ngại trên con đường phát triển
của nước ta. Tư tưởng biện chứng thể hiện rất rõ trong quá trình nhận thức của
Đảng. Đảng ta đã nắm được tính biện chứng của quá trình nhận thức thực tiễn,
chuyển toàn bộ sự nghiệp cách mạng theo hướng đổi mới, coi nó là một quá
trình lâu dài.
Kết quả của công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi trên tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được bảo
đảm và không ngừng được nâng lên. Để có được như vậy, Đảng ta phải có chính
sách đúng, đường lối lãnh đạo đúng đắn. Qua tổng kết lý luận và thực tiễn 25
năm đổi mới, chúng ta đã thấy rõ vai trò của từng lĩnh vực đối với sự thắng lợi
của công cuộc đổi mới ở nước ta, trong đó có vai trò của triết học. Cụ thể hơn là
vai trò của phép biện chứng duy vật và vai trò đó được thể hiện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.2.1 Trong lĩnh vực kinh tế
Quá trình cách mạng ở nước ta đòi hỏi chúng ta phải đổi mới trên nhiều
lĩnh vực, đổi mới tư duy nhất là tư duy kinh tế. Trong quá trình đó, chúng ta
thấy muốn chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, trước hết phải thay đổi nhận
thức, thay đỏi tư duy đặc biệt là tư duy kinh tế.
Thực tiễn trong những năm qua chỉ ra rằng, do chúng ta mắc phải những
sai lầm, chủ quan, nóng vội, không tôn trọng thậm chí làm trái quy luật khách
quan, đồng thời lại bảo thủ, trì trệ nên đã duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp. Do đó, chúng ta cần phải vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật
khách quan để phát triển kinh tế, điều chỉnh các chính sách kinh tế phù hợp với
sự phát triển của đất nước. Để có được điều đó, rất cần phải vận dụng tư tưởng
biện chứng vào công cuộc đổi mới và chú trọng phát triển kinh tế.
Xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển của phép biện chứng duy vật, chúng ta đã khái quát được bức tranh toàn
cảnh, chằng chịt những mối liên hệ và sự vận động phát triển giữa các nền kinh
tế trên thế giới. Nền kinh tế nước ta trước đây là nền kinh tế tự cung, tự cấp. Ở
chừng mực nhất định Nhà nước thực hiện chính sách đóng cửa chỉ liên hệ với
các nước xã hội chủ nghĩa, không thấy được mối quan hệ giữa nền kinh tế nước
ta với nền kinh tế các nước phát triển. Vì vậy, chúng ta không thể tiếp thu được
hết các thành tựu khoa học và công nghệ của nhân loại để vận dụng, ứng dụng
vào nền kinh tế trong nước.
Có thể nói, trước đây Đảng và Nhà nước ta chưa có cái nhìn toàn diện
trong đầu tư phát triển kinh tế, coi trọng việc phát triển công nghiệp nặng, xem
nhẹ công nghiệp tiêu dùng, thực hiện chính sách phân phối không hợp lý tất cả
mọi sinh hoạt tiêu dùng đều thông qua tem phiếu, phủ nhận nền kinh tế hàng hóa
cũng như sở hữu tư nhân. Từ đó, nảy sinh mâu thuẫn nhu cầu và lợi ích, làm thui
chột sức sáng tạo của con người và do đó, nền kinh tế của nước ta ngày càng trở
nên trì trệ, lạc hậu. Vì vậy, đổi mới tư duy trước hết là tư duy kinh tế có ý nghĩa
vô cùng to lớn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là một quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế nhằm tạo ra những năng suất lao
động cao. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta xác định: công nghiệp hóa phải gắn
liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa bảo đảm cho lực lượng sản
xuất từng bước phát triển và đưa đến đòi hỏi phải từng bước xây dựng quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho sản xuất phát triển, giai cấp công nhân không
ngừng được tăng lên càng củng cố thêm vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo điều kiện
cơ sở vật chất phục vụ cho nhiều mặt như kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng
an ninh…được củng cố, phát triển và giữ vững.
Trong quá trình đổi mới, để phát triển đi lên chúng ta cần tuân theo
nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển và nguyên tắc phân phối cái thống
nhất và nhận thức mặt đối lập của nó. Đòi hỏi chúng ta khi phân tích các nền
kinh tế phải thấy được mối quan hệ biện chứng giữa nền kinh tế nước ta với nền
kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ đó rút ra mặt yếu của từng
nền kinh tế, mặt mạnh để chúng ta học hỏi, đồng thời phát triển nền kinh tế phải
phát huy nội lực và ngoại lực. Có như vậy, mới tạo nền tảng cho sự tăng trưởng,
phát triển bền vững và có hiệu quả.
2.2.2 Trong lĩnh vực chính trị
Đổi mới chính trị là nhằm tạo ra sự phù hợp của hệ thống chính trị với sự
lựa chọn chính trị về con đường phát triển của đất nước. Đổi mới sẽ làm cho hệ
thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hoạt động có
hiệu quả. Đây cũng chính là điều kiện bảo đảm nền tảng tư tưởng đổi mới ở
nước ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bảo đảm cho nguyên
tắc vận dụng phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong
thời kỳ quá độ. Đổi mới chính trị phải đảm bảo và thực hiện độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới chính trị ở nước ta, then chốt là đổi mới và chỉnh đốn về phương
thức tổ chức và hoạt động của Đảng, làm cho Đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới đất nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, đó là con đường quá độ lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn khó khăn và
chứa đựng đầy mâu thuẫn. Mâu thuẫn cơ bản của nó là mâu thuẫn giữa xu
hướng tự phát lên chủa nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội.
Phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn này mới bảo đảm yêu cầu của quá trình lịch
sử tự nhiên trong sự phát triển cách mạng nước ta, trong đó tính chủ động, sáng
tạo và tự giác của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định.
Đổi mới chính trị phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững được nền
tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngược lại, nếu đổi
mới mà xa rời nền tảng tư tưởng đó sẽ làm mất sự lãnh đạo độc tôn của Đảng
đối với công cuộc đổi mới dẫn đến mất ổn định chính trị, đổi mới không thành
công. Có thể khẳng định, ổn định về chính trị là điều kiện cần thiết cho sự phát
triển nền kinh tế thị trường, thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài. Sự ổn định
không có nghĩa là "đứng im", bất biến mà đó là sự vận động, đổi mới với
phương trâm từng bước có kế hoạch phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế xã
hội.
Đổi mới chính trị cần kết hợp một cách chặt chẽ và đồng bộ với đổi mới
nền kinh tế, giáo dục đào tạo, văn hóa…phải tiến hành đấu tranh kiên quyết,
thường xuyên và có hiệu quả, đấu tranh chống mọi tiêu cực của xã hội, đấu tranh
ngay trong bản thân từng ngành, từng lĩnh vực, từ trung ương đến địa phương.
2.2.3 Trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nó được thể hiện ở tầm cao và
chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt
đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, giữa xã hội với tự nhiên.
Trong Đại hội IX của Đảng, Đảng ta đã xác định văn hóa vừa là mục tiêu
vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hôị, để văn hóa phát huy được vai trò,
động lực phát triển kinh tế xã hội của đất nước và trở thành nền tảng tinh thần
của xã hội hiện đại thì không thể không đổi mới nền văn hóa. Đổi mới nền văn
hóa phải tuân theo nguyên tắc phát triển. Nguyên tắc này đòi hỏi khi xem xét
nền văn hóa phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng, phải
vạch ra cái tương lai trong cái hiện tại, tìm ra các nhân tố mới đang tiềm ẩn.
Trong quá trình đổi mới đó phải sử dụng những thành tựu khoa học công nghệ
hiện đại và những giá trị vật chất, tinh thần được nhân loại làm ra trong lịch sử,
để khắc phục tàn dư của nền văn hóa cũ, hướng tới nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
Trong điều kiện hiện nay có sự giao thoa của nhiều nền văn hóa khác
nhau thì công cuộc đổi mới nước ta, đặc biệt là đổi mới văn hóa thì cần quan
tâm, giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa đồng thời phải có sự kế thừa và phát
huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc; phải kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục những tư
tưởng tư sản, tiểu tư sản để mang lại những giá trị tư tưởng, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam.
2.2.4 Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Đại hội XI của Đảng coi ''giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát
triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam"1.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, yếu tố quan trọng làm nên
thắng lợi là con người. Chính vì vậy, đổi mới phát triển giáo dục và đào tạo cùng
với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục
và đào tạo là đầu tư phát triển.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo trước đây gặp không ít khó khăn, do chưa
có sự đầu tư xứng đáng, chưa có cơ sở vật chất cho việc dạy và học. Do vậy, đổi
1
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 77
mới giáo dục và đào tạo cần phải tuân thủ theo nguyên tắc toàn diện. Nguyên tắc
này đòi hỏi xem xét nền giáo dục trên tất cả mọi mặt, mọi phương diện, mọi mối
liên hệ, mọi cấp học kể cả những mắt khâu trung gian. Như vậy, đổi mới giáo
dục phải đặt trong mối liên hệ với các lĩnh vực khác để phát huy nhân tố con
người, đào tạo nhân tài cho quốc gia, tạo ra con người có đủ phẩm chất và năng
lực để phục vụ ngay chính công cuộc đổi mới ở nước ta.
Để nâng cao vai trò quyết định của con người và đảm bảo cho sự nghiệp
giáo dục đào tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu thì nhất thiết phải đổi
mới, hiện đại hóa giáo dục đào tạo. Đó phải là việc ứng dụng khoa học và công
nghệ vào trong giáo dục đào tạo để đổi mới toàn diện, triệt để hệ thống giáo dục
đào tạo trên tinh thần thấm nhuần sâu sắc tính nhân dân, tinh thần dân tộc và
tính hiện đại. Đổi mới đòi hỏi phải có nhân lực bậc cao, nhân lực đó không chỉ
có khả năng thích ứng nhanh với các tiến bộ khoa học và công nghệ, mà còn
phải thích ứng nhanh với các biến động nhiều mặt của xã hội. Chính phép biện
chứng duy vật sẽ giúp cho con người rèn luyện khả năng tư duy mềm dẻo, nhạy
bén, vừa là nhận thức để tự nhận thức bản thân mình, đồng thời nhận thức đúng
đắn và chính xác hoàn cảnh khách quan, dự báo được những biến động nhanh
chóng của xã hội.
Cần phải có chính sách phù hợp, có sự cải tổ nhất định đối với các cấp
học, bậc học, phải đổi mới trang bị, thiết bị hiện đại đến việc đổi mới chương
trình, nội dung giảng dạy, học tập và áp dụng công nghệ giáo dục đào tạo tiên
tiến; từ việc đào tạo đội ngũ giáo viên có kiến thức chuyên ngành sâu rộng, hiểu
biết nhiều về thực tiễn vận động của xã hôi, đổi mới công tác tổ chức, quản lý
giáo dục. Tóm lại, phải đổi mới toàn diện, dựa trên thực tiễn của sự nghiệp giáo
dục, đào tạo cho phù hợp, tránh đầu tư cho giáo dục một cách nhỏ giọt, giàn trải,
mà phải đổi mới từng khâu, từng bước rồi mới tiến dần đến toàn bộ.
2.2.5 Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Đại hội XI của Đảng khẳng định: khoa học và công nghệ giữ vai trò then
chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi
trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa Đảng ta đặc biệt coi trọng vai trò của
khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.
Trước đổi mới, nước ta đã bộc lộ những hạn chế trong mối quan hệ giữa triết
học và khoa học tự nhiên bị lỏng lẻo do không nắm bắt được các thành tựu của
khoa học tự nhiên hiện đại, do đó không kịp khái quát về mặt triết học những thành
tựu ấy để bổ sung vào kho tàng phép biện chứng. Nhận thức lỗi thời đã trở thành
vật cản sự phát triển khoa học kỹ thuật. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn giữa tình trạng
lạc hậu của nước ta với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trên
thế giới. Để giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi phải bám sát thực tiễn và tổng kết các
thành tựu khoa học, hình thành nên lý luận mới bổ sung vào lý luận phép biện
chứng. Đòi hỏi yêu cầu đặt ra cho nước ta phải thực hiện đổi mới trên lĩnh vực
khoa học và công nghệ. Đổi mới khoa học và công nghệ là quá trình sử dụng
những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại để xây dựng phát triển nó, làm cho
nó đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn xây dựng đất nước đặt ra.
Tóm lại, đổi mới là một quá trình phức hợp mà nội dung của nó được thể
hiện dưới những hình thức cụ thể đa dạng đổi mới kinh tế gắn liền với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới chính trị gắn với dân chủ hóa, đổi mới văn hóa
gắn với cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa. Vì vậy, không đồng nhất chúng với
nhau, cũng không được tác rời chúng, đối lập chúng. Mỗi hình thức có vị trí, vai
trò, nội dung nhất định, luôn tác động lẫn nhau để tạo nên sự phát triển của toàn
bộ xã hội.
2.3 Nghiên cứu phép biện chứng duy vật nâng cao trình độ đánh giá
công cuộc đổi mới ở nước ta
Vận dụng phương pháp lý luận phép biện chứng duy vật vào xem xét
đánh giá thực tiễn, để nhằm khắc phục những sai lầm khuyết điểm trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó, khắc phục những tư tưởng
phiến diện, chủ quan, nóng vội duy ý chí, đốt cháy giai đoạn.
Trước bối cảnh quốc tế, chủ nghĩa xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến cho đất nước
ta giai đoạn đó gặp rất nhiều khó khăn, thử thách làm cho sự phát triển của đất
nước gặp nhiều những bước quanh co. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
phát triển như vũ bão đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến khu vực và trong nước. Nó tác
động đến tất cả mọi mặt của đời sống xã hội. Hơn nữa, chủ nghĩa xã hội hiện
thực đã trải qua con đường không bằng phẳng, bên cạnh những thành tựu đạt
được còn những hạn chế vấp váphát triển, mà mắc không ít sai lầm, chậm đổi
mới, đổi mới không toàn diện, đánh giá sai lầm về vận động của thực tiễn xã
hội, dẫn đến bệnh giáo điều, rập khuôn, chủ quan, duy ý chí, quan liêu xa rời
quần chúng. Chúng ta cũng vậy, trong công cuộc xây dựng đất nước còn duy trì
cơ chế tập trung, quan liêu quá lâu, bộ máy nhà nước còn cồng kềnh…Chính vì
vậy, chúng ta phải đổi mới. Nhưng đổi mới như thế nào thì lý luận biện chứng
giúp chúng ta một cách nhìn tổng thể đối với sự vận động phát triển của xã hội.
Đứng trước tình hình như vậy, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có cách
xem xét, đánh giá khoa học hơn, tránh xem xét một chiều, phiến diện sẽ làm
người ta dễ hoang mang, dao động tư tưởng, dẫn đến phủ nhận tính tất yếu diệt
vong của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nội dung và tính chất của thời đại mà
chúng ta đang sống, tức là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Do đó, phương pháphát triển biện chứng duy vật đã có vai trò rất lớn lại
càng có vị trí quan trọng hơn, nó sẽ giúp Đảng và Nhà nước ta nhìn nhận bối
cảnh lịch sử thế giới một cách khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, đồng thời
xem xét nó trong trạng thái vận động, phát triển để từ đó thấy rõ được những bài
học kinh nghiệm xương máu. Trong đó, có những bài học kinh nghiệm về công
cuộc đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, bài học
về thất bại cũng có, thành công cũng có, để vận dụng vào điều kiện lịch sử cụ
thể ở nước ta hiện nay. Qua đó, giúp cho Đảng và Nhà nước ta mạnh dạn thực
hiện sự nghiệp đổi mới đất nước nhằm khắc phục những sai lâm, khuyết điểm
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Có thể nói, đổi mới xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một cuộc cách mạng khó khăn và phức
tạp. Vì vậy, cần nghiên cứu phép biện chứng duy vật để trang bị lý luận làm chìa
khóa, kim chỉ nam mở đường đi cho công cuộc mới giành thắng lợi.
Chính vì thế, Đảng ta đã có cách nhìn toàn diện mọi mặt đời sống xã hội
trong mối liên hệ mật thiết, tạo nên sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó là sự cộng hưởng của nhiều mặt, nhiều lĩnh vực tạo nên sức mạnh tổng hợp
giúp chúng ta thực hiện thắng lợi chặng đường đầu tiên, bước đi đầu tiên trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Nhận thức rõ điều đó, Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Tại các Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX
Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định và bổ sung, thể chế hóa bằng các chủ trương,
đường lối trên những lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, giáo dục, quốc phòng an ninh.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định: "chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng
và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa
chữa nhằm vận dụng tốt chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta. Muốn
thế, phải đấu tranh chống cái cũ, chống bảo thủ trì trệ, chống giáo điều rập
khuôn, chống chủ quan nóng vội, chống tha hóa biến chất, chống những thói
quen lỗi thời dai dẳng. Đây là cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, diễn ra trên
mọi lĩnh vực và trong bản thân từng người của chúng ta" 1. Thực tiễn đã chứng
minh quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi chúng ta phải đổi
mới trên nhiều mặt, đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách
làm việc, đổi mới tổ chức cán bộ …
Qua công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta thấy được vai trò quan trọng
của phép biện chứng duy vật với phương pháp biện chứng trong xem xét, đánh
giá thực tiễn cách mạng của nước ta, để từ đó có cách làm, cách đi phù hợp với
thực tiễn. Điều đó, đã góp phần đưa công cuộc đổi mới gặt hái được những
thành công đáng kể.
1
1. C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn Tập, Tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1994, tr. 8.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu phép biện chứng duy vật đối với quá trình
nhận thức công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
3.1 Ý nghĩa về lý luận của nghiên cứu phép biện chứng duy vật đối với
quá trình nhận thức công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Nghiên cứu phép biện chứng duy vật sẽ khắc phục được bệnh siêu hình,
chủ quan, duy ý chí, duy tâm, sai lầm tôn giáo. Do đó, trong quá trình nhận thức
và cải tạo thế giới, chúng ta không thể không nghiên cứu tìm hiểu phép biện
chứng duy vật, tư duy biện chứng. Bởi phép biện chứng duy vật trang bị cho ta
phương pháphát triển luận chung nhất để xem xét sự vật một cách chung nhất,
bản chất nhất cả trong xã hội, tự nhiên và tư duy. Nhờ đó, con người càng đi sâu
và nhận thức thế giới, khám phá những bí mật thế giới làm phong phú sâu sắc tri
thức của mình về thế giới. Thông qua đó, con người có cách nhìn biện chứng về
thực tiễn để khái quát thành lý luận và sau đó lại quay về cải tạo thực tiễn.
Ngày nay công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi phải có quan điểm
biện chứng, tư duy biện chứng, cách nhìn xem xét sự vật và vận dụng vào thực
tiễn ở nước ta để rút ra được lý luận đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn đặt ra thì lý luận của phép biện
chứng duy vật đóng góp một phần đắc lực vào công cuộc đổi mới của nước ta,
giúp cho Đảng ta có cách nhìn toàn diện, tránh khỏi những cực đoan, sai lầm
như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, bệnh chủ quan mà phải hiểu rõ được mối quan
hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Như vậy, nghiên cứu phép biện chứng
duy vật có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thông qua nghiên cứu ý nghĩa phương
pháp luận của phép biện chứng duy vật giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những mâu
thuẫn đó. Đây chính là biện chứng khách quan của quá trình đổi mới. Mâu thuẫn
cơ bản nhất đó là nhu cầu tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội với tình trạng kinh tế
xã hội còn thấp kém, trong đó mâu thuẫn cơ bản của xã hội quá độ là mâu thuẫn
giữa cái cũ đã mất đi nhưng chưa mất hẳn với cái mới được hình thành nhưng
chưa hình thành xong xuôi. Một mâu thuẫn cơ bản khác nữa là mâu thuẫn giữa
yêu cầu của công cuộc đổi mới với tình trạng thiếu giá đỡ về mặt lý luận. Như
vậy, đổi mới không phải là giản đơn. Đổi mới phải là con đường quanh co, phức
tạp, đầy rẫy những khó khăn nhiều giai đoạn, nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Đổi
mới phải từng bước đi lên đồng bộ, toàn diện. Để giải quyết được bài toán này
đòi hỏi Đảng ta phải có tư duy biện chứng khoa học, lấy phương pháp luận phép
biện chứng làm cơ sở. Đổi mới phải thực hiện đồng thời các nội dung cơ bản của
công cuộc đổi mới đất nước.
Muốn có một cách nhìn bao quát nhất, tổng quát để có thể khái quát thành
chủ trương chính sách, cụ thể hóa thành đường lối lãnh đạo của Đảng, không thể
nào khác ngoài triết học mà cụ thể là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng
duy vật trang bị cho chúng ta phương pháp luận biện chứng, để lý giải các vấn
đề xã hội nảy sinh. Ý nghĩa của phép biện chứng duy vật không chỉ tồn tại trong
quá trình đổi mới mà còn có sức sống trường tồn của chủ nghĩa xã hội, cùng với
sự phát triển đất nước, thực tiễn đổi mới sẽ bổ sung và phát triển thêm lý luận
đó. Với ý nghĩa như vậy phép biện chứng duy vật luôn là mạch sống chảy mãi
trong lòng chảy của quá trình vận động, phát triển của công cuộc đổi mới của
cách mạng Việt Nam. Nhờ sức sống như vậy phép biện chứng duy vật ăn sâu,
bám rễ vào trong tư tưởng của Đảng ta, trang bị cách nhìn toàn diện, bao quát
tình hình thế giới và tình hình trong nước, để từ đó chúng ta có bước đi phù hợp
với sự phát triển của thế giới.
Để thực hiện công bằng xã hội, mọi người ai cũng được hạnh phúc, ấm no
Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổimới tiếp tục thực hiện ba cuộc cách mạng:
cách mạng về quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, cách mạng về tư tưởng văn
hóa, trong đó cách mạng quan hệ sản xuất là quan trọng nhất. Tiến hành nó phải
đòi hỏi toàn tâm, toàn lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Mỗi ngành
khoa học đều có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới, phép biện chứng
duy vật với tính chất là một khoa học cũng có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với
công cuộc đổi mới ở nước ta. Trước hết, khi nói đến ý nghĩa và sự cống hiến của
phép biện chứng duy vật là thường nói đến phương pháp luận biện chứng đối
với sự nghiệp đổi mới. Phép biện chứng duy vật cung cấp cho chúng ta một lý
luận khoa học để lý giải về thế giới, về thực tiễn ở Việt Nam. Nó cung cấp một
cách nhìn tổng quát, không phiến diện về thực trạng của thực tiễn trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Trong thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay, chúng ta khó có thể thấy hết ý
nghĩa của phép biện chứng duy vật đối với xã hội. Thực tiễn lịch sử đã chứng
minh, phép biện chứng duy vật đã đóng góp phương pháp luận khoa học cho
những cuộc cách mạng vĩ đại. Và chính phương pháp đó giúp cho công cuộc đổi
mới của nước ta vững chắc hơn và ổn định hơn. Bản thân phương pháp không
được biểu hiện một cách chung chung, nó được thể hiện rõ nhất thông qua Đảng
đại diện cho lợi ích của nhân dân, hoạch định chính sách và những người chỉ đạo
hoạt động thực tiễn. Công cuộc đổi mới được tiến hành như thế nào, cách thức
và những bước đi của nó ra sao trước hết là do những người hoạch định và chỉ
đạo thực tiễn. Mặt khác, bản thân phép biện chứng duy vật là sự biểu hiện lý
luận duy nhất, tổng quát nhất trên tất cả các lĩnh vực. Cho nên, ý nghĩa của nó
thể hiện rõ hơn ở tầm hoạch định đường lối, tức là lý luận soi đường cho hoạt
động thực tiễn. Do vậy, phải có tư duy biện chứng đúng đắn thì những người
làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn mới có thể
đưa ra những quan điểm, những bước đi và biện pháp phù hợp trong công cuộc
đổi mới, đồng thời chỉ đạo việc thực hiện các chủ trương đó một cách hiệu quả.
Khi tổng kết bài học của hơn 20 năm đổi mới Đảng ta đã khẳng định kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Đây là một khái quát
mới khoa học phù hợp với lý luận của phép biện chứng duy vật. Sự sáng tạo của
Đảng ta thể hiện ở đường lối đổi mới, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt. Đổi mới
giữ vững các nguyên tắc coi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởn, kim chỉ nam mọi hành động, nhưng lại không máy móc, giáo
điều. Đổi mới những không đổi màu, kiên trì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc