Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân lao động ở việt nam hiện nay vấn đề và giải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.25 KB, 64 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời khi những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hòa được. Nhà nước sử dụng quyền lực để áp đặt lợi ích của
giai cấp thống trị lên toàn xã hội. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, quyền
lực nhà nước mang bản chất là quyền lực nhân dân, do nhân dân ủy quyền.
Chính vì nhân dân ủy quyền nên nhân dân có quyền kiểm soát quyền lực đó.
Bên cạnh tính ủy quyền, quyền lực nhà nước còn có tính cưỡng chế tạo
cho nhà nước sức mạnh hợp pháp duy nhất trong xã hội. Song chẳng có đảm
bảo nào cho rằng mọi sự can thiệp của nhà nước sẽ mang lại lợi ích cho xã
hội. Độc quyền nhà nước về cưỡng chế giúp nhà nước đảm bảo thực thi
nhiệm vụ của mình có hiệu quả, nhưng nếu sự độc quyền mà không có cơ
quan kiềm chế sức mạnh ấy thì có thể tạo cơ hội cho những công chức thực
hiện những lợi ích riêng của mình hay những người thân cận của họ làm ảnh
hưởng đến lợi ích chung. Từ đó dẫn đến những khả năng kiếm lời, tham
nhũng là khó tránh khỏi. Do vậy, đòi hỏi quyền lực nhà nước phải được nhân
dân kiểm soát.
Trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, vấn
đề kiểm soát quyền lực nhà nước đã được nhà nước quan tâm nhưng hiệu quả
của sự kiểm soát còn hạn chế. Dẫn đến những vấn đề bức xúc của xã hội hiện
nay như: tình trạng mất dân chủ trong đảng, sự thoái hóa phẩm chất của một
số cán bộ đảng viên, sự vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, tình trạng tham
nhũng... xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực của bộ máy nhà nước từ lập pháp, hành
pháp cho đến cả các cơ quan bảo vệ luật pháp như tòa án, viện kiểm soát,
công an... là minh chứng cho sự kém hiệu quả của kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam. Vì vậy, cần phải có một cơ chế kiểm soát quyền lực toàn
diện, cơ chế kiểm soát không chỉ trong nhà nước mà cả ngoài nhà nước trong
đó quan trọng là sự kiểm soát của nhân dân.
Nhân dân tham gia vào kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề



cấp thiết đặt ra đối với Việt Nam. Nhận thức được tính tất yếu đó, trong
những năm gần đây, chủ trương nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của
bộ máy Đảng và Nhà nước được đặt ra như nhu cầu bức thiết của quá trình
dân chủ hóa xã hội ở Việt Nam. Và trong các văn kiện Đại hội của Đảng gần
đây đã khẳng định: kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước
và giám sát của nhân dân. Nhưng trên thực tế, quyền dân chủ, quyền giám sát
của nhân dân hiện nay nhiều khi còn mang tính hình thức. Do vậy, kết quả đạt
được không như mong muốn. Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý,
mở rộng dân chủ xã hội đang là đòi hỏi cấp thiết. Cho nên việc tăng cường
giám sát quyền lực Nhà nước của nhân dân có ý nghĩa vô cùng to lớn trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Từ những lý do trên, tôi thấy vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở
nước ta hiện nay mang tính cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Do đó, tôi
chọn “Kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân lao động ở Việt Nam
hiện nay - vấn đề và giải pháp” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cơ chế nhân dân tham gia vào kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề
sống còn đối với sự tồn tại của một chế độ. Nhận thức sâu sắc vấn đề này,
Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ra đời.
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, bài viết của các tác giả
nghiên cứu về lĩnh vực này cụ thể:
Tác giả Trần Ngọc Liêu với bài viết “Tư tưởng quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh” đăng trên Tạp chí Cộng Sản số 1(122)
năm 2007. Trong bài viết, tác giả tập trung phân tích quan niệm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về việc xác lập quyền lực Nhà nước ta luôn luôn thuộc về nhân
dân lao động và phải bảm đảm quyền lực ấy như thế nào.
Tác giả Trịnh Thị Xuyến với cuốn sách: “Kiểm soát quyền lực nhà



nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”. Do nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia phát hành năm 2008. Đề tài đã phần nào làm sáng rõ
quyền lực nhà nước là gì và việc giám sát quyền lực nhà nước được thực hiện
như thế nào. Từ đó, tác giả đi vào phân tích thực tiễn của Việt Nam, tổng kết
được những thành tựu để phát huy và tìm ra mặt hạn chế để xây dựng những
giải pháp khắc phục.
Tác giả Nguyễn Đăng Dung với công trình: “Sự hạn chế quyền lực nhà
nước”. Cuốn sách do Nhà xuất bản Đại học quốc gia phát hành vào năm 2005.
Cuốn sách đã trả lời cho câu hỏi “vì sao phải hạn chế quyền lực nhà nước?”
và đáp án được tác giả cuốn sách này gói gọn trong 2 chữ: “con người”. Con
người, một khi trở thành chủ thể của quyền lực, tất yếu sẽ có xu hướng lạm
quyền, lấn át quyền lợi của người khác; nhưng cũng chỉ có con người mới có
khả năng tìm ra cơ chế để kìm dây cương quyền lực và mục tiêu cao nhất của
việc hạn chế quyền lực nhà nước, không thể nào khác hơn, vẫn luôn là bảo vệ
nhân quyền - quyền con người. Trên cơ sở luận giải tính tất yếu của việc hạn
chế quyền lực nhà nước, tác giả cuốn sách đã đề xuất và phân tích một cách
tổng thể các phương thức hạn chế quyền lực nhà nước từ nhiều góc độ khác
nhau. Một loạt các vấn đề có liên quan đã được trình bày theo một trình tự
thống nhất, gắn kết chặt chẽ với nhau nhằm giải quyết vấn đề làm thế nào để
hạn chế quyền lực nhà nước.
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Đăng Dung còn giới thiệu cuốn sách “Bàn
thêm vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phân
quyền và phối kết hợp thực hiện giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”. Cuốn sách được Nhà xuất bản Hành chính phát hành tháng 8/2009.
Trong cuốn sách, tác giả đã làm rõ và khẳng định quyền lực nhà nước phải
thống nhất nhưng có sự phân công và phối kết hợp thực hiện giữa ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, tác giả nhấn mạnh: cho dù nhà
nước được tổ chức theo mô hình nào đi chăng nữa thì hành pháp vẫn can
thiệp sang lĩnh vực lập pháp và lập pháp là nhu cầu của hành pháp. Đó là một



quy luật của việc tổ chức quyền lực nhà nước thời hiện đại mà chúng ta trong
việc tiếp thu các kinh nghiệm của các nước trên thế giới không thể bỏ qua.
Tác giả Cao Văn Thống với cuốn sách: “Tăng cường kiểm tra, giám sát
phục vụ nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng”. Cuốn sách được Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành vào tháng 11/2009. Cuốn sách là tập hợp
các bài viết của tác giả đã dược đăng trên các tạp chí Kiểm tra, tạp chí Xây dựng
Đảng, tạp chí Văn phòng cấp ủy, tạp chí Lịch sử Đảng, báo Nhân Dân...về lý
luận và thực tiễn của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Tác giả Đào Trí Úc đã viết cuốn sách: “Cơ chế giám sát của nhân dân
đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”. Cuốn sách do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản và phát
hành năm 2010. Cuốn sách là những kết quả nghiên cứu chủ yếu của Đề tài
KX 10-07 “Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”. Trong cuốn sách các giả đã tập trung làm rõ vai trò của nhân dân
trong việc giám sát hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước và các thiết chế
tổ chức trong hệ thống chính trị; từ đó đánh giá đúng thực trạng về sự tham
gia của nhân dân trong việc giám sát cũng như thực trạng của các cơ chế và
các hình thức giám sát các hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị
nước ta...
Tập thể các tác giả: Nguyễn Minh Đoan, Bùi Thị Đào, Trần Ngọc Định,
Trần Thị Hiền, Lê Vương Long, Nguyễn Văn Năm, Bùi Xuân Phái cũng đã
nghiên cứu vấn đề quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước qua
công trình: “ Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước”. Cuốn
sách được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phát hành vào năm 2009. Trong
cuốn sách, các tác giả đã làm rõ khái niệm quyền lực nhà nước, sự thống nhất
và phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đồng thời
các tác giả chỉ ra những nguy cơ dẫn đến sự tha hóa quyền lực, những căn

bệnh mà các cán bộ nhà nước dễ mắc phải như tham nhũng, lãng phí, hách


dịch cửa quyền, tham quyền cố vị... khi không có sự kiểm tra, giám sát chặt
chẽ các nhân viên trong bộ máy công quyền ấy.
Ngoài ra, còn có rất nhiều luận văn, luận án nghiên cứu vấn đề trên như:
Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Minh Hội: “Nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay”.
Luận văn đã đi vào làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực trạng của nguyên tắc tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhân dân trong pháp luật tổ chức và
hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Từ đó, luận văn đã
xác định được các quan điểm tiếp tục bảo đảm nguyên tắc này.
Luận văn thạc sĩ của Dương Bá Thành: “ Vấn đề kiểm soát quyền lực
nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Luận văn đã đưa ra kiến giải
bước đầu về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Từ cơ chế, hoàn thiện
cơ chế; phương thức hoạt động, đến việc xác định khâu đột phá trong việc
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Các công trình trên đã đưa ra được những đánh giá khái quát, những
giải pháp mang tính định hướng chung của việc kiểm soát quyền lực, nhưng
chưa đi sâu vào vấn đề nhân dân kiểm soát quyền lực như thế nào. Vì vậy, đề
tài của tôi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề về sự kiểm soát của nhân dân lao
động đối với quyền lực nhà nước.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1 . Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước của
nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó chỉ ra những mặt tích
cực và hạn chế. Đồng thời xây dựng những phương hướng, giải pháp để khắc
phục hạn chế yếu kém, nâng cao hơn nữa hoạt động kiểm soát của nhân dân
đối với quyền lực Nhà nước.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở mục tiêu trên, đề tài có mấy nhiệm vụ sau đây:


− Giải quyết lý luận chung về kiểm soát quyền lực nhà nước
− Phân tích thực trạng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân
dân lao động ở Việt Nam hiện nay
− Đề ra các phương hướng và giải pháp nâng cao sự kiểm soát quyền
lực nhà nước của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 . Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài dựa trên các
quan điểm cảu Mác – Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam.
- Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và thực thi quyền lực nhà
nước, về công tác kiểm tra, kiểm soát.
- Các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử, lôgic, phân tích, thống
kê, tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn và một số phương pháp chuyên
ngành và liên ngành khác.
- Phương pháp luận: đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử làm phương pháp luận cho việc nhiên cứu
- Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề tài sử dụng phương pháp lý luận và phương pháp khoa học kết hợp
với phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá...
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
ba chương, sáu tiết.



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm “Quyền lực nhà nước” và “Kiểm soát quyền lực nhà nước
của nhân dân lao động”
1.1.1. Khái niệm “Quyền lực nhà nước
Dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau, đã có nhiều quan niệm về quyền
lực nhà nước. Nhiều người thường cho rằng, quyền lực nhà nước là quyền lực
chính trị của giai cấp thống trị được thực hiện bằng nhà nước.
Có quan điểm cho rằng: “Quyền lực nhà nước là khả năng sử dụng nhà
nước để thực hiện ý chí của giai cấp thống trị (hoặc của nhân dân) buộc xã hội
phải phục tùng ý chí đó”. [ 6, tr. 290].
Có quan điểm lại cho rằng: “Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai
cấp thống trị được thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau của một hệ thống
chuyên chính do giai cấp đó lập ra” [24]. Theo quan điểm này thì quyền lực
của giai cấp thống trị được thực hiện bằng nhà nước, các đảng phái chính trị,
các đoàn thể chính trị của quần chúng đều gọi là quyền lực nhà nước. Với
quan điểm này, có thể hiểu rằng, quyền lực nhà nước không phải thực hiện
trực tiếp bằng nhà nước, các đảng phái chính trị, các đoàn thể của quần chúng
mà là bằng những “công cụ” của hệ thống đấy.
Trong quá trình nghiên cứu của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin
rất chú ý phân tích quyền lực công cộng và quyền lực nhà nước. Các ông đã
thu được những kết quả đồ sộ:
“ Nếu như quyền lực xuất hiện sớm trong lịch sử, xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của con người, với những hoạt động mang tính chất cộng đồng của
xã hội loài người, thì quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước xuất hiện muộn
hơn. Nó ra đời cùng với sự ra đời của chế độ tư hữu, xã hội có giai cấp và đối
kháng giai cấp” [25, tr. 65].
Vậy, quyền lực nhà nước là hình thức biểu hiện tập trung của quyền lực



chính trị. Quyền lực công kết hợp với quyền lực chính trị của các giai cấp
trong toàn xã hội chủ yếu là của giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Quyền lực
nhà nước được tổ chức thành bộ máy nhà nước, còn các giai cấp khác không
chiếm địa vị thống trị về kinh tế, sẽ không có đại diện quan trọng trong bộ
máy nhà nước. Vậy là quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ quyền lực công,
và do đó, quyền lực nhà nước phải thuộc về người chủ đích thực của nó là
đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Vì quyền lực nhà nước có mối quan hệ sâu sắc với quyền lực công. Nên
để nhận thức sâu sắc hơn về khái niệm quyền lực nhà nước, thiết nghĩ cần
phải phân biệt rõ quyền lực nhà nước và quyền lực công cộng:
*Quyền lực công cộng (quyền lực xã hội): Theo luật tự nhiên, con
người phải liên kết với nhau thành cộng đồng xã hội và xã hội lại cần đến
quyền lực chung, nhờ đó, một cộng đồng có thể phối hợp, duy trì và đảm bảo
mọi hoạt động chung trong đời sống xã hội, bảo vệ cộng đồng khỏi sự xâm
hại từ bên ngoài. Quyền lực công cộng là quyền lực của mọi thành viên trong
xã hội, được nảy sinh từ cộng đồng và nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cả
cộng đồng đó. Nó mang tính phổ biến, vĩnh viễn và không mang tính giai cấp.
Quyền lực công cộng là yêu cầu khách quan của bất kỳ cộng đồng xã hội nào.
Trong một phạm vi xã hội rộng lớn, có biên giới lãnh thổ thì quyền lực công
cộng của một quốc gia là quyền lực nhà nước.
*Quyền lực nhà nước: về hình thức là quyền lực chung của xã hội, là
quyền lực công cộng, nhưng cái thể hiện quyền lực công đó bao giờ cũng bị
quy định, chi phối bởi giai cấp hay lực lượng xã hội thống trị, nghĩa là, về
thực chất quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền.
Quyền lực đó được sinh ra từ những mâu thuẫn đối kháng giai cấp, hay nói
cách khác, không có đối kháng giai cấp thì không có quyền lực nhà nước. Mặt
khác, bản thân quyền lực nhà nước có mâu thuẫn bên trong của nó. Trong
quyền lực nhà nước có sự đan xen nhất định của quyền lực chính trị của giai

cấp cầm quyền với quyền lực chính trị của một số giai cấp khác trong xã hội


Tóm lại, nguồn gốc ra đời của quyền lực nhà nước chính là sự ra đời
của chế độ tư hữu dẫn đến xã hội có phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp.
Còn quyền lực công cộng ra đời khi con người ra đời và cần đến sự cố kết
cộng đồng để chống lại những nguy cơ xâm hại đến lợi ích của họ. Và sự
khác nhau lớn nhất của quyền lực công cộng và quyền lực nhà nước chính là
tính giai cấp. Quyền lực nhà nước bao giờ cũng mang tính giai cấp, bị quy
định bởi giai cấp thống trị. Ngược lại, quyền lực công cộng thì không mang
tính giai cấp.
Như vậy, có thể định nghĩa quyền lực nhà nước như sau: Quyền lực nhà
nước là một bộ phận và trung tâm của quyền lực chính trị, là quyền lực chính
trị của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng nhà nước.
1.2.1 Khái niệm “Kiểm soát quyền lực nhà nước”
Trong nguồn gốc ngữ nghĩa, kiểm soát (control) được cấu tạo bởi hai
âm vị: contre ( đối lập, đối trọng, chống lại, đương đầu) và rol ( vai trò). Trên
lĩnh vực chính trị – xã hội, khái niệm kiểm soát chứa đựng nội hàm khá phong
phú: gồm xem xét, kiểm tra, thanh tra, ngăn chặn, can thiệp, xử lý, trừng phạt.
Về mặt lịch sử, hành động kiểm soát ban đầu được áp dụng trong lĩnh vực
kinh tế – tài chính, sau đó nó được mở rộng, phát triển cùng với sự phát triển
của nhà nước pháp quyền. Ban đầu, nó chỉ được áp dụng nhằm kiểm soát
quyền lực hành pháp, sau đó được mở rộng ra mọi nhánh quyền lực khác.
Ngày nay, khái niệm kiểm soát được hiểu là một chức năng hiến định nhằm
mục đích đảm bảo rằng các cơ quan quyền lực công đều bị đặt trong giới hạn
mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Chức năng kiểm soát được thể hiện
bằng nhiều biện pháp, hình thức đa dạng: ủy quyền, chấp thuận, xác minh,
kiểm tra, xử phạt, phê bình. Các thiết chế kiểm soát được tổ chức theo hệ
thống gồm nhiều cấp nhằm đảm bảo sự minh bạch, chính xác của hành động
kiểm soát.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là một khái niệm chính trị – pháp lý và
thể chế, bao hàm sự hạn chế nhất định đối với quyền lực chính trị; là một


trong những nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền. Kiểm soát quyền
lực nhà nước là vấn đề rất phức tạp. Sự phức tạp của kiểm soát quyền lực nhà
nước xuất phát từ đặc tính của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước
không phải là quyền lực của cá nhân ủy quyền cho cá nhân, mà là quyền lực
của tập thể ủy thác cho cá nhân. Vì vậy, tập thể kiểm soát những người được
ủy quyền như thế nào là một vấn đề khó khăn.
Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bằng nhiều cách khác
nhau, nhưng chủ yếu được thể hiện theo hai dạng: kiểm soát bằng thể chế bên
trong nhà nước (Kiểm soát bằng Hiến pháp và pháp luật; sự kiềm chế lẫn
nhau của các nhánh quyền lực; Sự tự kiểm soát bên trong nhà nước) và kiểm
soát bằng các thể chế bên ngoài nhà nước chính là sự kiểm soát của nhân dân
và xã hội (kiểm soát bằng các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận xã
hội, các tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức phi chính phủ, các nhóm đại
diện tiến hành). Ngoài ra, còn có kiểm soát quyền lực bằng các yếu tố như:
tập quán, truyền thống...
Do vậy, kiểm soát quyền lực là một hệ thống những cơ chế được thực
hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm giữ cho quyền lực nhà nước được thực thi
đúng mục đích và hiệu quả.
Như vậy, khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước bao hàm hệ thống
các cơ chế. Nếu như xem kiểm soát quyền lực là khái niệm chung, thì cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước được hiểu là khái niệm riêng, giữa chúng có
mối liên hệ biện chứng với nhau. Mỗi cơ chế có cách thức quy trình vận hành
cụ thể để kiểm soát quyền lực nhà nước trên một lĩnh vực, phạm vi nhất định
1.2. Các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
Ngay từ thời cổ đại, tư duy chính trị học phương Tây đã đề cập đến vấn
đề kiểm soát quyền lực chính trị thông qua cách thức tổ chức quyền lực nhà

nước. Aixtôt là người đầu tiên nêu ra phương thức phân quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp, sau đó là hàng loạt các nhà tư tưởng vĩ đại như John Lốc cơ
đã kế thừa tư tưởng này, và đỉnh cao là Môngtexkiơ đã tổng kết lên thành học


thuyết tam quyền phân lập. Phát triển đến đỉnh cao chính là nguyên tắc quyền
lực tập trung thống nhất nhưng có sự phân công, phối kết hợp với nhau...
Như vậy, đã từ rất lâu kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhu cầu
khách quan trong xã hội có giai cấp và là một nội dung quan trọng của nhà
nước pháp quyền. Ví dụ như nhà nước Aten vào năm 461 TCN hay chính
quyền Pericles đã thành lập hội nghị nhân dân, cơ quan có chức năng như cơ
quan lập pháp hiện nay và phải họp ít nhất 10 lần mỗi năm để nghe các báo
cáo các công việc và để biểu quyết các vấn đề quan trọng của đất nước... Đây
có thể là hình thức ban đầu, sơ khai nhất của kiểm soát quyền lực nhà nước
trong lịch sử thế giới.
Đến thời kỳ nhà nước tư sản, việc kiểm soát quyền lực chính trị, chủ
yếu là quyền lực nhà nước bắt đầu có một cơ chế pháp định chặt chẽ. Đến
nay, tuy tồn tại một số đặc điểm riêng biệt do các điều kiện kinh tế – xã hội,
văn hóa, chính trị cụ thể quyết định, nhưng giữa các nhà nước thuộc cùng
chính thể, việc kiểm soát quyền lực nhà nước cũng có nhiều điểm chung. Các
phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam thường được thực
hiện theo các hình thức sau:
1.2.1. Sự kiểm soát từ bên trong nhà nước
a. Kiểm soát bằng Hiến pháp, pháp luật
Trong xã hội dân chủ, Hiến pháp được coi là bản giao kèo giữa nhân
dân và nhà nước, nó thể hiện ý chí của nhân dân có ý nghĩa là một đạo luật tối
cao buộc toàn bộ xã hội phải thực hiện. Nhà nước chỉ có quyền trong phạm vi
mà Hiến pháp quy định, nếu vượt quá phạm vi quyền hạn cho phép thì sẽ bị
trừng phạt. Chính vì Hiến pháp là một đạo luật tối cao nên nó tham gia đắc
lực vào hạn chế quyền lực của nhà nước.

Thứ nhất, Hiến pháp giới hạn phạm vi quyền lực nhà nước bằng cách
quy định những gì nhà nước được phép làm và không được phép làm thông
qua những đạo luật cụ thể... Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới đã xây dựng
tòa án Hiến pháp để đảm bảo việc thực hiện đúng theo Hiến pháp.


Thứ hai, Hiến pháp quy định những quyền tự do cơ bản của con người
như: quyền tự do, ấm no và mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do tôn giáo, tín
ngưỡng...
Thứ ba, Hiến pháp tham gia vào hạn chế những mục tiêu của nhà nước
bằng cách ràng buộc nhà nước bằng những quy định...
Vậy, sử dụng những luật lệ, quy định là một trong những biện pháp
kiểm soát quyền lực nhà nước đang phát huy tốt vai trò của nó.
b. Sự kiểm soát của chính bản thân nhà nước
Nhà nước là đối tượng kiểm soát của nhân dân, nhưng nhà nước cũng là
đối tượng kiểm soát của chính mình. Cách thức nhà nước tự kiểm soát mình
như thế nào là tùy vào mỗi thể chế, mỗi chế độ. Sự kiểm soát của chính nhà
nước thường được thể hiện qua các cách thức sau:
Một là, Sự tách bạch giữa chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ngay từ thời cổ đại, tư duy chính trị phương Tây đã đề cập đến vấn đề
kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua cách thức tổ chức quyền lực nhà
nước. Arixtôt là người đầu tiên đưa ra cách thức phân quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sau đó, rất nhiều nhà tư tưởng đã nối tiếp quan điểm này của
ông, đến Môngtexkiơ là người tổng kết và đưa ra quan niệm khá đầy đủ về
cách thức phân chia này. Vì ông cho rằng: “Nếu quyền lập pháp và quyền
hành pháp đều nằm trong tay một người, tay một viện nguyên lão thì sẽ không
còn tự do nữa vì chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành
một cách độc tài. Cũng không có gì tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi
quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp và lập pháp nhập lại với
nhau thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống, quyền tự do của công dân;

Quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành
pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp” [5, tr. 100].
Ở Việt Nam thì quyền lực nhà nước không phân chia thành ba nhánh
quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp mà quyền lực lại tập trung. Nhưng
sự tập trung không có nghĩa là độc quyền. Để hạn chế sự độc quyền thì quyền


lực nhà nước ở Việt Nam có sự phân công, phân cấp và phối kết hợp để hoạt
động có hiệu quả.
Hai là,Cơ chế kiềm chế đối trọng của nhà nước.
Thực tế cho thấy, quyền lực càng nhiều mà trách nhiệm hay nói đúng ra
là sự kiểm soát ít thì càng dễ dẫn đến chuyên quyền, lộng quyền. Các nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng quyền lực chỉ có thể kiểm soát bằng quyền lực, do vậy,
khi quyền lực đã được ủy nhiệm cho một cơ quan thì tối thiểu phải có một cơ
quan khác có quyền lực để phủ quyết hoặc ngăn cản hoạt động của người đại
diện đó.
Đối với cơ quan lập pháp thì cơ quan tư pháp sẽ nắm quyền kiểm soát
thông qua việc giám sát xem cơ quan lập pháp có làm đúng theo chức trách,
nhiệm vụ của mình không, có làm theo đúng Hiến pháp và pháp luật không.
Xây dựng một cơ chế bảo Hiến để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Nhưng ở
Việt Nam còn đang thiếu một cơ chế này nên quá trình giám sát của cơ quan
tư pháp vẫn chỉ hạn chế ở việc giám sự thực hiện của công dân...
Đối với cơ quan hành pháp
Thì càng cần phải có cơ chế kiểm soát quyền lực của nhánh hành pháp.
Bởi lẽ, quyền hành pháp do chính phủ đảm nhiệm là quyền lực nhà nước về tổ
chức thực thi quyền lực, đưa pháp luật vào đời sống xã hội, mọi hoạt động
của Chính phủ luôn trực tiếp đụng chạm đến mọi ngóc ngách của đời sống xã
hội, của các lợi ích thiết thân nhất của người dân. Là nơi tập trung quyền lực,
tài sản, tiền tài của quốc gia, nên khi thực thi quyền hành pháp, luôn có xu
hướng lạm dụng quyền lực, vi phạm đến lợi ích của nhân dân.

Theo nguyên tắc phân quyền, quyền lực nhà nước được phân thành ba
nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Kiểm soát quyền lực nhà nước là
kiểm soát quyền lực của cả ba nhánh này. Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào,
vấn đề kiểm soát quyền lực của nhánh quyền hành pháp luôn là trọng tâm
trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Vì thế, cần phải có sự kiểm soát
chặt chẽ nhánh quyền lực này thông qua việc tăng cường các thiết chế kiểm


tra, giám sát đối với hoạt động của Chính phủ. Ở Việt Nam, để kiểm soát
quyền lực của nhánh này tốt hơn thì đã xây dựng các cơ chế đối trọng với
nhánh quyền lực này
Thứ nhất, là sự giám sát của cơ quan lập pháp thông qua quyền bỏ
phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của chính phủ; Thông qua xem xét
báo cáo, chất vấn của các đại biểu Quốc hội; Thông qua hoạt động của Ủy
ban thường vụ Quốc hội và sự giám sát của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội. Vì Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có chức năng
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động nhà nước, trong đó lĩnh vực Quốc
hội cần thực hiện sự giám sát chặt chẽ nhất là tổ chức và hoạt động của Chính
phủ. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của Quốc hội trong thời gian qua cho
thấy, các công cụ giám sát mà pháp luật dành cho Quốc hội rất ít khi được
Quốc hội sử dụng trên thực tế. Bên cạnh đó, dù Hiến pháp quy định Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ đều phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội,
nhưng chịu trách nhiệm về cái gì và chịu trách nhiệm đến đâu, hậu quả pháp
lý của việc chịu trách nhiệm như thế nào, thì đều chưa có quy định cụ thể.
Do đó, để Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ một cách hiệu
quả và thực chất hơn, trước hết cần thiết lập cơ chế hoạt động của Chính phủ
trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân của từng
thành viên Chính phủ. Hiến pháp hiện hành chỉ quy định: “Quốc hội có quyền
bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hay phê chuẩn
và trong trường hợp người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm không được quá

nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm, thì Quốc hội sẽ xem xét quyết định
việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hay phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức người
đó” [ 15, điều 13]. Như vậy, pháp luật nước ta mới dành cho Quốc hội quyền
bất tín nhiệm đối với cá nhân từng thành viên của Chính phủ, mà chưa có quy
định nào đặt ra trách nhiệm tập thể của Chính phủ sẽ như thế nào khi thành
viên của mình bị bất tín nhiệm. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền, cần xây dựng Chính phủ theo hướng là một tập thể thống nhất dưới sự


điều hành của Thủ tướng cùng chịu trách nhiệm và từng thành viên của Chính
phủ cũng phải chịu trách nhiệm về những lĩnh vực quản lý của mình và Thủ
tướng là người chịu trách nhiệm cuối cùng về mọi hoạt động của Chính phủ.
Việc tăng cường trách nhiệm tập thể của Chính phủ nên được quy định bằng
một quy phạm trong Hiến pháp xác định rõ: “trong trường hợp quá nửa tổng
số thành viên Chính phủ hoặc Thủ tướng bị bất tín nhiệm thì Chính phủ phải
từ chức tập thể” để Quốc hội thành lập Chính phủ mới. Bên cạnh đó, để Quốc
hội giám sát Chính phủ được hiệu quả hơn thì Nhà nước Việt Nam đã giao
thêm cho Quốc hội nhiều phương tiện giám sát, cụ thể là thiết lập các cơ quan
chuyên môn giúp Quốc hội đảm trách công việc này như Cơ quan Điều tra
hành chính trực thuộc Quốc hội và Ủy ban Kế toán công cộng. Ủy ban kế
toán công cộng
Thứ hai, là sự giám sát của cơ quan tư pháp thông qua hoạt động của
tòa án Hiến pháp đối với hành pháp. Sự giám sát đó “thực chất là vấn đề mối
quan hệ kiểm tra, giám sát giữa tư pháp với hành pháp nhưng đây không phải
là sự kiềm chế của tư pháp đối với hành pháp” [29, tr. 436]. Hiện nay, thẩm
quyền giám sát và bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan thực hiện
nên đã có tình trạng không xác định rõ phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của từng
cơ quan. Điều này dẫn đến hiện tượng đùn đẩy, chồng chéo trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát và
bảo vệ Hiến pháp. Vì vậy, việc nghiên cứu để sớm thành lập Tòa án Hiến

pháp để hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam và cũng góp phần hỗ trợ đắc
lực cho việc tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát đối với Chính phủ là
một nhu cầu bức thiết ở nước ta.
Như vậy, xét riêng với nhánh quyền hành pháp, sự xuất hiện của Tòa án
Hiến pháp sẽ tác động đến nhánh quyền lực này trên hai phương diện chính:
Một là, xem xét và phán quyết tính hợp hiến của các văn bản quy phạm
pháp luật do Chính phủ ban hành
Hai là, phán quyết đối với hành vi của cán bộ, công chức nhà nước xâm


phạm đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và
tham gia luận tội các quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước, đối với
Chính phủ là từ hàm Bộ trưởng trở lên
Sự tồn tại của Tòa án Hiến pháp sẽ kết hợp được việc giải quyết các vụ
việc cụ thể, đồng thời giải quyết cả những việc có tác dụng chung cho toàn xã
hội và không chỉ riêng các chủ thể đặc biệt, mà ngay cả các công dân cũng có
quyền đề nghị, yêu cầu Tòa án phán quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền. Do
vậy, nó sẽ có tác dụng rất to lớn trong việc bảo đảm Hiến pháp sẽ được tôn
trọng, các quyền công dân sẽ được bảo đảm, các quyết định của Chính phủ
nếu trái pháp luật sẽ bị hủy bỏ, các quan chức hành chính có xâm phạm đến
lợi ích của nhân dân phải bị đưa ra xét xử. Cùng với Quốc hội, Tòa án Hiến
pháp cũng là một cơ chế kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước đối với Chính
phủ. Việc áp dụng tốt cơ chế kiểm soát này là một trong những biểu hiện của
việc tiếp thu hạt nhân hợp lý của cơ chế “kiềm chế - đối trọng” được sử dụng
rất rộng rãi và thường mang lại hiệu quả lớn trong việc giám sát Chính phủ ở
các nước phát triển.
Thứ ba, cơ quan hành pháp cũng chịu sự chi phối, giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc thực hiện việc giám sát hoạt động
của các đại biểu dân cử, đặc biệt là các đại biểu đảm trách chức vụ trong bộ
máy hành pháp; Đối với việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước

thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm thường xuyên tiến hành các
hoạt động tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân thông qua các tổ chức chính
trị - xã hội, phản ánh để Đảng Cộng sản xem xét trong quá trình xây dựng,
hoạch định chính sách để chính sách của Đảng phù hợp với quy luật khách
quan và hợp với lòng dân. Mặt trận Tổ quốc là người thay mặt cho nhân dân
thuộc mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội nói lên tiếng nói phản biện đối với
các chính sách của Đảng, giúp Đảng và Chính phủ nhận thấy những sai sót,
hạn chế trong quá trình điều hành đất nước.
Đối với cơ quan tư pháp thì chịu sự giám sát của cơ quan lập pháp


thông qua việc bầu ra cơ quan tư pháp tối cao, và quyết định tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong đó có tòa án, viện kiểm sát...
Ba là, các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước khác trong bộ máy nhà
nước.
Đó là cơ chế tự kiểm soát của Quốc hội. Quốc hội giám sát chặt chẽ đối
với đại biểu Quốc hội về chỉ tiêu của từng đại biểu. Hiến pháp năm 1992, sửa
đổi bổ sung quan trọng, Quốc hội “bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người
giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” [10, tr. 42-43]. Cơ chế kiềm
chế và phản biện trong quá trình lập pháp của Quốc hội để làm tăng tính cẩn
trọng, hợp lý và khoa học của một đạo luật.
Đó là cơ chế tự kiểm soát quyền lực của chính phủ thông qua hệ thống
thanh tra, bao gồm thanh tra nhà nước và các cơ quan thanh tra bộ, ngành là
công cụ đắc lực của chính phủ, giúp chính phủ quản lý và kiểm soát bộ máy
hành chính.
Đó còn là cơ chế tự kiểm soát của quyền lực tư pháp. Cơ quan tư pháp
chỉ có thể vô tư và công bằng khi xét xử, khi nhà nước đặt ra và đảm bảo các
điều kiện nhất định. Đó là các quy định về quy trình tố tụng, tòa án xét xử
công khai, sự độc lập và nhiệm kỳ bền vững của thẩm phán, chế độ lương
bổng cao, thẩm phán xét xử theo lương tâm.

Như vậy, sự kiểm soát của nhà nước hay chính là cơ chế kiểm soát bên
trong nhà nước là một cơ chế quan trọng, mà nhà nước cần sử dụng kết hợp
với các cơ chế khác để tạo hiệu quả kiểm soát quyền lực cao nhất.
1.2.2 Kiểm soát từ bên ngoài nhà nước
a. Sự kiểm soát của nhân dân và xã hội
Nhân dân là chủ thể tối cao, là chủ thể đã ủy quyền cho nhà nước nên
việc nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của đối tượng mà mình ủy quyền
là hoàn toàn tất yếu. Nhân dân tham gia vào kiểm soát quyền lực nhà nước đã
được đề cập từ rất sớm, nó ra đời ngay từ thời cổ đại thông qua việc bầu cử...
Sự kiểm soát của nhân dân với nhà nước được thể hiện thông qua những nội


dung sau:
Thứ nhất, sự kiểm soát của nhân dân thông qua bầu cử nhiệm kỳ. Ví
dụ bầu cử Hội đồng trưởng lão ở nhà nước Aten...Ph.Ăngghen luôn nhấn
mạnh không chỉ dưới chế độ quân chủ mà ngay cả dưới chế độ cộng hòa nhà
nước vẫn là nhà nước, tức là vẫn luôn biến những công bộc của xã hội thành
những ông chủ của xã hội: “...Để ngăn ngừa sự chuyển hóa ấy của nhà nước
và các cơ quan nhà nước, từ chỗ là công bộc của xã hội thành ông chủ đứng
trên đầu xã hội – sự chuyển hóa không thể tránh được từ trước đến nay, trong
tất cả các chế độ công xã đã áp dụng hai biện pháp rất chính xác. Thứ nhất tất
cả các chức vụ quản lý, tư pháp, giáo dục nhân dân đều giao cho những người
đầu phiếu phổ thông bầu ra, ngoài ra các cử tri có quyền bãi miễn bất cứ lúc
nào những người mình bầu ra” [11, tr. 95-96]
Sự kiểm soát của nhân dân thông qua bầu cử là điều kiện để một chế độ
có thể tồn tại được. Tuy nhiên, các cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu không
thích hợp với tư cách là sự kiểm soát bên ngoài đối với chính quyền đó là:
Sự kháng cáo của nhân dân thường xuyên phóng đại những khuyết
điểm của chính phủ, làm giảm sự tôn trọng cần thiết đối với chính phủ, dễ dẫn
đến mất ổn định...

Những người được nhân dân bầu thường là những người gần dân nhất
nên có ưu thế hơn đối với những người làm hành pháp và tư pháp...
Thực chất các cuộc bầu cử thông thường là theo lợi ích đảng phái.
Đa số năng lực xét đoán của nhân dân là dựa vào cảm tính nên nhiều
khi kết quả của bầu cử chưa hẳn đã hoàn toàn đúng.
Vậy làm thế nào để nhân dân tham gia tích cực trong việc bầu cử và lại
xóa đi được những hạn chế nói trên là vấn đề nan giải. Cần phải được giải
quyết.
Thứ hai, kiểm soát của nhân dân thông qua các chế định Hiến pháp.
Nhân dân sẽ có quyền phúc quyết Hiến pháp, quyền quyết định các vấn đề
quan trọng của quốc gia theo trình tự pháp lý nhất định. Nhân dân có quyền


bãi miễn đối với các đại biểu mà họ đã bầu khi không còn xứng đáng. Nhân
dân cũng có quyền thay đổi Hiến pháp, và quyết định các vấn để quan trọng
của quốc gia thông qua trưng cầu dân ý.
Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát này cũng không khắc phục được hoàn toàn
mà chỉ góp phần hạn chế quyền lực nhà nước mà thôi.
Thứ ba, kiểm soát xã hội dân sự
Xã hội dân sự là xã hội có tổ chức được thành lập một cách tự nguyện,
tự chủ, tự giác. Chúng có quy tắc chung là hoạt động vì tổ chức mà chúng đại
diện. Ngày nay, sự tham gia ngày càng nhiều của xã hội dân sự vào quá trình
hoạch định chính sách, giải quyết trật tự xã hội của nhà nước. Góp phần giảm
bớt gánh nặng công việc cho nhà nước, giảm bớt chi phí cho nhà nước nhưng
đồng thời cũng tạo sức ép cho nhà nước trong việc thực thi nhiệm vụ của
mình phải làm đến nơi và hiệu quả. Sự ra đời và tham gia của xã hội dân sự
chính là sự thúc đẩy dân chủ, khả năng tự trị của công dân và xã hội.
Xã hội dân sự có thể đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và
củng cố nền dân chủ. Vai trò của nó không phải là quyết định, thậm chí không
phải là quan trọng nhất. Nhưng sự tham gia của xã hội dân sự sẽ giúp cân

bằng các căng thẳng giữa nó và nhà nước, giữa tự trị và hợp tác, giữa bài bác
và trung thành.
Ngoài ra, chúng ta cần nên tiếp nhận một số vấn đề và các thuật ngữ
của phương Tây vào trong bộ máy nhà nước như: Vận động hành lang...Để
giúp các cán bộ nhà nước có thể tiếp xúc với nhiều vấn đề mà với vị trí hiện
tại của họ khó tiếp cận được một cách đầy đủ (tham nhũng cục bộ của cấp
dưới; các chính sách ban hành đã tỏ ra không phù hợp, các dự án treo...).
b.Giám sát của nhân dân thông qua phương tiện thông tin đại
chúng, công luận.
Truyền thông đại chúng là hoạt động chuyển giao các thông tin có tính
phổ biến trong xã hội một cách rộng rãi và công khai thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng. Truyền thông đại chúng có chức năng to lớn. Đặc


biệt là trong thời đại ngày nay, thời đại của công nghệ thông tin thì chức năng
của truyền thông càng phát huy cao độ, đó là chức năng thông tin, chức năng
giáo dục, định hướng dư luận xã hội, chức năng tổng kết huy động lực lượng
và đặc biệt là chức năng tổ chức, quản lý, giám sát và phản biện xã hội. Đây
là chức năng quan trọng của truyền thông đại chúng nó quyết định sự tiến bộ
hay hạn chế của chính hệ thống truyền thông. Xã hội càng phát triển thì chức
năng này càng được phát huy, do đó nó trở thành cơ sở và động lực cho một
xã hội dân chủ và tiến bộ.
Thông qua truyền thông đại chúng nhân dân có thể nắm bắt kịp thời
những hoạt động của nhà nước và cả hoạt động của cả thế giới, từ đó thấy
được những gì mà nhà nước đang làm có đúng, có phù hợp với xu thế của thế
giới hay không. Qua truyền thông đại chúng nhân dân có thể phát huy quyền
làm chủ của mình tốt hơn cũng hạn chế được sự tha hóa quyền lực của nhà
nước...
Ngoài ra, còn là sự kiểm soát bằng đạo đức, bằng nhân phẩm của chính
những người cán bộ Đảng và nhà nước, bằng truyền thống của dân tộc...

Qua trên ta thấy sự kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước
là sự kiểm soát tất yếu đảm bảo cho sự tồn tại của xã hội dân chủ.
Tóm lại, vấn đề kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát quyền lực
nhà nước nói riêng lầ vấn đề phức tạp, khó khăn. Đòi hỏi phải kiên trì, nỗ lực
và sự kết hợp giữa nhà nước và nhân dân cùng tham gia.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Với bản chất dân chủ, cách mạng và tính nhân dân, các thiết chế chính
trị và quyền lực của chúng ta đều tự đặt mình dưới sự giám sát của nhân dân.
Trong Hiến pháp năm 1980 đã quy định: “Tất cả các cơ quan Nhà nước
và nhân viên Nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch,
cửa quyền”. (Điều 8) và đối với các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân:
“Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân,
nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” ( Điều 7)
Để thực hiện được sự giám sát của nhân dân lao động đối với bộ máy
Đảng và Nhà nước, Hiến pháp và pháp luật đã quy định các quyền của công
dân như: quyền tự do ngôn luận, báo chí, quyền được thông tin...Chính nhờ
theo hướng đó mà nhân dân ngày càng phát huy vai trò kiểm tra, giám sát cơ
quan công quyền của mình.
2.1 . Kiểm soát của nhân dân thông qua bầu cử
2.1.1 Thực trạng:
Có rất nhiều cách hiểu về bầu cử. Nhưng tôi xin đưa ra cách hiểu về
bầu cử như sau: Bầu cử là hành vi lựa chọn của công dân (cá nhân) theo một
cách thức nhất định (bỏ phiếu hoặc biểu quyết) để xác định những người đại
diện nhằm thực hiện một nhiệm vụ cụ thể hay chức năng nào đó trong một cơ

cấu xã hội nhất định. Bầu cử là một hiện tượng xã hội.
Bầu cử là một trong số những hình thức để nhân dân kiểm soát được
quyền lực nhà nước của mình, và có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi, bầu cử
không chỉ là biện pháp dân chủ để thành lập ra nhà nước mà còn là một
phương thức để kiểm soát quyền lực nhà nước. Nếu quyền bầu cử của nhân


dân được thực hiện một cách dân chủ, thực chất thì bộ máy nhà nước cùng
các quan chức của nó được kiện toàn một bước, là cơ hội để loại bỏ những
quan chức tham nhũng, độc đoán chuyên quyền, và là phương thức để nhân
dân giao quyền, ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhờ giới hạn của một nhiệm
kỳ xác định (5 năm) do Hiến pháp và luật quy định.
Bầu cử ở Việt Nam hiện nay gồm 2 khâu:
*Thứ nhất là bầu cử Quốc Hội:
Lịch sử hình thành và phát triển đất nước cho đến nay thì có thể thấy
rằng mốc đánh dấu sự làm chủ đầu tiên của nhân dân sau mấy mươi năm nô lệ
đó là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên vào năm 1946.
Cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên diễn ra khi nước ta chưa có
Luật bầu cử và Hiến pháp, nhưng ngày 17/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký Sắc lện số 51 quy định thể lệ cuộc tổng tuyển cử, ấn định ngày 23/12/1945
sẽ mở cuộc tổng tuyển cử trong toàn quốc. Trên cơ sở Sắc lệch số 51 , ngày
22/11/1945 Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 63, ngày 22/12/1945 Người đã ký
Sắc lệnh số 77 về tổ chức chính quyền nhân dân ở các địa phương. Sắc lệnh
đã khảng định chính quyền địa phương đều do dân lập nên thông qua bầu cử ở
địa phương: “ Hội đồng nhân dân do dân bầu ra theo lối phổ thông và trực
tiếp đầu phiếu là cơ quan thay mặt cho dân”( Điều 1/ SL 77). Tất cả các công
dân Viêt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, không thuộc một
trong ba hạng kể trong Điều thứ 2, đoạn 2,3,4 của Sắc lệnh số 51 ngày
17/10/1945 về thể lệ cuộc Tổng tuyển cử quốc dân đại hội đều có quyền bầu
cử Hội đồng nhân dân thành phố, nếu nguyên quán ở thành phố hay trú ngụ ở

thành phố 3 tháng trở lên; Các công chức hay binh lính có quyền bầu cử ở
thành phố mình đến đóng hay làm việc, không cần phải trú ngụ quá 3 tháng.
Và tất cả những người đủ điều kiện để đi bầu cử quốc dân đại hội theo Điều
thứ 2 Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 đều có quyền ứng cử vào Hội đồng
nhân dân thành phố.
Những Sắc lệnh nêu trên, được coi là những văn bản pháp luật đầu tiên


về bầu cử ở nước ta. Đây cũng là lần đầu tiên nhân dân được tự mình quyết
định, tự mình lựa chọn, ủy quyền cho người đại diện vào cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương đều do dân lập ra và phục vụ lợi ích của dân.
Cách đây hơn 60 năm, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên theo nguyên tắc
dân chủ, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã thành công rực rỡ, bầu ra Quốc hội đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày nay là nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sự ra đời và phát triển của Quốc hội là kết quả của quá trình đấu tranh
cách mạng và gắn liền với sự phát triển của đất nước ta trong suốt hơn 60 năm
qua. Ngay trong những ngày đầu khi Cách mạng Tháng Tám vừa mới thành
công, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, gian nan, thử thách, cuộc bầu cử
Quốc hội đầu tiên được tổ chức vào ngày 6/1/1946 ở khắp các tỉnh thành với
89% cử tri trong cả nước đi bầu và lựa chọn được 333 đại biểu của mình vào
Quốc hội, trong đó có 34 đại biểu các dân tộc thiểu số và 57% đại biểu các
đảng phái khác nhau. Tính dân chủ trực tiếp ngày càng thể hiện rõ hơn trong
các cuộc bầu cử sau này. Quốc hội khoá XI được bầu ngày 19/5/2002 có 498
đại biểu trúng cử với số cử tri đi bầu đạt tỷ lệ 99,73%, cao nhất từ trước đến
nay. Quốc hội do toàn dân trực tiếp bầu ra và có cơ cấu thành phần rộng rãi
luôn phản ánh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phản ánh tiếng nói và quyền lực
của nhân dân. Thông qua các đại biểu của mình cũng như các hình thức hoạt
động của Quốc hội, quyền làm chủ của người dân ngày càng được tôn trọng
và phát huy. Cũng vì thế, vai trò, vị thế cũng như uy tín của Quốc hội ngày

càng được nâng cao. Trong đợt bầu cử vừa qua của nhiệm kỳ 2011 – 2016,
cả nước có 63 tỉnh, thành phố có 91.438 khu vực bỏ phiếu với 183 đơn vị bầu
cử đại biểu Quốc hội. Đến thời điểm bỏ phiếu, có 827 ứng viên tranh cử đại
biểu Quốc hội
*Thứ hai là bầu cử Hội đồng nhân dân
Thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân chính thức được ban hành thành Luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 26/12/1983 tại kỳ họp thứ 6 Quốc


hội khóa VII.
Trước đó, thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân được quy định bằng Sắc
lệnh số 004- SL ngày 20/7/1957 của Chủ tịch nước và các Pháp lệnh của Ủy
ban thường vụ Quốc hội; Pháp lệnh về bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp
ngày 18/1/1961. Pháp lệnh năm 1961 đã xây dựng được những quy định
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng chính quyền
địa phương như:
Các chính đảng, đoàn thể nhân dân có thể riêng biệt hoặc liên hiệp giới
thiệu nguời ra ứng cử. Cá nhân có quyền tự ra ứng cử
Hội đồng bầu cử phải lập danh sách những người ứng cử theo đơn vị
bầu cử và công bố danh sách đó ít nhất 20 ngày trước ngày bầu cử...
Sau đó, các Hiến pháp sau này đã hoàn thiện quy chế bầu cử Hội đồng
nhân dân các cấp cho phù hợp với điều kiện toàn cầu hóa như ngày nay. Sự ra
đời của Luật bầu cử Hội đồng nhân dân năm 1994 đã góp phần quan trọng
vào việc tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1994 –
1999 và nhiệm kỳ 1999 – 2004. Tiếp đó là sự ra đời của Luật bầu cử Hội đồng
nhân dân năm 2003 đã điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quyền bầu cử và ứng
cử góp phần hoàn thiện quy chế bầu cử một cách dân chủ hơn. Vì thế, trong
các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân gần đây, số người tự ứng cử tăng lên rõ
rệt; cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004 – 2009, ở 64 tỉnh, thành
phố sau khi kết thúc Hội nghị hiệp thương lần thứ 3 là 77 người, chiếm tỷ lệ

1,27% (tăng 59 người so với cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân năm 1999 – chỉ
có 18 người, năm 1994 là 35 người). Trong khóa bầu cử 2011- 2016, cả nước
có 64 tỉnh, thành phố có 91.438 khu vực bỏ phiếu trong đó có 1.045 đơn vị
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Đến thời điểm bỏ phiếu, 5.965
ứng viên đại biểu HĐND cấp tỉnh.
Số lượng cử tri đi bầu ngày càng tăng lên cả nước có khoảng 62 triệu
cử tri đi bầu nhiệm kỳ 2011 – 2016. Tính đến 15h chiều 22/5/2011, số lượng
cử tri đi bầu đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm


kỳ 2011 – 2016 của TPHCM đạt 90,19%, 29 đơn vị bầu cử đạt 100% số cử tri
đi bầu. Tính đến 20h ngày 22/5/2011 đã có rất nhiều tỉnh thành đã đạt gần
100% cử tri đi bầu như: Lai Châu, Hà Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn..., không
có vấn đề bất thường trong suốt quá trình bầu cử. Công tác kiểm phiếu đã
được tiến hành ngay trong đêm.
Tại TP HCM, tính đến 20h ngày 22/5/2011, tổng số cử tri đi bầu là hơn
4.776.000 người đạt 99,8%. Đặc biệt, huyện Củ Chi đã hoàn thành bầu cử
trước thời gian quy định và đạt 100% cử tri đi bầu
Cử tri hiện nay có trình độ nhận thức về mọi mặt ngày càng cao. Do đó,
họ đòi hỏi cao hơn đối với ứng cử viên, với các cơ quan bầu cử và hệ thống
chính trị. Họ không chấp nhận lối thông tin một chiều, thiếu chính xác, những
lời hứa suông, những cách làm áp đặt, thiếu minh bạch, mất dân chủ... của
những người, những cơ quan có chức có quyền. Họ đòi hỏi dân chủ thực sự,
được tôn trọng và bình đẳng...
Ví dụ: Trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1999 2004 nhân dân đã phát hiện và yêu cầu thay đổi những thành viên của các tổ
chức phụ trách bầu cử không đủ năng lực, phẩm chất; nhân dân đã phát hiện
28 điểm bầu cử vi phạm nghiêm trọng Luật bầu cử và đã kiên quyết đề nghị
tổ chức phụ trách bầu cử hủy kết quả bầu cử.
Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004 – 2009, có 25 khu vực
bỏ phiếu và 6 đơn vị bầu cử thuộc 11 tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Hải Phòng,

Nam Định, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Đăck
Nông, Nghệ An, Bắc Kạn đã xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật, có nơi vi
phạm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kết quả bầu cử.
Như vậy, nhân dân trở thành những chiếc “camera” giám sát ở khắp
mọi nơi đối với hoạt động của các đại biểu.
2.1.2 Thành tựu
Qua hơn 60 năm, ta thấy được nhà nước ta đã có những quy định về
quy chế bầu cử ngày càng hợp với nguyện vọng và mong muốn của nhân dân.


×