PHIẾU MÔ TẢ DỰ ÁN DỰ THI
1. Tên tình huống: Vận dụng kiến thức các môn sinh học, toán học, địa lí, DGCD và
kiến thức đời sống vào việc: “Sử dụng hợp lí thuốc bảo vệ thực vật ở cây trồng ở địa
phương em”
2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Trong lĩnh vực trồng trọt, thuốc bảo vệ thực vật có vai trò rất quan trọng trong
việc giữ vững năng suất, chất lượng cây trồng, đảm bảo an ninh lương thực. Tuy
nhiên rất nhiều người dân có kiến thức hạn chế về các loại hoạt chất trong thuốc bảo
vệ thực vật, dẫn tới tình trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thiếu hiệu quả và an
toàn, ngày càng xuất hiện tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật đem đến nhiều hệ
lụy tác hại cho sản xuất, môi trường, sức khỏe cộng đồng, đe dọa sự phát triển bền
vững của nông nghiệp. Nhất là bà con nông dân ở các vùng nông thôn mà cụ thể là ở
địa phương em. Với kiến thức hiểu biết của bản thân, em thử làm một tuyên truyền
viên về việc tuyên truyền cho người dân ở địa phương em sử dụng hợp lí thuốc bảo vệ
thực vật trong nông nghiệp
II. Bài viết nội dung gồm:
- Khái niệm thuốc bảo vệ thực vật, các dạng thuốc bảo vệ thực vật
- Tác hại của thuốc bảo vệ thực vật
- Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ở Việt Nam
- Những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
- Biện pháp hạn chế các tác hại của thuốc bảo vệ thực vật
- Ý nghĩa của việc tích hợp kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề thực tế
III. Giải pháp giải quyết vấn đề thực tiễn:
Vận dụng các kiến thức liên môn:
- Công nghệ: Biết được mặt lợi, mặt hại của thuốc bảo vệ thực vật, biết sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật hợp lí
- Toán học: thống kê số liệu tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
- Địa lí : Biết được sự ô nhiễm môi trường do thuốc bảo vệ thực vật gây ra, biết được
hiện tượng nóng lên của trái đất
- Sinh học: Biết thế nào là “đấu tranh sinh học”
- Giáo dục công dân: tuyên truyền nâng cao ý thức thực hiện sử dụng hợp lí thuốc bảo
vệ thực vật để góp phần bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng
chống thiên tai
- Ngữ văn: biết cách thuyết minh, biểu cảm
- Tin học: sưu tầm thông tin, hình ảnh về thuốc bảo vệ thực vật
IV. Bài viết
1. Định nghĩa và phân loại thuốc bảo vệ thực vật
1.1 Định nghĩa thuốc bảo vệ thực vật.
Thuốc bảo vệ thực vật là các loại hợp chất hóa học, là những chế phẩm sinh
học, là những chất có nguồn gốc động thực vật được khuyến cáo sử dụng để bảo vệ
cây trồng và nông sản cho bà con, được sử dụng để chống lại sự phá hoại của các vi
sinh vật gây hại cho cây trồng
thuốc trừ bệnh
.
Ngoài tác dụng phòng trừ sinh vật gây hại ra, thuốc bảo vệ thực vật còn có tác
dụng điều hòa sinh trưởng thực vật như: các chất làm rụng lá, khô cây giúp cho việc
thu hoạch mùa màng thêm thuận tiện. Ngoài ra những chế phẩm còn có tác dụng xua
đuổi hoặc thu hút các loại sinh vật gây hại đến tài nguyên thực vật đến để tiêu diệt.
Còn ở một số nước, người ta định nghĩa thuốc bảo vệ thực vật có tên gọi là
thuốc trừ dịch hại. người ta gọi vậy là do thuốc trừ dịch hại là vì những vi sinh vật gây
hại cho cây trồng và nông sản có một tên chung là những dịch hại vì vậy những chất
dùng để tiêu diệt trừ chúng được gọi là thuốc trừ dịch hại.
1.2. Phân loại thuốc bảo vệ thực vật
Tùy theo từng thành phần công dụng của thuốc người ta chia thuốc bảo vệ
thành các nhóm như:
Thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh, thuốc trừ cỏ dại, thuốc trừ nhện hại cây, thuốc
trừ chuột,…
Mỗi nhóm thuốc bảo vệ thực vật chỉ có thể trừ được một loài dịch hại nhất
định.
Thuốc BVTV đang được sử dụng trên thị trường rất đa dạng về chủng loại,
phong phú về sản phẩm. Tính đến năm 2010, riêng các loại thuốc sử dụng trong nông
nghiệp, theo thống kê:
- Thuốc trừ sâu: 437 hoạt chất với 1.196 tên thương phẩm.
- Thuốc trừ bệnh: 304 hoạt chất với 828 tên thương phẩm.
- Thuốc trừ cỏ: 160 hoạt chất với 474 tên thương phẩm.
- Thuốc trừ chuột: 11 hoạt chất với 17 tên thương phẩm.
- Thuốc điều hòa sinh trưởng: 49 hoạt chất với 118 tên thương phẩm.
- Chất dẫn dụ côn trùng: 6 hoạt chất với 8 tên thương phẩm.
- Thuốc trừ ốc: 19 hoạt chất với 91 tên thương phẩm.
- Chất hỗ trợ (chất trải): 5 hoạt chất với 6 tên thương phẩm.
2. Tác hại của thuốc bảo vệ thực vật
Đối với người, khi được sử dụng không đúng cách, thuốc bảo vệ thực vật sẽ
gây nhiễm độc cấp tính: Bỏng mắt cấp tính, hủy hoại da, ảnh hưởng thần kinh, gan.
Khi bị nhiễm độc mãn tính sẽ ảnh hưởng đến tủy xương (thiếu máu bất sản và loạn
tạo máu); ảnh hưởng đến sinh sản (vô sinh ở nam, sảy thai, thai dị dạng...); gây độc
thần kinh; ảnh hưởng đến cơ chế miễn dịch... Cơ thể con người bị nhiễm độc thuốc
bảo vệ thực vật biểu hiện ở nhiều mức độ: giảm sút sức khỏe, gây rối loạn các hoạt
động ở hệ thần kinh, tim mạch, tiêu hóa hô hấp, bài tiết, gây các tổn thương bệnh lý ở
các cơ quan, hệ thống nói trên từ mức độ nhẹ tới nặng, thậm chí tàn phế hoặc tử vong.
Do đó theo dõi sức khỏe có hệ thống khi tiếp xúc thường xuyên với thuốc bảo vệ thực
vật là rất cần thiết. Đối với môi trường xung quanh, thuốc bảo vệ thực vật diệt cả
những côn trùng và động vật hữu ích cho con người, có thể làm biến đổi thế cân bằng
tự nhiên của hệ sinh thái gây ô nhiễm đất, nước, không khí. Các thuốc trừ sâu tồn dư
lâu, không bị phân hủy ở trong đất và trong nước có thể làm cho động vật, cây trồng
sống ở đó bị nhiễm thuốc lâu dài, con người ăn các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi
bị nhiễm thuốc trừ sâu hằng ngày một cách gián tiếp, lâu ngày sẽ có hại cho sức khỏe.
Các hóa chất của thuốc bảo vệ thực không chỉ gây ra tác hại lớn đối với con
người, sinh vật, hệ sinh thái, môi trường sống mà nó là một trong những nguyên nhân
tạo ra biến đổi khí hậu gây ra nhiều hậu quả năng nề cho toàn cầu: hiệu ứng nhà kính,
nhiệt độ trái đất nóng lên, băng tan ra ở bắc cực, khí hậu cực đoan ngày càng phát
triển, bệnh tật xuất hiện nhiều,...
3. Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ở Việt Nam
Trong lĩnh vực trồng trọt, thuốc BVTV có
vai trò rất quan trọng trong việc giữ vững năng
suất, chất lượng cây trồng, đảm bảo an ninh lương
thực. Tuy nhiên, bà con nông dân thường có kiến
thức hạn chế về các loại hoạt chất trong thuốc
BVTV, dẫn tới tình trạng sử dụng thuốc BVTV
thiếu hiệu quả và an toàn, làm tăng chi phí sản
xuất và nguy cơ mất an toàn thực phẩm, ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe và môi trường.
Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở nước ta đến năm 2013 đã lên tới
1.643 hoạt chất, trong khi, các nước trong khu vực chỉ có khoảng từ 400 đến 600 loại
hoạt chất, như Trung Quốc 630 loại, Thái Lan, Malaysia 400-600 loại.
Hầu hết thuốc BVTV tại Việt Nam đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nếu như
trước năm 1985 khối lượng hóa chất BVTV dùng hàng năm khoảng 6.500 - 9.000 tấn
thì trong 03 năm gần đây, hàng nămViệt Nam nhập và sử dụng từ 70.000 - 100.000
tấn, tăng gấp hơn 10 lần. Các loại thuốc BVTV mà Việt Nam đang sử dụng có độ độc
còn cao, nhiều loại thuốc đã lạc hậu.
Từ năm 2006 đến nay, Việt Nam nhập khẩu bình quân trên 70.000 tấn thành
phẩm hàng năm với trị giá từ 210 - 774 triệu USD. Trên 90% thuốc BVTV được nhập
khẩu từ Trung Quốc. Bên cạnh đó, tình trạng thuốc giả, nhái và thuốc nhập lậu tràn
lan trên thị trường cũng là một vấn đề “nhức nhối” trong vấn đề quản lý và sử dụng
thuốc BVTV.
Theo kết quả điều tra, thống kê về các điểm tồn lưu hóa chất BVTV từ năm
2007 đến năm 2009 đã phát hiện 1.153 khu vực gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn
35 tỉnh, thành phố. Trong số này, có khoảng 864 khu vực môi trường đất bị ô nhiễm
do hóa chất BVTV tồn lưu trên địa bàn 17 tỉnh, thành phố và 289 kho hóa chất bảo vệ
thực vật tồn lưu trên địa bàn 35 tỉnh, thành phố. Trong đó, 189 khu vực bị ô nhiễm
đặc biệt nghiêm trọng và ô nhiễm nghiêm trọng, 87 khu vực bị ô nhiễm và 588 khu
vực đất có ô nhiễm hóa chất BVTV tồn lưu nhưng vẫn chưa đánh giá chi tiết mức độ
ô nhiễm.
Kết quả điều tra mới đây nhất của các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương đã
phát hiện thêm 409 khu vực bị ô nhiễm môi trường do hóa chất BVTV tồn lưu. Hầu
hết nằm ở địa bàn các tỉnh miền Bắc và miền Trung.
Một nghiên cứu của Viện Môi trường nông nghiệp Việt Nam cho thấy lượng
thuốc BVTV còn bám lại trên vỏ bao bì bình quân chiếm 1,85% tỷ trọng bao bì.
Trong khi đó, người dân hoàn toàn không có ý thức xử lý lượng thuốc BVTV còn tồn
lại trên vỏ bao bì. Có tới hơn 65% những người dân được hỏi khẳng định họ vứt vỏ
bao bì ngay tại nơi pha thuốc.
Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, có tới 80% thuốc bảo vệ thực vật tại
Việt Nam đang được sử dụng không đúng cách, không cần thiết và rất lãng phí.
Cục Bảo vệ thực vật- Bộ NN&PTNT cho biết, kết quả thanh, kiểm tra tình hình
sử dụng thuốc BVTV trong thời gian gần đây đối với 13.912 hộ nông dân sử dụng
thuốc BVTV, thì có đến 4.167 hộ (chiếm 29,9%) sử dụng thuốc BVTV không đúng
quy định như không đảm bảo lượng nước, không có bảo hộ lao động, sử dụng thuốc
BVTV không đúng nồng độ, liều lượng, bao bì sau khi sử dụng vứt bừa bãi không
đúng nơi quy định… Các vi phạm chủ yếu là người nông dân không có phương tiện
bảo hộ lao động, sử dụng thuốc BVTV không đúng nồng độ, liều lượng, bao bì vứt
bừa bãi không đúng nơi quy định…
Đối với các cơ sở buôn bán thuốc BVTV, qua tra kiểm tra tại 12.347 cơ sở, cơ
quan chức năng cũng phát hiện 1.704 cơ sở vi phạm quy định, chiếm 13,8%. Các
hành vi vi phạm chủ yếu là không có chứng chỉ hành nghề, không có giấy phép kinh
doanh, buôn bán thuốc BVTV ngoài danh mục, kém chất lượng, hết hạn sử dụng…
Hiện đại đa số nông dân vẫn dựa vào thuốc BVTV hóa học là chính, tỷ lệ sử
dụng thuốc sinh học đạt rất thấp. Trong khi đó, các mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
an toàn, hiệu quả trong BVTV chậm được nhân rộng... nên việc mất an toàn khi sử
dụng thuốc BVTV vẫn tồn tại từ rất lâu cho đến nay.
Thực tế, hiện nay dịch vụ về hoạt động BVTV đã phát triển khá mạnh ở nhiều
địa phương, song hiệu quả vẫn còn hạn chế. Theo điều tra năm 2014 của Cục BVTV
(Bộ NN&PTNT), cả nước có khoảng trên 600 tổ dịch vụ BVTV, nhưng chủ yếu chỉ
thực hiện việc... phun thuốc (chiếm trên 60%), còn dịch vụ trọn gói từ điều tra sâu
bệnh, cung ứng, phun thuốc thuê còn rất thấp (chỉ đạt 2,6%).
Với lượng thuốc BVTV sử dụng rất lớn, ô nhiễm môi trường do hóa chất
BVTV tồn lưu gây ra tại Việt Nam đang trở nên ngày một nghiêm trọng hơn.
4. Những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
- Sử dụng thuốc quá nhiều, quá mức cần thiết. Theo Phạm Văn Lầm - 2000, số
lần phun thuốc bảo vệ thực vật cho chè ở Thái Nguyên từ 6,2 đến 29,7 lần/ năm, cho
lúa ở đồng bằng sông Hồng từ 1 - 5 lần/ vụ, ở đồng bằng sông Cửu Long từ 2 - 6 lần/
vụ, trên 6 lần có 35,6% hộ. Số lần phun cho rau từ 7 - 10 lần/ vụ ở đồng bằng sông
Hồng, ở Thành phố Hồ Chí Minh 10 - 30 lần. Một kết quả điều tra năm 2010 (Bùi
Phương Loan - 2010) ở vùng rau đồng bằng sông Hồng cho thấy số lần phun thuốc
bảo vệ thực vật từ 26 - 32 lần (11,1 - 25,6 kg ai/ha) trong 1 năm. Số lần phun như trên
là quá nhiều, có thể giảm 45 - 50% (Ngô Tiến Dũng, Nguyễn Huân, Trương Quốc
Tùng 2002, 2010)
- Sử dụng thuốc khi thiếu hiểu biết về kỹ thuật. Theo Đào Trọng Ánh - 2002,
chỉ có 52,2% cán bộ kỹ thuật nông nghiệp - khuyến nông cơ sở hiểu đúng kỹ thuật sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ này ở người bán thuốc là 33% ở nông dân 49,6%.
- Sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, tùy tiện hỗn hợp khi sử dụng.
Kết quả điều tra năm 2002 (Đào Trọng Ánh) chỉ có 22,1 - 48% nông dân sử dụng
đúng nồng độ liều lượng thuốc trên lúa, 0 - 26,7% trên rau và 23,5-34,1% trên chè,
trong khi đó có nhiều nông dân tăng liều lượng lên gấp 3 - 5 lần. Ở các tỉnh phía Nam,
có tới 38,6% dùng liều lượng cao hơn khuyến cáo, 29,7% tự ý hỗn hợp nhiều loại
thuốc khi phun. Năm 2010, 19,59% nông dân cả nước vi phạm sử dụng thuốc, trong
đó không đúng nồng độ là 73,2% (Cục BVTV)
- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không tuân thủ thời gian cách ly
Đây là một tồn tại nguy hiểm, tác động trực tiếp đến vệ sinh an toàn thực phẩm song
đáng tiếc là rất phổ biến, đặc biệt là ở các vùng rau quả, chè… có tới 35 - 60% nông
dân chỉ thực hiện thời gian cách ly từ 1 - 3 ngày, 25 - 43,3% thực hiện cách ly 4 - 6
ngày trong khi phần lớn các loại thuốc có yêu cầu cách ly từ 7 - 14 ngày hoặc hơn.
(Đinh Ngọc Ánh - 2002), năm 2010 trên diện rộng còn tới 10,22% nông dân không
đảm bảo thời gian cách ly. (Cục BVTV)
- Coi trọng lợi ích lợi nhuận hơn tác động xấu đến môi trường, sức khỏe cộng
đồng.
Có một thực tế rất đáng lên án là một bộ phận nông dân cố tình sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật sai quy định pháp lý và kỹ thuật vì mục đích lợi nhuận của bản thân, xem nhẹ
luật pháp và lợi ích cộng đồng. Đặc biệt ở các vùng rau, quả, chè, hoa, nông sản có
giá trị cao… Điều tra năm 2003 - 2005 tại Vĩnh Phúc, Hà Nội, có tới 20 - 88,8% số
nông dân vẫn dùng thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục. Năm 2010, Cục BVTV cho
biết còn 5,19% số hộ dùng thuốc cấm, ngoài danh mục, 10,22% không đúng thời gian
cách ly, 51% không thực hiện theo khuyến cáo của nhãn.
Như vậy có thể thấy, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở nước ta trong vòng
10 năm lại đây, bên cạnh những thành tựu và ưu điểm cũng còn nhiều tồn tại, thiếu
sót, tác hại có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó có nguyên nhân chủ
quan từ phía xây dựng, ban hành, thực hiện các chính sách quản lý và kỹ thuật và chủ
quan từ phía thực hiện của người sản xuất nông nghiệp trong sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật.
5. Biện pháp
Việc sử dụng thuốc BVTV trong nông nghiệp để phòng trừ sâu hại, dịch bệnh
bảo vệ mùa màng là việc làm cần thiết, tuy nhiên do có độ độc cao nên các hóa
chất BVTV cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và sức khỏe cộng
đồng. Nhằm góp phần giảm thiểu dần thuốc BVTV độc hại trong sản xuất nông
nghiệp, bản thân em đưa ra một số giải pháp như:
5. 1. Xây dựng kênh truyền thông hướng dẫn sử dụng thuốc BVTV: Ban hành
cẩm nang danh mục thuốc BVTV sử dụng trên cây trồng, trên cơ sở Danh mục các
hoạt chất thuốc BVTV được Cục BVTV khuyến cáo lựa chọn để sử dụng trên cây
trồng khi cần thiết và Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam.
Các hoạt chất thuốc khuyến cáo nông dân sử dụng trong danh mục này chủ
yếu có nguồn gốc sinh học, có độ độc cấp tính thấp và có thời gian cách ly ngắn.
Cuốn cẩm nang này, ngoài mục đích chính là hướng dẫn cho nông dân trong việc lựa
chọn loại thuốc thích hợp để phòng trị sinh vật hại trên rau mà còn giúp cho các cửa
hàng, đại lý kinh doanh thuốc BVTV cũng như cán bộ kỹ thuật tại địa phương có cơ
sở để hướng dẫn, khuyến cáo người nông dân trong việc lựa chọn loại thuốc thích hợp
khi sử dụng, tránh tình trạng sử dụng thuốc BVTV bừa bãi không theo khuyến cáo,
không tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng về sử dụng thuốc an toàn và hiệu quả.
5.2 Việc sử dụng thuốc BVTV đúng mục đích và đúng kỹ thuật sẽ mang lại
hiệu quả tốt trong quản lý dịch hại cây trồng, bảo vệ nông sản, ngược lại, sẽ gây hậu
quả rất khó lường. Vì vậy, khi sử dụng thuốc cần phải có kiến thức nhất định để ngăn
ngừa hoặc hạn chế tác hại của thuốc có thể gây nên đối với chính bản thân người sản
xuất, người tiêu dùng, cây trồng, vật nuôi và môi trường sống, đồng thời phát huy
những mặt tích cực của nó.
Để đảm bảo sử dụng thuốc BVTV có hiệu quả, cần thực hiện các biện pháp
sau:
a) Trước hết là nên sử dụng thuốc khi thực sự cần thiết
Cần thường xuyên kiểm tra tình hình dịch hại trên đồng ruộng để quyết định
có cần dùng thuốc hay không. Không nên phun thuốc định kỳ nhiều lần mà không dựa
vào tình hình dịch hại. Điều này gây nên sự lãng phí và cũng là một trong những
nguyên nhân gây hiện tượng “kháng thuốc” của dịch hại. Việc sử dụng thuốc chỉ thực
sự đạt hiệu quả về mặt kinh tế và kỹ thuật khi sinh vật hại đã phát triển đến ngưỡng
gây hại hoặc ngưỡng kinh tế.
Ngưỡng gây hại là mức độ của dịch hại bắt đầu làm tổn thương đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất cây trồng. Ngưỡng kinh tế là mức độ dịch hại mà khi
đó nếu tiến hành các biện pháp phòng trừ thì chi phí bỏ ra phải ít hơn hoặc bằng với
giá trị sản phẩm thu lại được do kết quả của việc phòng trừ.
b) Áp dụng kỹ thuật sử dụng thuốc theo nguyên tắc “4 đúng”
- Một là “đúng thuốc”: nên chọn sử dụng loại
thuốc có hiệu quả cao với loại dịch hại cần trừ, ít độc hại
với người, môi trường và thiên địch. Tuyệt đối không sử
dụng những loại thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ, thuốc
không có tên trong danh mục thuốc được phép sử dụng,
thuốc đã bị cấm sử dụng, thực hiện đúng các quy định đối
với thuốc hạn chế sử dụng.
- Hai là “đúng lúc”: nên sử dụng thuốc khi dịch
hại phát triển tới ngưỡng gây hại, khi sâu đang còn nhỏ
(tuổi 2, 3). Khi thiên địch đang tích lũy và phát triển, cần
thận trọng trong việc dùng thuốc. Không phun thuốc khi
trời đang nắng nóng, khi đang có gió lớn, sắp mưa, khi
cây đang nở hoa thụ phấn.
- Ba là “đúng liều lượng và nồng độ”: lượng thuốc cần dùng cho một đơn vị
diện tích và độ pha loãng của thuốc cần được thực hiện theo đúng chỉ dẫn trên nhãn
thuốc. Việc tăng, giảm liều lượng và nồng độ không đúng cách là một trong những
nguyên nhân gây hiện tượng “kháng thuốc” của dịch hại.
- Bốn là “đúng cách”: cần phun rải đều và chú ý những nơi sâu, bệnh tập
trung nhiều. Thuốc dùng để rải xuống đất không hòa nước để phun. Với thuốc trừ cỏ
không nên phun trùng lặp.
c) Dùng hỗn hợp thuốc
Là pha chung 2 hoặc nhiều loại thuốc trong một bình phun nhằm tăng hiệu lực
phòng trừ do hiệu quả bổ sung cho nhau, để có một hỗn hợp thuốc mang nhiều ưu
điểm hơn, phòng trừ cao hơn khi dùng riêng lẻ. Ngoài ra, việc hỗn hợp thuốc còn có
thể mở rộng phổ tác dụng và giảm số lần phun thuốc.
Tuy nhiên, việc hỗn hợp thuốc cần yêu cầu kỹ thuật rất nghiêm ngặt. Nếu chưa
rõ tính năng tác dụng thì không nên hỗn hợp.
d) Sử dụng luân phiên thuốc
Là thay đổi loại thuốc giữa các lần phun khi phòng trừ cùng một một đối
tượng dịch hại. Mục đích chính là ngăn ngừa sự hình thành tính chống thuốc của dịch
hại, giữ được hiệu quả lâu dài của thuốc.
e) Kết hợp dùng thuốc với các biện pháp khác trong hệ thống biện pháp quản
lý dịch hại tổng hợp
Gieo trồng các giống cây kháng sâu bệnh, bảo đảm yêu cầu phân bón và nước
thích hợp, tận dụng các biện pháp thủ công (bắt tay, bẫy bã…). Chú ý bảo vệ thiên
địch khi dùng thuốc.
Trong điều kiện áp lực dịch hại cây trồng ngày càng phức tạp, định hướng phát
triển ngành nông nghiệp (năng suất, chất lượng, an toàn, hiệu quả và thân thiện với
môi trường) thì việc quản lý dịch hại cây trồng phải tổng hợp bằng nhiều biện pháp,
trong đó sử dụng thuốc BVTV chiếm vị trí đặc biệt. Vì vậy, hiểu biết đúng, sử dụng
thuốc an toàn hiệu quả sẽ góp phần nâng cao hiệu quả canh tác, bảo vệ sức khỏe cộng
đồng và môi trường sống.
5.3. Áp dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM): Bên cạnh việc sử dụng
thuốc BVTV thì việc áp dụng các biện pháp canh tác cơ bản như vệ sinh đồng ruộng,
bón phân cân đối, luân canh, xen canh cây trồng, sử dụng giống kháng và tuân thủ
lịch thời vụ cũng có thể làm sâu bệnh ít xuất hiện, giảm việc phun thuốc giai đoạn đầu
vụ. Việc giảm sử dụng thuốc BVTV giai đoạn đầu vụ làm cho sinh vật có lợi và thiên
địch duy trì trên đồng ruộng, làm tăng đa dạng sinh học, giúp khống chế sinh vật hại
trong một ngưỡng cho phép. Chương trình IPM được chứng minh là có hiệu quả trong
thực tế quản lý dịch bệnh.
5.4. Áp dụng phương pháp đấu tranh sinh học để quản lý sâu hại trên đồng
ruộng bằng cách sử dụng thiên địch (bọ xít hoa gai vai nhọn Eocanthecona
furcellata), ong ký sinh... từ đó giúp giảm lượng thuốc trừ sâu nông dân sử dụng,
giảm nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
5.5. Công nghệ sinh thái cũng có thể áp dụng để khống chế sâu hại trên ruộng, làm
giảm sử dụng thuốc BVTV. Ven bờ ruộng trồng các loại hoa có phấn hoa (sao nhái,
đậu bắp, xuyến chi, ..) nhằm thu hút các loài thiên địch, góp phần làm tăng đa dạng
sinh học trên ruộng, giúp khống chế sâu hại.
5.6. Quy hoạch thu gom, tập kết bao bì, vỏ chai thuốc BVTV đã qua sử dụng: đây là
một trong những giải pháp có tác động lớn góp phần giảm tình trạng ô nhiễm môi
trường nông thôn hiện nay là hệ thống cống thu gom bao bì, vỏ chai thuốc. Địa
phương cần xây dựng, lắp đặt hệ thống cống thu gom bao bì, vỏ chai thuốc BVTV tại
những điểm trên hệ thống giao thông nội đồng tại những cánh đồng sản xuất lúa, rau
của các xã nông thôn. Mô hình hệ thống thu gom bao bì, vỏ chai thuốc BVTV hoạt
động đã nâng cao ý thức của người dân, góp phần thay đổi một cách sâu sắc nhận
thức của nông dân trong việc sử dụng thuốc BVTV, không còn vứt vỏ chai, bao bì
thuốc BVTV bừa bãi ngoài đồng ruộng gây ô nhiễm môi trường.
5.7. Kiểm tra, hướng dẫn việc sử dụng thuốc BVTV tại các vùng sản xuất nông
nghiệp trên địa nông thôn nhằm đảm bảo an toàn về dư lượng thuốc BVTV trên cây
trồng. Kiểm tra tình hình sử dụng thuốc BVTV trên cây trồng theo tiêu chuẩn cơ sở
TC21:2008; Thanh, kiểm tra việc chấp hành các điều 39, 40 và điều 41 của Thông tư
03/2013/TT-BNN-PTNT ngày 11/01/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn về quản lý thuốc bảo vệ thực vật; Điều 21 của Điều lệ quản lý thuốc BVTV ban
hành theo Nghị định 58/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ. Bên
cạnh việc kiểm tra sử dụng thuốc ngoài đồng ruộng, Chi cục BVTV sẽ tiến hành lấy
mẫu rau của hộ nông dân đang hay chuẩn bị thu hoạch để tiến hành kiểm tra dư lượng
thuốc BVTV còn tồn dư trong sản phẩm.
Ngoài việc kiểm tra sử dụng thuốc BVTV ngoài đồng, còn hướng dẫn người dân kỹ
thuật sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4 đúng: Đúng thuốc, Đúng lúc,
Đúng nồng độ và liều lượng, Đúng cách; đảm bảo thời gian cách ly trước khi thu
hoạch. Trang bị bảo hộ và an toàn lao động khi phun thuốc. Cách thức xử lý bao bì
thuốc BVTV sau khi đã sử dụng.
“Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để bảo vệ một nền sản xuất nông nghiệp bền
vững phải đi đôi với việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và môi trường” là phương
hướng sử dụng thuốc BVTV trong nông nghiệp trong thời gian tới. Để thực hiện được
điều đó, nên từng bước chuyển sang sử dụng các sản phẩm thuốc BVTV có hiệu quả
cao trong phòng trừ sâu bệnh nhưng an toàn hơn với người và môi trường – những
sản phẩm thuốc BVTV thân thiện với môi trường.
V. Ý nghĩa của việc vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề:
Việc kết hợp các kiến thức liên môn như Toán, Sinh, Địa lý, Ngữ văn, Tin học
vào bài thuyết trình rất quan trọng, giúp cho bài thuyết trình bao quát, đầy đủ ý hơn và
có sức thuyết phục hơn. Vận dụng kiến thức liên môn giải quyết những vấn đề thực
tế tạo điều kiện cho học sinh chủ động tìm hiểu vấn đề, phát huy được tính tích cực,
sáng tạo để giải quyết vấn đề.