MÔN TÔN GIÁO HỌC
1.1. Đối tượng nghiên cứu của tôn giáo học máxxít? Ý nghĩa phương pháp luận
trong nghiên cứu tôn giáo học hiện nay?
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức tôn giáo, hoạt
động tôn giáo và tổ chức tôn giáo, mà sự tồn tại phát triển của nó là do sự phản ánh hư ảo
hiện thực khách quan vào trong đâu óc con người.
Tôn giáo học mácxít: Là khoa học nghiên cứu về tôn giáo trên lập trường quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam nhằm phát hiện chính xác những quy luật hình thành, phát triển, diệt vọng
của tôn giáo, từ đó tìm ra những con đường khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo trong đời sống tinh thần xã hội.
Tôn giáo học nghiên cứu bản chất, tính quy luật của sự ra đời, tồn tại, biến đổi của
tôn giáo và tính qui luật của quá trình khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong
đời sống tinh thần xã hội. (2 nhóm qui luật cơ bản)
- Nhóm thứ nhất: Tôn giáo học nghiên cứu những qui luật qui định sự ra đời, tồn
tại, biến đổi và diệt vong của tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng đa chiều, phức tạp và xuất hiện sớm trong lịch sử. Tính
phức tạp và đa chiều của tôn giáo không chỉ vì kết cấu của các tôn giáo nói chung, mà
còn vì có hàng vạn tôn giáo khác nhau về rất nhiều phương diện đã đang tồn tại. Tôn giáo
học không thể nghiên cứu tất cả các bộ phận cấu thành tôn giáo, càng không thể nghiên
cứu tất cả các tôn giáo đã, đang tồn tại trên thế giới hiện nay.
Thứ nhất, Tôn giáo học chỉ tập trung nghiên cứu nhằm chỉ ra đúng đắn những điều
kiện cơ bản về xã hội, về nhận thức, về tâm lý làm nảy sinh, nuôi dưỡng tôn giáo tồn tại;
tìm ra những thuộc tính cơ bản nhất tạo thành thể thống nhất hữu cơ qui định sự tồn tại
phát triển của tôn giáo, chỉ ra tính tất yếu, điều kiện, con đường biện pháp làm cho tôn
giáo tự tiêu vong, “chết cái chết tụ' nhiên của nó”.
Thứ hai, Tôn giáo học tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa cái thiêng và cái tục,
giữa đạo và đời, như vấn đề có tính qui luật của sự tồn tại, phát triển, diệt vong của
những tôn giáo cụ thể.
Để duy trì và phát triển tôn giáo của mình phần lớn các tôn giáo tiến hành linh
thiêng hóa hình ảnh, lời nói, hoạt động, uy tín của những người sáng lập ra tôn giáo. Sự
linh thiêng hóa bước đầu được thực hiện như một sự thần thoại hóa và tiếp theo là quan
niệm hóa, thành các tín điều giáo lý, giáo luât.
=> Vì thế, sự tồn tại, phái triển của bất cứ tôn giáo nào cũng là quá trình tồn tại và
giải quyết của mâu thuẫn giữa cái thiêng và cái tục, giữa xu thế tục hóa và xu thế linh
thiêng hóa. Nếu tôn giáo chỉ hướng tới cái thực nó cũng khó tồn tại phát triển. Ngược lại,
nếu chỉ hướng tới cái linh thiêng, cái tối thượng, vô biên, không chú ý cái thế tục, cái nhu
cầu khát vọng, cái hơi thở của cuộc sống đời thường của các tín đồ, chức sắc thì các tôn
giáo cũng không thể tồn tại được.
Biển hiện của tính quy luật này trong đời sống mỗi tín đồ, chức sắc và các tổ chức,
cộng đông tôn giáo là mối quan hệ và cách thức giải quyết mối quan hệ giữa đạo và đời.
Cơ sở của mối quan hệ này không chỉ từ mối quan hệ giữa cái thiêng và cái tục, mà còn
từ tính hai mặt của mỗi tổ chức, cộng đồng tôn giáo và mỗi tín đồ, chức sắc tôn giáo.
Mỗi tổ chức tôn giáo luôn tồn lại với 2 tư cách: tư cách một tổ chức xã hội với chức
năng tập hợp các thành viên của xã hội và tư cách một tổ chức tôn giáo nhằm tuyên
truyền, phổ biến giáo lý, giáo luật của một tôn giáo nhất định.
Với tổ chức tôn giáo tình hình cũng diễn ra tương tự, nhưng đưới hình thức khác.
Với tư cách là tổ chức xã hội, các tổ chức tôn giáo phải chịu sự điều chỉnh của các qui
phạm pháp luật của một nhà nước nhất định và chịu sự cạnh tranh về nhiều mặt đối với
các tổ chức xã hội khác, trong đó có tổ chức của các tôn giáo khác.
Vì thế, đây dược coi là tiêu chí đánh giá sự tồn tại, phát triển của tôn giáo. Đánh giá
sự tồn tại phát triển của tôn giáo không chỉ cặn cứ vào sự gia tăng số lượng tín đồ, chức
sắc, qui mô, phạm vi hoạt động của các tổ chức, mà còn phải cằn cứ vào cách thức và
hiệu quả giải quyết các mối quan hệ giữa đạo và đời của các tổ chức tôn giáo.
- Nhóm thứ hai: Nhóm qui luật mà tôn giáo nghiên cứu là tính qui luật của quá
trình khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống tình thần xã hội.
Khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đến đời sống tính thần xã hội là quá
trình lâu dài khó khăn, phức tạp. Không chỉ cần một mục đích, phương hướng đúng đắn,
một lộ trình bước đi thích hợp, mà còn đòi hỏi phải tuân thủ triệt để những vấn đề có tính
qui luật.
- Khắc phục ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống tinh thần xã hội phải đặt dưới sư
lãnh đạo của một lực lượng tiên tiến với một đường lối đúng đắn, được xây dựng trên
một TGQ, PPL khoa học; được tiến hành thường xuyên liên tục với phương châm kiên
trì, nhẫn nại, tuyệt đối không nóng vội chủ quan, tuyên chiến với tôn giáo, đồng thời phải
kiên trì giáo dục thuyết phục, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, trình độ KHCN
hiện đại cho quần chúng nhân dân, chủ đông tích cực đưa khoa học vào quá trình khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo.
- Thông qua thưc tiễn, bằng thưc tiễn lao động sản xuất, đấu tranh chính trị xã hôi là
phương thức hiệu quả nhất để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo. Hơn nũa phải
gắn khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo với các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc, nhằm từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. (Phân biệt
tính cách công dân - tín đồ).
=> Những vấn đề có tính qui luật trên đây luôn quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau và
vai trò của chúng không ngang bằng nhau; vai trò đó phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ
thể. Do vậy, muốn đạt được kết quả bền vững trong quá trình khắc phục ảnh hưởng tiêu
cực của tôn giáo, cần vận dụng sáng tạo những vấn đề có tính qui luật trên phù hợp với
đối tượng, không gian, thời gian, điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Tránh áp dụng máy móc,
hoặc tách rời, cắt xén những vấn đề có tính qui luật.
1.2. Sự thống nhất và khác biệt giữa tôn giáo học, sử học, tâm lý học và chủ
nghĩa xã hội khoa học trong nghiên cứu tôn giáo? Ý nghĩa phương pháp luận trong
nghiên cứu tôn giáo học hiện nay?
Sự thống nhất: đều nghiên cứu tính qui luật của sự hình thành và phát triển, diệt
vong của tôn giáo
*Tôn giáo và sử học, tâm lý học
- Tôn giáo là hiện tượng xuất hiện sớm trong lịch sử và hiện tượng được ghi lại băng
các loại hình ngôn ngữ, văn tự cổ rất phong phú. Vì thế sử học nghiên cứu lịch sử tôn
giáo, như một bộ phận của lịch sử loài người nhằm tìm kiếm, phát hiện những tư liệu để
bổ sung, hoàn thiện lịch sử loài người, lịch sử các dân tộc... trên thế giới.
- Tâm lý học nghiên cứu tôn giáo nhằm tìm ra tính qui luật hình thành và phát triển
của các trạng thái tình cảm, niềm tin... tôn giáo, từ đó chỉ ra những con đường khắc phục
những hiện tượng tâm lý đó (nghiêng về tinh thần nhiều hơn - tính độc lập tương đối).
*Tôn giáo và Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu tôn giáo dưới chủ nghĩa xã hội như một thực
thể tồn tại khách quan, cần phủ định để thực hiện sử mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong
cuộc đấu tranh chống CNTB xây dựng thành công CNXH và CNCS trên phạm vi toàn thế
giới. Cho nên chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ nghiên cứu tính qui luật tại, biến động của tôn
giáo trong một HTKT-XH, còn tôn giáo nghiên cứu tính qui luật của sự hình thành và phát
triển, diệt vong của tôn giáo xuyên suốt trong mọi hình thái kinh tế - xã hội.
Như vậy, có nhiều khoa học nghiên cứu về tôn giáo ở các góc độ khác nhau nhưng
chỉ có tôn giáo là nghiên cứu những tính qui luật chung nhất, khái quát nhất sự ra đời, tồn
tại, diệt vong của tôn giáo; đồng thời còn nghiên cứu tính qui luật của quá trình khắc
phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đến đời sống tinh thần xã hội.
*Ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác nghiên, cứu và giảng dạy tôn giáo
học ờ Việt Nam hiện nay
- Một là, Nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của các lực lượng
đối với vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và câng tác tôn giáo vào giảng
dạy trong các nhà trường quân đội hiện nay.
+ Cần nghiên cứu, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, chính sách Nhà nước cũng
như chỉ thị, hướng dẫn của cơ quan cấp trên. Trên cơ sở đó ra nghị quyết chuyên đề lãnh
đạo, lập kế hoạch, tổ chức quán triệt cho tất cả các lực lượng tham gia giáo dục - đào tạo.
+ Nghiên cứu phải bảo đảm tính chuyên sâu, hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta, nhất là nhận thức mới của Đảng
ta về tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
+ Trong giảng dạy phải bảo đảm tính cơ bản và hệ thống, phù hợp từng đối tượng.
Thông qua kết quả nghiên cứu của mình, giảng viên cụ thể hoá vào từng nội dung bài
giảng một cách hợp lý vừa bảo đảm tính khoa học vừa bảo đảm tính mục đích, tính tư
tưởng.
- Hai là, Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy các nội dung về
tôn giáo và công tác tôn giáo trong các nhà trường quân đội
+ Đổi mới nội dung, chương trình phải toàn diện, trung thành và phát triển sáng tạo
các quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về tôn giáo và công tác tôn
giáo; phải bảo đảm đúng quan điểm của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo và theo
hướng cập nhật các quan điểm mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo.
+ Đôi mới phương pháp giảng dạy môn Tôn giáo học cho phù hợp đối tượng, tích
cực hoá người học, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo; Phải theo hướng
phát huy cao nhất ứng dụng những phương tiện kỹ thuật hiện đại vào giảng dạy.
- Ba là, Tích cực hóỏa vai trò đội ngũ giảng viên giảng dạy các nội dung về tôn giáo
và công tác tôn giáo trong các nhà trường quân đội
+ Nâng cao năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ giảng viên
nhằm nâng cao khả năng nghiên cứu, vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và
công tác tôn giáo vào giảng dạy trong các nhà trường quân đội. Phát huy tính chủ động,
sáng tạo của họ.
+ Đầu tư kinh phí, tài liệu, phương tiện cho hoạt động nghiên cứu, vận dụng nhận
thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo vào giảng dạy.
+ Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ giảng viên.
2. Phân tích cơ sở tồn tại của tôn giáo theo quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin. Ý
nghĩa phương pháp luận trong nhận thức tình hình tôn giáo ở Viêt Nam hiên nay?
Ý thức tôn giáo thuộc hình thái ý thức xã hội, trước hết, nó cũng phản ánh tồn tại xã
hội do tồn tại xã hội quy định; mặt khác, trong quá trình tồn tại và phát triển, nó còn chịu
sự chi phối của những yếu tố khác nữa. Toàn bộ các yếu tố chi phối quá trình hình thành,
tồn tại và phát triển của tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở của nó. Cơ sở hình thành của tín
ngưỡng tôn giáo là thể thống nhất các yếu tố cơ bản sau:
*Cơ sở kinh tế - xã hội: Trình độ sản xuất vật chất thấp kém là nguyên nhân sâu xa,
nguyên nhân xét đến cùng quyết định sự ra đời của tín ngưỡng tôn giáo.
- Trong đời sống xã hội, con người phải thực hiện rất nhiều các hòạt động nhằm
thoả mãn những nhu cầu khác nhau. Song, kết quả các hoạt động không phải bao giờ
cũng đạt được theo ý muốn, trong đó nhiều trường họp con người bất lực. Chính sự yếu
kém, bất lực trong hiện thực cải tạo tự nhiên, cải tạo các hiện tượng xã hội dẫn đến sự bế
tắc, sợ hãi, tuyệt vọng thúc đấy con người tìm đến sự giải thoát tinh thần trong tín
ngưỡng tôn giáo.
- Trong những yếu kém, bất lực thuộc đời sống xã hội thì sự yếu kém, bất lực trước
những hiện tượng xã hội quan hệ trực tiếp tới cuộc sổng của con người là cơ sở chủ yếu
nhất hình thành tín ngưỡng tôn giáo. Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém, bất lực này lại do
trình độ phát triển xã hội mà trước hết là trình độ sản xuất thấp kém. Vì vậy, trình độ sản
xuất thấp kém là nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân xét đến cùng quyết định sự ra đời của
tín ngưỡng tôn giáo.
- Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị bóc lột đã sử dụng mọi thủ đoạn để áp
bức, bóc lột quần chúng nhân dân, đẩy họ đến tình trạng bần cùng. Cuộc sống cơ cực và
tình trạng bần cùng của quân chúng nhân dân do chế dộ bóc lột đẻ ra cũng khủng khiếp
không khác gì tự nhiên đối với người nguyên thuỷ. Chính sự bất lực trước những hiện
tượng áp bức, bất công, con người không thể tìm được lối thoát nơi trần thế đã dẫn đến
tìm lối thoát trong đời sống tín ngưỡng.
*Cơ sở nhận thức: Một trong những cơ sở hình thành tín ngưỡng tôn giáo là sự hạn
chế về măt nhận thức và sự tưởng tượng sai lầm của con người trong quá trình nhận thức.
- Trong cuộc sống, con người luôn có quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau. Do
trình độ nhận thức thấp kém, con người không hiểu được những hiện tượng của tự nhiên,
những hiện tượng xã hội và chính bản thân mình, nhất là những hiện tượng mang lại
những hậu quả nghiêm trọng đe doạ cuộc sống, dẫn đến sự lo sợ, bất lực trước những
hiện tượng ấy. Đây là một cơ sở để hình thành tín ngưỡng tôn giáo (động đất, song
thấn…).
- Sự yếu kém, bất lực về mặt nhận thức tự nhiên, xã hội và bản thân mình (tự nó
chưa dẫn tới sự ra đời tín ngưỡng tôn giáo, mà từ sự hạn chế đó, con người thần thánh
hoá chúng, biến chúng thành những lực lượng siêu nhiên có sức mạnh hư ảo, vô hình thì
tín ngưỡng tôn giáo mới xuất hiện). Ph.Ăngghen đã viết: bất cứ tôn giáo nào đều có gốc
rễ trong các quan niệm thiển cận và ngu dốt của thời kỳ mông muội (Lút vích Phoiơbắc
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, tr.404). Tôn giáo sinh ra trong một thời đại hết
sức nguyên thủy, từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thuỷ của con người về bản
chất của chính họ và về giới tự nhiên bên ngoài, xung quanh họ (tr.445)
*Cơ sở tâm lý: Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định những tình cảm, cảm xúc, tâm
trạng của con người trước sức mạnh tự nhiên, trước những biến cố xã hội, biến cố của
cuộc đời và cộng đồng cũng là cơ sở của sự hình thành tín ngưỡng tôn giáo.
- Trong quá trình tác động với thế giới hiện thực, đứng trước những hiện tượng tự
nhiên, những hiện tượng xã hội gây ra những tai hoạ cho con người, những biến cố của
cuộc đời, của cộng đồng mà con người bất lực dẫn đến nảy sinh những cảm xúc, tâm
trạng lo âu, sợ hãi, hoang mang, đau buồn, tuỵệt vọng. Những trạng thái này được lặp đi
lặp lại nhiều lần, do không hiểu đúng và không có khả năng làm chủ những hiện tượng ấy
dẫn đến sự hình thành quan niệm về lực lượng siêu nhiên và sự sùng bái thần linh.
- Bên cạnh những hiện tượng gây nên cảm xúc, tâm trạng lo sợ, hoang mang, tuyệt
vọng còn có những hiện tượng tạo ra những điều kiện thuận lợi, đáp ứng nguyện vọng
của con người và những lực lượng xã hội, những cá nhân anh hùng có những đóng góp
lớn lao cho cộng đồng, xã hội dẫn đến hình thành các cảm xúc, tâm trạng, tình càm gần
gũi, biết ơn, thành kính. Từ những trạng thái tâm lý đó, với sự tưởng tượng vốn có của
nhận thức, con người đã bổ sung, tô vẽ tạo ra các hình tượng thánh thần với những tính
cách siêu phàm, xuất chúng, có công đức to lớn. Những hình tượng này được tồn thờ tạo
nên những hình thức tín ngưỡng tôn giáo.
Tóm lại, tín ngưỡng tôn giáo không phải là hiện tượng tự nhiên, mà là sản phẩm của
xã hội, của con người. Sự hình thành và phát triển của nó là thể thống nhất của ba cơ sở
cơ bản là cơ sở nhận thức, cơ sở kinh tế - xã hội và cơ sở tâm lý. Mỗi cơ sở có vị trí, vai
trò của nó, nhưng có quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau làm cho tín ngưỡng tôn giáo
hình thành và phát triển, trong đó cơ sở kinh tế - xã hội là cơ sở cơ bản, chủ yếu nhất.
Những nội dung trên cho thấy, tín ngưỡng tôn giáo hình thành và phát triển có cơ sở
của nó, vì vậy, muốn xóa bỏ tín ngưỡng tôn giáo, nhất là những ảnh hưởng tiêu cực, phải
xoá bỏ những cơ sở hình thành và tồn tại của nó. Đó là phải nâng cao trình độ nhận thức,
tạo điều kiện để con người vươn lên làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hôi và làm chủ bản
thân mình; phải xoá bỏ những sự áp bức, bất công trong xã hội, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho mọi con người.
*Ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức tình hình tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay
Ở nước ta việc nhận thức tình hình tôn giáo gắn liền với việc giải quyết vấn đề này
và được thể hiện tập ở quan điểm của Đảng ta qua các kỳ Đại hội. Điều đó được thể hiện
trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội và được cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chỉ thị
của Trung ương như: Nghị quyết 24/NQ-TW (16/10/1990) của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo số
21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004.
Ngày nay, các thế lực phản động quốc tế đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến
lược “DBHB” nhằm xóa bỏ CNXH ở các nước, trong đó có Việt Nam. Để tránh khuynh
hướng nôn nóng, vội vàng khi giải quyết vấn đề nảy sinh từ tôn giáo, trước hết chúng ta
cần phải nhận thức rõ một số vấn đề sau đây:
- Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những điều
kiện tồn tại của tôn giáo vẫn còn - là một tất yếu khách quan. Do đó, cần căn cứ vào từng
trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa xác định
thái độ, cách ứng xử phù họp.
- Thứ hai, cần phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải quyêt vấn
đề tôn giáo không phải là mọi tôn giáo hay tất cả những tín đồ tôn giáo nói chung, mà chỉ
là những bộ phận người lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá
cách mạng, gây rối trật tự trị an, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.
- Thứ ba, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, không thể dùng
mệnh lệnh hành chính hay tuyên truyền giáo dục đơn thuần mà phải chú trọng đên việc
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao
trinh độ nhận thức, trinh độ văn hoa. phat huy tinh thần yêu nước...
- Thứ tư, kiên quyết trừng trị những kế lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, bè
phái, cục bộ... hoạt động chống phá sự nghiệp cách mạng của toàn dân, đi ngược lại lợi
ích quốc gía, dân tộc.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải một cách khoa học, khách quan, đúng
đắn cơ sở tồn tại của tôn giáo, làm nền tảng tư tưởng để từ đó Đảng vả Nhà nước ta có
nhận thức ngày một đầy đủ, đúng đắn về tình hình tôn giáo ở nước ta, từ đó đề ra chủ
trương chính sách về tôn giáo, giải quyết được những vấn đề tư tưởng của nhân dân có
đạo, thực hiện được đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
3. Xu thế của tôn giáo hiện nay. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề trong
công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay?
Từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn luôn biến động phản ánh sự biến đổi của
lịch sử. Một tôn giáo có thể hưng thịnh, suy vong, thậm chí mất đi nhưng tôn giáo luôn
luôn song hành cùng với đời sống của nhân loại. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội sẽ
còn tồn tại lâu dài.
3.1. Xu thế toàn cầu hóa của tôn giáo?
- Cơ sở khách quan của xu thế toàn cầu hoá tôn giáo là quá trình toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hóa là sự mơ tưởng của tất cả các tôn giáo, dù là những
tôn giáo có bề dày lịch sử và phổ quát trên thế giới như: Kitô giáo, Phật giáo, Hồi giáo
hay những “hiện tượng tôn giáo mới” ra đời gần đây đều mong muốn trong thiên niên kỷ
tới sẽ là thời đại tôn giáo của mình. Chẳng hạn đạo Cao Đài ở Việt Nam ngay từ khi mới
ra đời đã tuyên bố sẽ là “tôn giáo của nhân loại”. Sự ganh đua gây thạnh thế và mở rộng
ảnh hưởng mà các tôn giáo dèm pha, đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt. Điều đó làm
cho mong muốn có một tôn giáo mang tính toàn cầu chỉ là ảo vọng và không tưởng; nếu
một lực lượng nào đó thực hiện nó lại là yếu tố châm ngòi cho một thứ chủ nghĩa bành
trướng toàn cầu. (Đạo Hồi - trong lịch sử và hiện tại, Nhà nước IS).
- Thực tế lịch sử cho thấy, sự tồn tại và phát triển của một tôn giáo phụ thuộc vào sự
bành trướng của một thế lực chính trị có trong tay một tiềm lực kinh tế nhất đinh. Ngày
nay, vấn đề toàn cầu hoá tôn giáo chủ yếu phụ thụộc vào chinh sách bá quyền của một số
cường quốc muốn gắn vấn đề nhân quyền với tư do tôn giáo cho từng quốc giạ, dân tộc,
tộc người. Họ tìm mọi cách can thiệp vào nội bộ các nước không đi theo con đường các
cường quốc đã vạch ra, trước hết là nhằm vào các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, phụ
thuộc vào thái độ khác nhau của các thủ lĩnh từng tôn giáo trước thời cuộc, bắt nguồn từ
quyền lợi bản thân và của dân tộc; thái độ khác nhau trước sự cải cách cả về giáo lý, nghi
lễ, tổ chức của từng tôn giáo.
- Toàn cầu hoá dẫn đến sự có mặt của hầu hết các tôn giáo lớn, nhỏ trong một quốc gia.
Từng tôn giáo đều muốn và cố gắng có mặt trên khắp thế giới. Đạo Kitô, đạo Tin lành đang
ra sức bành trướng sang châu Á trong đó có Việt Nam, ngay cả những “hiện tượng tôn giáo
mới” phát sinh trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng vậy. Ngược lại, đạo Phật
và các tôn giáo Ấn Độ, Trung Quốc cũng đang lan tràn sang châu Âu, châu Mỹ.
3.2. Xu thế chính trị hóa của tôn giáo?
Thực chất của xu thế thế chính trị hóa của tôn giáo biến tôn giáo thành công cụ
chính trị, từ đó tạo lập uy tín ảnh hưởng của các tôn giáo đến các quốc gia dân tộc, khu
vực quốc tế trên trường thế giới để thực hiện mục đích chính trị,
Hiện tượng chinh trị hoá tôn giáo không phải bây giờ mới có mà đã có từ thời cổ đại
đại và biểu hiện rõ nhất ở thời Trung cổ. Theo C.Mác đó là thời kỳ “Chính trị là lĩnh vực
tôn giáo”, là tôn giáo, là thượng đế của đời sống nhân dân, đối lập với sự tồn tại trần tục
có tính hiện thực của đời sống nhân dân. Vì thế, tôn giáo được coi như là một ý thức chủ
đạo. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đang
ra sức lợi dụng và chính trị hoá vấn đề tôn giáo. Mặt khác, các tổ chức tôn giáo cũng tích
cực tham gia vào các hoạt động chính trị, tôn giáo hoá chính trị, nhăm trực tiếp hay gián
tiếp bảo vệ lợi ích của các thế lực chính trị phản động; tham gia vào các hoạt động kinh
tế, thị trường hoá tôn giáo.
- Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo có sự hoà quyện với nhau, các
tín đồ tham gia nhiều hành vi các tôn giáo khác nhau. Vì thế, ta thấy có sự tôn trọng niềm
tin của những người khác đạo. Họ chung sống trong một làng, một xã. Trước khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta không có chiến tranh tôn giáo. Người dân hoạt động tôn giáo
cũng là một lối sống, một phương cách ứng xử trong cuộc đời.
- Dưới thời phong kiến ở Việt Nam thần quyền và thế quyền luôn gắn liền. Nhà vua
chăm lo cả việc đời lẫn việc đạo. Vào thế kỷ XVI - XIX có tôn giáo mới, mâu thuẫn nảy
sinh do Kitô giáo còn xa lạ và thêm việc truyền đạo còn cứng nhắc. Nửa đầu thế kỷ XIX
khi thực dân Pháp bộc lộ ý đồ và tiến hành xâm lược nước ta mâu thuẫn tôn giáo phản
ánh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa thực dân.
- Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngoại trừ tôn
giáo dân tộc, tất cả các tôn giáo bị thế lực thù địch lôi kéo, lợi dụng với những thủ đoạn
hết sức tinh vi, xảo quyệt. Chính vì vậy, các tôn giáo bị chia rẽ rõ rệt.
- Trong giai đoạn hiện nay, mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị luôn được xem là
vấn đề phức tạp, tế nhị, tinh vi và nhạy cảm. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế diễn ra mạnh mẽ, tôn giáo với tư cách là thực thể xã hội có tác động nhiều mặt đến đời
sống chính trị, xã hội của mỗi quốc gia cũng không thể đứng ngoài xu thế này. Vì vậy,
các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ xem đây là “thời cơ vàng” để đẩy mạnh chiến lược
“DBHB” nhằm xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam mà biểu hiện rõ nét là tìm cách “chính
trị hóa tôn giáo” để từ đó làm cợ sở cho các hoạt động chống phá cách mạng nước ta.
Nội dung chiêu bài “Chính trị hóa tôn giáo” của Mỹ được thể hiện qua các mặt:
+ Tuyệt đối hoá sự khác biệt giữa tôn giáo và CNXH tới mức trở thành mâu thuẫn
đối kháng về mặt tư tưởng từ đó gia tăng các hoạt động tuyên truyền phá hoại về con
đường đi lên CNXH của đất nước. Bên cạnh đó, Mỹ cũng là quốc gia tích cực sử dụng
các diễn đàn Liên hiệp quốc về Quyền con người, vấn đề Dân tộc thiểu sô... để làm
phong phú thêm về bức tranh tự do tôn giáo tại Việt Nam dưới lăng kính của mình.
+ Nhiên vụ việc chống đối chính trị mà Việt Nam đã xử lý được Mỹ xuyên tạc trở
thành vấn đê chông tôn giáo. Các vụ việc liên quan đến hình sự, chống phá chế độ nước
ta của các đối tượng, như: Nguyên Văn Lý, Lê Quang Liêm, Thích Quảng Độ...
+ Áp đặt cái gọi là “nhân quyền, tự do tôn giáo kiểu Mỹ” cho Việt Nam. Sẽ chẳng
bao giờ có một chuẩn mực nhân quyên chung cho tất cả các quốc gia, nhưng Mỹ vẫn lên
tiếng áp đặt các gia tự do tôn giáo của mình cho các nước không theo quỹ đạo nhằm tạo
cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia.
+ Phản đôi riêng, phản đối chính thức công khai và lên án công khai Việt Nam trên
các diễn đàn đa phương quốc tê. Nhiều vấn đề tôn giáo thuộc công việc nội bộ của Việt
Nam được Mỹ quan tâm đặc biệt, gây sức ép về mặt ngoại giao, áp dụng các biện pháp
về kinh tế để can thiệp, ví dụ: Không cho ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ…
+ Củng cố, xây dựng, mở rộng lực lượng chống đối trong các tôn giáo. Hàng loạt
đối tượng trong các tôn giáo ở Việt Nam được Mỹ hỗ trợ, tạo dựng ngọn cờ để gia tăng
các hoạt động chống phá, tạo thời cơ, kiếm cớ can thiệp nhằm lật đổ Đảng và Nhà nước ở
Việt Nam và các nước khác nếu không theo Mỹ. Bên cạnh đó, hàng năm các tổ chức phi
chính phủ Mỹ tích cực tài trợ hàng chục triệu USD cho các tổ chức tôn giáo núp dưới
danh nghĩa bảo vệ nhân quyền, thúc đẩy dân chủ ở Việt Nam.
Việc Mỹ cho mình có quyền phán xét, can thiệp về tình hình tôn giáo của các nước
khác là trái với nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Việt Nam là một nước có nhiều
tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam đều binh đẳng và tự do
hành đạo, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín
ngưỡng, không và chưa bao giờ cản trở hoạt động tôn giáo.
Vì vậy để đảm bảo tôn giáo đồng hành cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
CNXH, Đảng Nhà nước Việt Nam vừa thực hiện chính sách bình đẳng, tự do tôn giáo,
vừa kiên quyết đấu tranh bóc tách mặt phản động, ngăn chặn các hoạt động hỗ trợ cho
các đối tượng chống đối trong nước từ bên ngoài- phản kích, vô hiệu hoá các hoạt động
tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Nhà nước ta, kích động tư tưởng hoạt động chống đối từ
bên trong của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo.
3.3. Xu thế thế tục hóa của tôn giáo?
Đây là xu thế co bản, nổi trội của các tôn giáo trong điều kiện hiện nay và biểu hiện
hết sức phong phú, đa dạng. Xu thế này phản ánh tính thích nghi của tôn giáo với những
biên động của đời sống xã hội trong quá trình phát triển. Hướng chủ yếu của xu thế này
là những hành vi nhập thế của mỗi tôn giáo bằng cách tham gia vào các hoạt dộng trần
tục phi tôn giáo như: tham gia hoạt động xã hội, đạo đức, y tế, giáo dục.... nhằm góp
phần cứu nhân độ thế; quay về với ý ban đầu của những đấng sáng lập các tôn giáo, thiên
về việc cứu nhân loại, đề cao cái thiện, chống cái ác. Chính vì vậy, nó gân gũi với phong
trào cách mạng, cải cách tiến bộ, bảo vệ người nghèo, bảo vệ môi trường, chống bất công
xã hội... Đó là sự thức tỉnh lương tâm của đa số tín đồ lựa chọn cái thiện phục vụ đời
sống hiện thực cũng như cho cái sau khi chết theo ý nghĩa của từng tôn giáo.
- Xu thế thế tục hoá còn được biểu hiện trong cuộc đấu tranh của bộ phận tiến bộ
trong từng tôn giáo muốn xoả bỏ những cái lỗi thời, khất khe trong giáo lý, giáo luật,
muốn đấu tranh cho một thế giới đầy tình thương và hoà bình.
- Xu thế này cũng biểu hiện ở vai trò tôn giáo ngày càng bị thu hẹp vì nhiều thiết
chế xã hội muốn đòi hỏi tính tự trị của mình đối với tôn giáo. Đồng thời, tôn giáo
ngày càng trở thành đấu trường cạnh tranh do cái nhìn mới về chỗ đứng của con người
trong xã hội hiện đại đầy biến động. Sự phát triển của khoa hoc và công nghệ. Sự phát
triển dân trí, sự xuất hiện và đứng vững của chủ nghĩa duy vật... góp phần làm cho con
người hoài nghi hay dửng dưng với tôn giáo, vấn đề tối cao của tôn giáo không còn là
vấn đề “đấng tối cao”.
- Xu thế này cũng biểu hiện ở sự giảm sút vai trò của tôn giáo trong một bộ phận cư
dân thành thị và tầng lớp thanh niên. Họ quyết định đời sống chủ yếu dựa vào bản thân,
không hay ít phụ thuộc vào phép mầu của các đấng siêu linh; muốn xoá nhoà ranh giới
của cái thiêng tôn giáo và cái thiêng thế tục. Dường như họ ra khỏi những tôn giáo nhất
định, đến với Chúa, với Phât... bởi nhiều động cơ, tham vọng khác nhau; giáo dân, phật
tử đến đền, chùa, nhà thờ như là “mốt”, thậm chí chỉ để nương nhờ bởi những bất hạnh
trong cuộc sống, số tín đồ của các tôn giáo tuy không giảm nhưng tính đa tạp trong tín đồ
tăng lên. Người ta đến với Chúa của mình với nhiều động cơ, nhiều ý đồ, nhiều tham
vọng khác nhau. Trong đó, chính danh có, giả danh có, tự nguyện có, bất đắc dĩ có, thực
lòng có, mượn cớ cũng có. Giáo dân, Phật tà đến với nhà thờ, chùa chiền như một cái
“mốt”, thậm chí có người đến với thánh đường chỉ là để nương nhờ bởi những bất hạnh
trong cuộc sống giáng xuống đầu họ.
Mặc dù theo số liệu thống kê số tín đồ tôn giáo gia tăng nhưng không thuần nhất, có
nhiều xu hướng, nhiều ý nghĩ và việc làm khác nhau. Tâm lý thực dụng đã lan vào hầu
hết các hoạt động và hành vi tôn giáo. Nhận thức tôn giáo cũng bị phai nhạt. Các hoạt
động tôn giáo có xu hướng về với trần tục “sống tốt đời, đẹp đạo”, “nước vinh, đạo
sáng”, “kính chúa, yêu nước”, tham gia những hoạt động xã hội, dạo đức, giáo dục, y tế...
nhàm góp phần cứu giúp đồng loại. Những hoạt động này trong sáng, hướng thiện.
Tuy nhiên, xu thế này cũng có mặt trái của nó, thể hiện ở chỗ các tổ chức tôn giáo
tham gia vào các hoạt động chính trị nhằm bảo vệ quyền lợi của các thế lực chính trị
phản động. Nêu trong những thập kỷ 40, 50 thế kỷ XX trở về trước tư tưởng của các tổ
chức tôn giáo đi đôi với các thế lực phản động là lộ liễu, thì nay tuỳ theo từng tôn giáo,
tuỳ lúc, tuỳ nơi vẫn bộc lộ những phần tử cực đoan, và nói chung hướng chủ yếu vẫn
nhằm vào chủ nghĩa duy vật vô thần .
4. Sự thống nhất và khác biệt giữa xu thế tôn giáo ở Việt Nam và xu thế tôn
giáo trên thế giới hiện nay? Ý nghĩa phuơng pháp luận đối với việc nghiên cứu tôn
giáo và tiến hành công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay?
*Sự thống nhất: Tôn giáo Việt Nam tuân theo những xu thế chung của tôn giáo
thế giới
- Xu thế chính trị hóa tôn giáo: Biến tôn giáo thành công cụ chính trị, từ đó tạo lập
uy tín ảnh hưởng của các tôn giáo đên các quốc gia dân tộc, khu vục quốc tế trên trường
thế giới để thực hiện mục đích chính trị nhất định.
Thực tế, phần lớn các đảng phái chính trị của các nước tư bản trên thế giới đều dựa
vào tôn giáo, sử dụng con bài tôn giáo làm bức bình phong để tập họp lực lượng, gây ảnh
hưởng trong xã hội, nhằm tạo nên sự hậu thuẫn xã hội cho phe cánh của mình trong các
cuộc vận động chính trị.
- Xu thế thế tục hóa tôn giáo: Những hành vi nhập thế của mỗi tôn giáo bằng cách
tham gia vào các hoạt động trần tục phi tôn giáo như: tham gia hoạt động xã hội, đạo đức,
y tế, giáo dục... nhằm góp phần cứu nhân độ thế; quay về với ý ban đầu của những đấng
sáng lập các tôn giáo, thiên về việc cứu nhân loại, đề cao cái thiện, chống cái ác.
Biểu hiện trong cuộc đấu tranh của bộ phận tiến bộ trong từng tôn giáo muốn xoá bỏ
những cái lỗi thời, khắt khe trong giáo lý, giáo luật, muốn đấu tranh cho một thế giới đầy
tình thương và hoà bình.
Con người dường như ra khỏi tôn giáo. Một số tín đồ vẫn tiến hành những nghi lễ
và cầu xin có khi còn hành hương nhưng lại không hẳn theo giáo lý hay giáo luật đã được
định sẵn.
- Xu thế lợi dụng các thành tự khoa học để bảo vệ và phát triển tôn giáo: Các tôn
giáo chú trọng giải thích lại giáo lý, các tín điều mang tính khoa học “hiện đại” hơn; thích
ứng tích cực với sự thay đổi xã hội mạnh mẽ.
Ngày ngay, các tôn giáo đang có xu hướng “lý giải lại” quan niệm về cứu thế và tận
thế cho phù họp với xã hội hiện đại. Theo quan niệm của các tôn giáo, thế giới cần được
cứu rỗi vì thế gian không hoàn thiện hoàn mỹ. Tuy nhiên, quan niệm cửa mỗi tôn giáo về
vấn đề này có sự khác nhau.
- Xu thế toàn cầu hóa tôn giáo: Toàn cầu hóa là sự mơ tưởng của tất cả các tôn giáo
dù là những tôn giáo thế giới có bề dày lịch sử lâu đời hay chỉ là những hiện tượng tôn
giáo mới ra đời gần đây. Chẳng hạn như đạo Cao Đài ở Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời
đã tuyên bố sẽ là “tôn giáo của nhân loại”.
Trong thời đại ngày nay, vấn đề toàn cầu hoá tôn giáo chủ yếu phụ thuộc vào chính
sách bá quyền của một số cường quốc, muốn gắn vấn đề nhân quyền với tự do tôn giáo
cho từng quốc gia, dân tộc, tộc người để tìm cách can thiệp vào các nước không chịu đi
theo con đường mà các cường quốc đã vạch ra cho họ.
Tính toàn cầu hóa dẫn đến sự có mặt của hầu hết cảc tôn giáo lớn nhỏ trong một
quốc gia. Từng tôn giáo đều muốn và cố gắng có mặt trên khắp địa cầu.
- Xu thế dân tộc hóa tôn giáo: Biểu hiện của xu thế này là hướng trở về với tôn giáo
truyền thông, phố biến ở các nước đang phát triển, lan rộng sang cả châu Âu. Các tôn
giáo dân tộc không có tính phổ quát nhưng lại gắn chặt và bền vững với từng dân tộc.
Hiện nay có hiện tượng các tôn giáo được truyền bá một cách nhanh chóng sang các
quôc gia khác với nhiều cách thức khác nhau.
*Sự khác biệt: Xu thế tôn giáo ở Việt Nam có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, Sự liên kết chặt chẽ giữa tổ chức tôn giáo trong nước và thế giới
- Việc tăng cường ngoại giao, đối thoại tôn giáo quốc tế và trong nước là một trong
những xu hướng nổi bật ở Việt Nam thời gian gần đây. Sự đối thoại, đoàn kết tôn giáo do
Công giáo và Phật giáo chủ động khởi xướng và tiến hành là những trường hợp điển hình
nhất.
- Với Công giáo, do nhiều vấn đề lịch sử để lại cũng như các vấn đề cấp bách cả
trong lẫn ngoài Giáo hội hiện tại đặt ra.
- Từ năm 1989, Việt Nam và Vatican đã có nhiều lần trao đổi đoàn làm việc. Năm
2013, Việt Nam và Vatican đã hoàn thành cuộc họp vòng Bốn Nhóm công tác hỗn hợp
về thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Hai bên ghi nhận Giáo huấn của Giáo hội về việc
“sống phúc âm giữa lòng dân tộc” và “giáo dân tốt cũng là công dân tốt”.
- Tôn giáo thế giới tăng cường hỗ ừợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan,
phản động trong tôn giáo ở trong nước tổ chức các hoạt động chống phá.
Thứ hai, Các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, tôn giáo với tư
cách là thực thể xã hội có tác động nhiều mặt đến đời sống chính trị, xã hội của mỗi quốc
gia cũng không thể đứng ngoài xu thế này. Vì vậy, các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ
xem đây là “thời cơ vàng” để đẩy mạnh chiến lược “DBHB” nhằm xóa bỏ chế độ XHCN
ở Việt Nam mà biểu hiện rõ nét là tăng cường lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.
Như vậy, nhiều vấn đề tôn giáo trở thành một nhân tố nằm trong đường lối chính trị,
ngoại giao của Mỹ. Nội dung chiêu bài “Chính trị hóa tôn giáo” của Mỹ được thể hiện
qua các mặt:
- Về tư tưởng:
+ Mỹ và các thế lực thù địch phản động tuyệt đối hoá sự khác biệt giữa tôn giáo và
CNXH, đẩy tới mức trở thành mâu thuẫn đối kháng về mặt tư tưởng từ đó gia tăng các
hoạt động tuyên truyền phá hoại về con đường đi lên CNXH của nước ta. Bên cạnh đó,
Mỹ cũng là quốc gia tích cực sử dụng các diễn đàn Liên hiệp quốc về quyền con người,
vấn đề dân tộc thiểu số... để làm phong phú thêm về bức tranh tự do tôn giáo tại Việt
Nam dưới lăng kinh của minh.
+ Vu khống, nói xấu VN cấm đoán, vi phạm quyên tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Đưa việc chống đối chính trị mà VN đã xử lý trở thành vân đề chống tôn giáo.
(Nhiêu vụ việc chống đối chính trị mà Việt Nam đã xử lý được Mỹ xuyên tạc trở thành
vấn đề chống tôn giáo. Các vụ việc liên quan đến hình sự, chống phá chế độ nước ta của
các đối tượng như: Nguyễn Văn Lý, Lê Quang Liêm, Thích Quảng Độ... được Mỹ quy
kết thành vấn đề vi phạm tự do tôn giáo, đàn áp các nhà dân chủ...).
+ Áp đặt cái gọi là “nhân quyền, tự do tôn giáo kiểu Mỹ” cho Việt Nam.
- Về hành vi
+ Phản đối riêng, phản đối chính thức công khai và lên án công khai Việt Nam trên
các diễn đàn đa phương quôc tế. Nhiều vấn đề tôn giáo thuộc công việc nội bộ của Việt
Nam được Mỹ quan tâm đặc biệt, gây sức ép về mặt ngoại giao, áp dụng các biện pháp
về kinh tế để can thiệp.
+ Từ chối, trì hoãn hoặc hủy bỏ các chuyến thăm, làm việc chính thức của Chính
phủ Mỹ tới các nước vi phạm.
+ Rút lại, hạn chế hoặc đình chì viện trợ phát triển.
+ Củng cố, xây dựng, mở rộng lực lượng chống đối trong các tôn giáo. Hàng loạt
đối tượng trong các tôn giáo ờ Việt Nam được Mỹ hỗ trợ, tạo dựng ngọn cờ để gia tăng
các hoat động chống phá, tạo thời cơ, kiếm cớ can thiệp nhằm lật đổ Đảng và Nhà nước
ta và các nước khác nếu không theo Mỹ. Bên cạnh đó, hàng năm các tổ chức phi chính
phủ Mỹ tích cực tài trợ hàng chục triệu USD cho các tổ chức tôn giáo núp dưới danh
nghĩa bảo vệ nhân quyền thúc đẩy dân chủ ở Việt Nam...
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Nắm chắc các xu thế vận động của tôn giáo thế giới và trong nước. Làm tốt việc
dự báo, phòng ngừa và kịp thời giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh về tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Khẳng định quan điểm tự do tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta.
- Thường xuyên nêu cao cảnh giác, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để nhân dân
thấy rõ âm mưu thậm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
- Kịp thời phát hiện, chủ động đấu tranh làm rõ và vô hiệu hóa thủ đoạn và quan
điểm của các thế lực phản động xuyên tạc đường lối chính sách của Đàng, Nhà nước và
tình hình thực tế; kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị
và trật tự, an toàn xã hội.
- Tăng cường tuyên truyền giác ngộ đối với các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giai
câp công nhân, người lao động.
5. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam hiện nay? Ý nghĩa phương pháp luận đối với
công tác nghiên cứu và giảng dạy tôn giáo học ở nước ta hiện nay?
Việt Nam là một quốc gia gồm nhiều thành phần dân tộc cũng là quốc gia đa tôn
giáo. Moi tôn giáo có lịch sử hình thành, du nhập, số lượng tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ
tự, vị trí, vai trò xã hội và đặc điểm khác nhau. Là quốc gia nằm giữa ngã ba Đông
Nam Châu Á - nơi giao lưu giữa các luồng tư tưởng văn hoá khác nhau, có địa hình
phong phú đa dạng, lại ở vùng nhiệt đới gió mùa, Tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam có
ảnh hưởng sâu đậm từ hai nền văn minh Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây này rất
lớn. Hơn nữa, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm nên những người có công
lớn trong việc giúp dân, cứu nước được cả cộng đồng tôn sùng và đời đời thờ phụng
theo đạo lý “uống nước, nhớ nguồn”. Điều đó thể hiện rất rõ trong đời sống, sinh hoạt
tín ngưỡng, tôn giáo của họ.
Từ đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hoá đó đã tác động sâu sắc đến tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam, làm cho tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam có những đặc điểm sau:
*Một là, tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam mang tính phong phú nhiều vẻ
- Các tôn giáo lớn đang tồn tại ở Việt Nam không có tôn giáo nào thuần tuý của
Việt Nam mà hầu hết được du nhập từ nước ngoài vào. Đạo Phật từ Ấn Độ, Trung
Quốc sang, đạo Thiên Chúa từ phương Tây đến, Lão giáo, Khổng giáo cũng từ Trung
Quốc vào... Những đạo nội sinh như Cao Đài, Hoà Hảo cũng chỉ là một sự tích hợp,
vay mượn các yếu tố của tôn giáo khác. Có tôn giáo vào Việt Nam từ đầu công
nguyên; có tôn giáo vào sau hàng ngàn năm, cũng có tôn giáo mới hình thành ở Việt
Nam vào đầu thế kỷ XX.
- Có những tôn giáo với hàng triệu tín đồ, lại có tôn giáo tồn tại hàng thế kỷ mà số
lượng tín đồ không đáng kể. Dù có sự tồn tại đa dạng của các loại hình tín ngưỡng, tôn
giáo, song tính chung số lượng tín đồ chỉ chiếm 30% dân số cả nước. Nếu tính những
người có nhu cầu tâm linh thì số lượng lớn hơn nhiều. Ở Việt Nam vùng nào cũng có đền
thờ các vị anh hùng dân tộc, những người có công với dân với nước.
- Ở Việt Nam có thể tìm thấy ở đây hầu như có tất cả các hình thức tôn giáo từ Tô
tem giáo, Ma thuật giáo, Bái vật giáo, Vật linh giáo, Saman giáo đến các tôn giáo có tổ
chức. Việt Nam gần như là một bảo àng tôn giáo.
*Hai là, Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Ham mang tính ưu trội yếu tố nữ
- Ở nước ta hình tượng người phụ nữ xâm nhập và nổi bật trong tất cả các hình thức
tôn giáo. Điều đó phản ánh tình cảm và sự đánh giá công bằng của nhân dân về vai trò
của người phụ nữ trong xã hội. Tín ngưỡng thờ mẫu đa dạng phong phú. Có mẫu là thần
thiên nhiên như: Linh sơn thánh mẫu, thượng ngàn, địa mẫu..., thánh mẫu, có mẫu là
nhân thần; có mẫu là nhân vật thật; có mẫu là nhân vật huyền thoại.
- Tính trội của yếu tố nữ còn được biểu hiện khá rõ nét trong quan niệm về phương
thức thờ cứng của các tôn giáo. Ở các nước khác, Bồ Tát có thể là Nam có thể là nữ, còn
riêng ở Việt Nam đó là phật Bà. Sự tồn tại và phát triển đạo Phật ở Việt Nam gắn liền với
sự xuất hiện kỳ diệu của tứ pháp dưới dạng”Bà” (pháp Vân, pháp Vũ, pháp Lôi, pháp
Điện). Đạo Thiên Chúa vốn chỉ thúa Giêsu nhưng khi vào Việt Nam, vai trò “Cầu bầu”
của mẹ Maria trở nên cực kỳ quan trọng. Trong nhà thờ Thiên Chúa, hình tượng bà Maria
chiếm uu thế. Bà xuất hiện dưới các dạng khác nhau. Con chiên đến với Chúa chủ yếu
thông qua Mẹ. Mọi sự trông cậy đêu thuộc về Mẹ.
*Ba là, tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam mang tính chất đan xen, hoà đồng
Ở Việt Nam, không có sự kỳ thị tôn giáo, càng không có xung đột vì lý do đị biệt
tôn giáo. Dù là tư tưởng gì, tôn giáo nào, cộng đồng người Việt cũng sẵn sàng chấp nhận
miễn la nó không vi phạm đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại nền văn hoá dân tộc.
- Sự tồn tại hoà bình của hệ thống tôn giáo, với tư tưởng “Tam giáo đông nguyên”,
“Ngũ chi hợp nhất”. Lễ Phật đản, lễ Chúa giáng sinh là ngày vui chung của Lương và
Giáo. Chính sự tồn tại hoà bình của nhiều hình thức tôn giáo là cơ sở của sự đoàn kết tôn
giáo và đoàn kết lương - giáo trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
- Tính chất đan xen, hòa đồng của tôn giáo ở Việt Nam thể hiện khá độc đáo ở sự
hội nhập trong không gian thờ tự Đình, Chùa, Am, Miếu, Phủ. Ở đó thấy sự hiện diện
hoà đồng của các thánh thần, tiên phật của cả ba tôn giáo chính (Phật giáo, Lão giáo,
Khổng giáo).
- Tính dung hợp hòa dồng, đan xen của tôn giáo Việt Nam còn thể hiện rõ nét trong
mỗi chức sắc tôn giáo và trong từng tín đồ. Nhà sư không chỉ tụng kinh, gõ mõ mà còn
trở thành người có bí quyết trừ tà, nhà sư kiêm cả pháp sư, kiêm nhà ma thuật.
*Bốn là, tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thần thánh hoá những người có công với
dân, với nước
Con người Việt Nam vốn có lòng yêu nước, trọn tình “uống nước, nhớ nguồn”, “ăn
quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng thấm đượm tinh
thần ấy. Từ xưa, ở Việt Nam đã hình thành 3 cộng đồng gắn bó với nhau là gia đình, làng
xóm và quốc gia.
- Gia đình là tế bào của xã hội, dù nghèo hay giàu, song nhà nào cũng có bàn thờ tổ
tiên, ông bà, cha mẹ - những người đã khuất.
- Làng xóm có cơ cấu, thiết chế rất chặt chẽ. Mỗi làng có phong tục, lối sống riêng.
Trong phạm vi làng xã từ lâu đã hình thành tục thờ cúng thần địa phương và việc thờ
cúng này trở nên phổ biến ở nhiều tộc người.
- Những người có công với gia đình, làng xóm, đất nước đều được người Việt Nam
tôn vinh, sùng kính.
*Năm là, tín đồ các tôn giáo Việt Nam hầu hết là nông dân lao động
Nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn, nên tín đồ hầu hết là nông
dân, có tinh thần lao động cần cù, yêu nước, căm thù giặc. Nhìn chung, tín đồ các tôn giáo
Việt Nam đến với tôn giáo ở cấp độ tâm lý, tình cảm; hiểu giáo lý không sâu sắc nhưng lại
chăm chỉ thực hiện những nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng tín ngưõng một cách
nhiệt tâm, ít sùng tín, những cũng có một số ngộ nhận, cả tin khi bị lợi dụng tôn giáo.
*Sáu là, một số tôn giáo ở Việt Nam bị các thế lực thù địch phản động trong và
ngoài nước lợi dụng vì mục đích chính trị.
Tôn giáo nào cũng có 2 mặt: nhận thức tư tưởng và chính trị. Chính vì vậy, tuy mức
độ có khác nhau, nhưng giai đoạn lịch sử nào thì các giai cấp thống trị, bóc lột vẫn chú ý
sử dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo.
Các thế lực trong và ngoài nước đang âm mưu gắn ngọn cờ nhân quyền với tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; phá vỡ khối đoàn kết dân tộc; gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc,
gây nên những điểm nóng; biến tôn giáo đối trọng với Đảng ta hòng sớm xoá bỏ CNXH
ở nước ta. Vì vậy, một mặt phải đáp ứng đúng như cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân
dân, mặt khác phải luôn cảnh giác với âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Bảy là, Hoạt động tôn giáo trong những năm gần đây có biểu hiện mang tính chất
thị trường.
Một bộ phận lớn đồng bào dân tộc thiểu số theo tôn giáo, như: cộng đồng dân tộc
khơ me ở Tây nam bộ theo phật giáo Nam tông; công giáo, tinh lành phát triển mạnh ở
đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây nguyên, Tây Bắc; cộng đồng người Chăm theo Bà La
Môn, Chăm Bà Ni, Chăm IxLan…
Tóm lại, tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Vì vậy, việc đề ra
chính sách và thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề khó khăn, phức
tạp, phải hết sức thận trọng. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng và Nhà nước phải dựa trên
quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và căn cứ vào những đặc
điểm của tôn giáo ở Việt Nam để đề ra các chủ trương, chính sách đối với công tác tín
ngưỡng, tôn giáo. Xác định rõ vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, thừa nhận tôn
giáo là một hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu dài, đồng thời tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân. Những vấn đề tôn giáo cần gắn liền với quá trình vận động cách
mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng. Đồng thời, để khắc phục những
yếu tố tiêu cực của tôn giáo, cần quan tâm đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi
trọng tuyên truyền, vận động giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp
luận khoa học cho quần chúng nhân dân và các tín đồ. Nội dung cốt lõi của công tác tôn
giáo là công tác vận động quần chúng. Đồng bào có đạo hay không có đạo đều là công
dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau trước pháp luật.
6. Phân tích những nhân tố làm xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam hiện nay? Ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác tôn giáo ở nước ta
hiện nay?
*Các nhân tố thế giới
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghê tác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội, trong đó có tôn giáo (“Thế giới phẳng” trong gắn kết con người).
Khoa học công nghệ phát triển làm cho trình độ tri thức và đời sống tinh thần của
con người được nâng lên, người lao động đỡ vất vả, năng suất lao động cao hơn, đi lại
thuận tiện hơn, có điều kiện học tập và tăng thêm tuổi thọ...
Nhưng hiện nay, khoa học vẫn chưa giải quyết được mọi vấn đề của trần thế, thậm
chí lại được các thế lực chính trị phản động lợi dụng góp phần gây ra những cuộc khủng
hoảng tâm lý xã hội, đạo đức, phá hoại môi trường, cạn kiệt tài nguyên; đặc biệt sử dụng
những phát minh khoa học vào mục đích bóc lột, răn đe chính trị, thậm chí tàn sát không
thương tiếc bằng xung đột và chiến tranh, buộc các nước nghèo lệ thuộc.
Hơn nữa khoa học càng phát triển càng gây ra những khoảng trống mới về tri thức
mỗi người. Thái độ của tôn giáo đối với khoa học cũng có sự thay đổi, ngày xưa Kitô
giáo phủ nhận khoa học, nay lại chấp nhận sự tồn tại của khoa học. Tôn giáo vẫn muốn
tôn vinh mình răn dạy mọi người hãy tin mà không cần minh chứng lời của chúa, của
thánh, của phật... hãy tự biết vâng lời, tuân thủ rồi sẽ thành quả. Tuy rằng tôn giáo có tỏ
ra khoan dung, chấp nhận những thành tựu khó bác bỏ của khoa học, lợi dụng khoa học
khi cần thiết, nhưng vẫn coi minh đứng trên khoa học, chi có mình mới lý giải được mọi
điều hy vọng nhưng vô vọng của con người.
- Toàn cầu hóa và khủng hoảng kinh tế thế giới
+ Toàn cầu hóa làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế: Toàn cầu hoá kéo theo
mọi quốc gia, cho dù điểm xuất phát cao hay thấp cũng phải hội nhập, phải đấu trí, cạnh
tranh với nhau, bằng sự thông minh và cố gắng của mình để kiếm một chỗ đứng, nếu
không sẽ bị đồng hoá, thậm chí tiêu vong. Cuộc đấu tranh đó lại ở trong một thế giới đầy
bất công và bạo lực, với các thủ đoạn ác độc của thứ chủ nghĩa tự do cực đoan, sẵn sàng
tàn phá những cái gì là nhân bản, áp đặt một thứ văn hoá gang tơ, khuyến khích tội ác,
lấy đồng tiền làm bái vật, thù địch với tất cả các giá trị văn hoá của các quốc gia dân tộc.
+ Khủng hoảng kinh tế thế giới tạo nên các nguy cơ trong đời sống con người, đưa
tới sự mất niềm tin, đưa con người tới tôn giáo.
Nền kinh tế thị trường đang làm cho hố sâu ngăn cách giàu nghèo giữa các quốc
gia, giữa các tầng lớp trong một quốc gia ngay càng sâu rộng. Trò chơi cạnh tranh tài
chính dẫn đến sự làm mưa, làm gió của các công ty xuyên quốc gia sẵn sàng dìm chết
bất kỳ quốc gia nào. Dựa vào sức mạnh kinh tê, các nước giàu có thả sức hoành hành
về chính trị, quân sự buộc các nước khác lệ thuộc. Gần đây Mỹ và các đồng minh can
thiệp trắng trợn vào các nước khác gây bao cảnh chết chóc, đau thương cho con người,
làm giàu cho bọn lái súng, kỳ thị dân tộc, tôn giáo. Nhân dân thế giới nơm nớp không
yên. Trước tình hình đó, các tổ chức tôn giáo phải lý giải các vấn đề trần thế, tham gia
tích cực hơn vào các hoạt động phi tôn giáo, tính chính trị trong các hoạt đợng tốn
giáo lại nổi lên. (IS)
+ Sự biển đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường của tình hình chính trị thế giới.
Bước sang thập kỷ 80, 90 thế kỷ trước, trong khi lo lắng về cuộc chiến tranh lạnh,
chạy đua vũ trang, nhân loại đã nhận thấy CNTB có sự điều chỉnh, thích nghi, CNXH đã
bộc lộ những dấu hiệu không ổn. Đắc biệt sự sụp đôt của Liên Xô, Đông Âu làm hoang
mang nhiều người. Tiếp theo là toàn cáu hóa tăng nhanh, lại được thao túng của một siêu
cường và các cường quốc trong sự thoái trào cách mạng toàn cầu. Trước tình hình đó,
con người không biết tin vào đâu, đi đến đâu trong một thế giới không ổn định, đầy mâu
thuẫn, tương lai khó dự đoán, người lạc quan, kẻ bi quan... Họ ngỡ ngàng trước những sự
kiện diễn ra dồn dập hàng ngày, chí ít cũng xa lạ với những ý nghĩ thông thường trước
đây. Trong một thế giới dường như hành trình của nhân loại đang bị đe doạ bằng bao thứ
bùng nổ: lương thực, dân số, môi trường… bao loại đe doạ: răn đe hạt nhân, các loại
bệnh hoạn; AIDS. Mafia, tội ác các loại… không thể chấp nhận dược.
+ Tình hình tôn giáo thế giới nhất là sự vận động, phát triển của các tôn giáo lớn.
*Tình hình kinh tế, chính tri, xã hội trong nước
- Nhân tố kinh tế: Khủng hoảng kinh tế đất nước từ những năm 2008 đến nay
(khủng hoảng thừa do cung cầu chưa gập nhau). Tác động của kinh tế thị trường tới các
quan hệ xã hội, các giá trị đạo đức bị xuống cấp làm con người tìm đến tôn giáo. Sự phân
hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, công tác xóa đói giảm nghèo chưa bền vững.
- Nhân tố văn hóa, chính trị, xã hội và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch:
Văn hóa đạo đức được Đảng vả Nhả nước quan tâm (Nghị quyết Trung ương 4).
Tình hình an ninh trật tự có nhiều diễn biến phức tạp, tội phạm ngày càng trẻ hóa và
manh động. Đạo đức xã hội có nhiều vấn đề bức xúc.
Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng.
*Ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về công tác tôn giáo trong các tín đồ tôn giáo để họ hiểu, thực hiện đúng quan điểm
của chúng ta đối với tôn giáo.
- Cán bộ làm công tác vận động phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng;
được trang bị đầy đủ kiến thức về tôn giáo; có kỷ năng, gọi đúng chức sắc và biết tôn
trọng họ, gần gủi họ nhưng phải giữ vị thế của mình; phải tuyệt đối tôn trọng những sinh
hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Đồng thời cần kiên trì
thuyết phục, tránh những hành vi thô bạo và không được gợi lại những gam màu tối, đặc
biệt không được tranh luận (đấu tranh) những lĩnh vực nhạy cảm… thường xuyên chăm
lo đến đời sống vật chất lẫn tinh thần cho họ.
- Để tránh bị các thế lực chính trị lợi dụng tôn giáo, chúng ta cần chú trọng vận động
quần chúng nêu cao cảnh giác trước những âm mưu “DBHB” của các thế lực thù địch
nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cần phân biệt rõ tín đồ tôn giáo với người lợi dụng tôn giáo, phân biệt rõ phần tử phản
động lợi dụng tôn giáo với những chức sắc, nhà tu hành và quần chúng tốt để tuyên truyền,
vận động. Khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải thật sự khéo léo, có chứng cứ rõ ràng, có sức
thuyết phục, không nóng vội, chủ quan. Chính vì vậy, các chức sắc, tín đồ có những vi
phạm pháp luật rõ ràng và bị xử lý theo pháp luật nhưng tín đồ các tôn giáo đã đồng tình
với cách xử lý của Nhà nước ta, như vụ Nguyễn Văn Lý, Thích Trí Tựu tại Huế.
- Thường xuyên quán triệt các quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng, nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và những người làm công tác vận động
quần chúng nhằm nâng cao nhận thức về công tác tôn giáo. Thực hiện tốt qui chế dân chủ
ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo,
phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ
chức tôn giáo.
- Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo của Đảng, chính quyền,
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; xây dựng qui chế phối hợp phát huy sức mạnh và
hiệu quả công tác của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
làm công tác tôn giáo các cấp. Cán bộ làm công tác tôn giáo vùng dân tộc thiểu số phải
được bồi dưỡng, huấn luyện để hiểu biết phong tục tập quán, tiếng nói của dân tộc nơi
mình công tác.
7. Cơ sở khoa học nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo
trong tình hình mới? Ý nghĩa phương pháp luận trong chỉ đạo thực hiện chính sách
tôn giáo và tiên hành công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay?
*Cơ sở khoa học nhận thức
- Thứ nhất, xuất phát từ quan điểm khoa học, cách mạng về tôn giáo của chủ nghĩa
Mác - Lênin
+ C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã luận giải một cách cơ bản, toàn diện, hệ thống
và rất đúng đắn khoa học về nguồn gốc, bản chất, chức năng, vai trò và các mối quan hệ
của tôn giáo với các hiện tượng xã hội khác.
+ Từ quan niệm bản chất của tôn giáo là sự phản ánh hư ảo thế giới khách quan vào
trong đâu óc những con người chưa tìm thấy mình hoặc tự đánh mất mình, một lần nữa,
chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra một cách toàn diện các chức năng của tôn giáo, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh tính chất nguy hại của chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo. “Tôn
giáo là thuốc phiện của nhân dân”. “Tôn giáo là thứ rượu tinh thần làm mất phẩm cách”
của con người.
+ Khẳng định tính tất yêu và chỉ ra con đường, biện pháp đấu tranh khắc phục tôn
giáo một cách khoa học và cách mạng. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin kết luận: Con
người không có một lối thoát nào khác ... là khắc phục một cách căn bản tất cả mọi quan
niệm tôn giáo và quay trở về một cách kiên quyết, thành thực không phải với Thượng đế
mà với bản chất của mình. Các ông luôn luôn đòi hỏi những người Cộng sản phải thật sự
“bình tĩnh, kiên trì và nhẫn nại” trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo, phải gắn cuộc đấu
tranh chống tôn giáo với cuộc đấu tranh giai cấp và không bao giờ được đưa vấn đề tôn
giáo lên hàng đầu của cuộc đấu tranh.
- Thứ hai, tư tưởng sáng tạo, độc đáo của Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo
+ Hồ Chí Minh xem xét rất toàn diện, lịch sử cụ thể vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng.
Tôn giáo được Hồ Chí Minh xem xét cả dưới góc độ văn hóa, triết học và đạo đức.
Người viết: vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo... Theo Người
trong đạo đức tôn giáo “Cái gì tốt ta nên khôi phục và phát triển, còn cái gì xấu thì ta phải
bỏ đi”.
+ Một trong những tư tưởng đặc sắc và một đóng góp to lớn của HCM trong sự phát
triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo là đã xác định: Mục đích cao nhất,
nội dung xuyên suốt của công tác tôn giáo là giữ vững tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, đoàn kết lương giáo, đoàn kết giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau, làm cho
“Nước vinh đạo sáng”. “Tốt đời đẹp đạo”, góp phần ngày càng to lớn vào kháng chiến,
kiến quôc.
Cho nên, những quan điểm, chính sách độc đáo về tôn giáo ấy sẽ mãi mãi là nền
tảng tư tưởng để Đảng, Nhà nước ta tiếp tục khám phá những chân lý mới trong nhận
thức và xử lý vấn đề tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN hiện
nay.
- Thứ ba, xuất phát từ những diễn biển phức tạp của tình hình tôn giáo trong nước
và trên thế giới
+ Trên thế giới: xuất hiện các tôn giáo mới và sự tăng lên về số lượng tín đồ các tôn
giáo một cách nhanh chóng. Kitô giáo có khoảng 2 tỉ tín đồ, chiếm 33% dân số thế giới,
Hồi giáo có khoảng 1,3 tỉ tín đồ, chiếm 22% dân số thế giới, Ấn Độ giáo 900 triệu tín đồ
chiếm 15% dân số thế giới và Phật giáo 360 triệu chiếm 6% dân số thế giới. Các loại hình
tôn giáo cũng phát triển rất phức tạp. Hiện nay, ngoài các tôn giáo truyền thống thì ngày
càng xuất hiện thêm nhiều loại hình tôn giáo, nhiều phong trào tôn giáo với những tên
gọi, giáo lý, giáo luật và hình thức tổ chức, hoạt động rất đa dạng phong phú.
+ Tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới cũng không kém
phần phức tạp. Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, trong những năm qua trừ đạo Tin Lành có
sự phát triển nhanh đặc biệt ở các vùng dân tộc và miền núi, còn hầu hết các tôn giáo lớn
ở nước ta không có sự phát triên đột biến. Tốc độ tăng số lượng tín đồ các tôn giáo cùng
với sự gia tăng dân số của cả nước. Tuy nhiên, cho đến năm 2011, chỉ tính riêng số lượng
tín đồ của 6 tôn giáo lớn ở nước ta đã là 30 triệu chiếm gần 30% dân số cả nước.
- Thứ tư: Các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng tôn giáo chống phá các lực
lượng cách mạng, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để chống phá các lực lượng cách mạng thế giới của chủ
nghĩa đế quốc rất da dạng, phong phú và thường xuyên được điều chỉnh bổ sung, điển
hình như:lợi dụng tham vọng của các lãnh tụ tôn giáo và sự cuồng tín của các tín đồ tôn
giáo, từ đó thổi phồng sự khác biệt giữa các tôn giáo, gây nên những cuộc chiến tranh
núp dưới vỏ bọc tôn giáo, phục vụ lợi ích kinh tế, chính ừị của các giai cấp, các lực lượng
phản động; trực tiếp huấn luyện, cung cấp vũ khí, tiền bạc cho các nhóm tôn giáo cực
đoan tiến hành các hoạt động khủng bố gây mất ổn định chính trị các nước...
- Thứ năm, do yêu cầu của sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ mới
Trong tình hình mới hiện nay, chúng ta việc phải có nhận thức mới về tôn giáo
không chỉ vì tình hình tôn giáo diễn biến phức tạp, vì các thế lực thù địch tăng cường phá
hoại, mà còn do tính chất khó khăn, phức tạp của điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ mới qui định. Phải có nhận thức mới về tôn giáo để giữ vững môi trường hoà
bình và tạo các điều kiện thuận lợi góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; để tranh thủ sức mạnh quốc tế,
mở ra những khả năng mới cho việc phát triển và bảo vệ Tô quôc; để nâng cao hiệu quả
công tác tôn giáo, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực chủ yếu thúc
đẩy cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
- Thứ sáu, những bài học kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo của một số nước
trên thê giới và của các triều đợi phong kiến Việt Nam
Nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo đã được đặt ra từ lâu trong lịch sử ở từng
quôc gia dân tộc cũng nhu ở phạm vi toàn nhân loại.
- Thứ bảy, những bài học thành công và chưa thành công trong nhận thức, xử lý
vấn để tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta từ khi ra đời đến năm 1990 và những thành tựu
của công cuộc đôi mới.
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về
công tác tôn giáo (Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3/2003) khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do, tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật,
bình đẳng trước pháp luật.
- Đại hội XI khái quát: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chỉnh sách đại đoàn kết dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.
- Phương hướng cơ bản về công tác tôn giáo: Phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt
đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều
lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật.
Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
- Thực hiện chính sách tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng
lãnh đạo Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thông qua chính sách, pháp luật, các
đoàn thể nhân dân và mặt trận Tổ quốc có nhiệm vụ vận động các tín đồ, chức sắc trong
các giáo hội phấn đấu xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo”.
*Đối với Quân đội
- Không ngừng tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị và cho nhân dân địa phương nơi đóng quân.
- Thực hiện tốt chính sách tôn giáo ngay trong các đơn vị quân đội đối với các quân
nhân theo tôn giáo.
- Thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào tôn giáo
ở nơi đóng quân.
- Nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị cho mọi quân nhân.
- Lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh
thần cho bộ đội.
- Tạo bầu không khí thoải mái, đoàn kết ừong mối quan hệ giữa quân nhân có đạo
và quân nhân không theo đạo.
- Không để kẻ xấu lợi dụng tự do tín ngưỡng để tuyên truyền mê tín dị đoan trong
các tổ chức quân đội, chống âm mưu sử dụng tín ngưỡng tôn giáo để làm suy thoái tư
tưởng, suy yếu sức mạnh quân đội.
- Tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện mọi chủ trương, chính sách, luật pháp
của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách tôn giáo.
- Giữ vững quan hệ máu thịt với nhân dân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ quân dân. Động viên đồng bào có đạo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
8. Nội dung nhận thức mới về vấn đề tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta? Ý nghĩa
phương pháp luận của vấn đề đối với công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay?
Nhận thức mới về vấn đề tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới về bản
chất la sự nhận thức đúng đắn, toàn điện hơn đối với tín ngưỡng, tôn giáo và giải quyết
kịp thời, hiệu quả hơn những vấn đề nảy sinh trong bản thân tổ chức, hoạt động của tín
ngưỡng, tôn giáo và trong mối quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội, góp phần ngày càng to lớn hơn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN.
*Nhận thức mới về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta
- Một là, Thừa nhận tính tất yếu và khả năng tồn tại lâu dài của tôn giáo trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự phát triển nhận thức mang tính đột phá về tôn giáo
của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Năm 1986, Đại hội VI, đánh dấu bước khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước, nhưng tới năm 1990 chúng ta mới có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về công tác
tôn giáo. Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị có nhiều nội dung, một trong những nội dung
đó là việc Đảng ta khẳng định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”. Sau 13 năm thực hiện, kế thừa tinh
thần ấy, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy, khoá IX khẳng
định: “tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
- Hai là, Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta xem xét, đánh giá tín ngưỡng, tôn
giáo toàn diện, lịch sử cụ thể hơn
Xem xét, đánh giá tôn giáo trong sự thống nhất biện chứng giữa ý thức tôn giáo, tổ
chức tôn giáo và các hoạt động tôn giáo, trong đó đặc biệt quan tâm xem xét, đánh giá tổ
chức và hoạt động tôn giáo, nhất là các hoạt động tôn giáo. Đảng ta khẳng định: các
“Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải bảo đảm an toàn, tiết kiệm, phù họp với truyền
thống bản sắc văn hoá dân tộc, giữ gìn, bảo vệ môi trường”.
- Ba là, Từ năm 1990, Đảng, Nhà nước ta bắt đầu khẳng định những “hạt” tích cực
trong đạo đức, văn hoá, cộng đồng tôn giáo và tạo điều kiện giữ gìn, phát huy những giá
trị tích cực ấy vào xây dựng xã hội mới
- Bốn là, Trong thời kỳ mới, bên cạnh việc khẳng định những đóng góp to lớn của
đồng bào các tôn giáo với đất nước, Đảng, Nhà nước đồng thời cũng chỉ ra những hạn
chế, những khúc mắc trong lịch sử của một số tôn giáo đối với dân tộc nhằm tăng cường
sự hiểu biết, thông cảm, tạo nên sự đồng thuận trong nước và dư luận quốc tế
*Nhận thức mới về công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta
Một là, Từ Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoả IX (12/3/2003),
Đảng ta khẳng định: công tác tôn giáo không chỉ là vấn đề chiến lược, mà còn rất nhạy
cảm, hệ trọng và cấp bách, không thế trì hoãn
Đảng, Nhà nước khẳng định; công tác tôn giáo không đơn thuần là công tác tư
tưởng, mà cốt lõi là công tác vận động quần chúng, tổ chức thuyết phục giáo dục quần
chúng quán triệt, thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, là cuộc đấu tranh
gay go quyết liệt làm thất bại các âm mưu thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để lôi
kéo mua chuộc quần chúng chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. “Qua các giai
đoạn cách mạng Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến
lược có ý nghĩa rất quan trọng” và tiếp tục khẳng định: Trước đây, hiện nay và sau này
cũng vậy... công tác tôn giáo luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
của chúng ta.
Hai là, Lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng ta khẳng định: công tác tôn giáo phải
hướng tới “làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội”
Từ nhận thức mới về sự thống nhất giữa tính chất xã hội và tính chất tôn giáo trong
tổ chức tôn giáo, sự thống nhất giữa mặt tín đồ và mặt công dân trong một tín đồ tôn
giáo; và thấy rõ hơn những “hạt hợp lý vô cùng bé” trong các tôn giáo, Đảng, Nhà nước
ta đã xác định, công tác tôn giáo phải hướng tới: làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc,
với đất nước yà chủ nghĩa xã hội. Đây là một trong những chủ trương mang tính đột phá,
đánh dấu sự đổi mới, phát triển lớn trong nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về công tác
tôn giáo. Chủ trương đó là sự định hướng, mang tính chiến lược lâu dài, đặt cơ sở, nền
tảng cho toàn bộ hoạt động công tác tôn giáo trong cuộc đấu tranh chống những ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo, chuyển hoá tôn giáo theo chiều hướng tích cực, góp phần
tranh thủ, phát huy ngày càng tốt hơn nguồn lực con người từ các tín đồ tôn giáo trong
quá trình xây dựng và bảo vệ Tô quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, Trong thời kỳ mới, Đảng ta yêu cầu phải gắn chặt hơn việc xem xét, giải
quyết vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc và vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc
Tư tưởng trên đây chỉ rõ, mặc dù công tác tôn giáo có những nét đặc thù nhưng
muốn giải quyét tốt vấn đề tôn giáo phải đặt trong tổng thể của việc giải quyết vấn đề dân
tộc và đại đoàn kết dân tộc, trong đó vấn đề củng cố, phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc
phải là mục tiêu cao nhất chi phối việc giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo. Và giải quyết
vấn đề tôn giáo, dân tộc phải hướng tới tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Tránh khuynh hướng tách công tác tôn giáo với công tác dân tộc và công tác đại
đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời cũng cần khắc phục biểu hiện không nhận thức hết tính
đặc thù của công tác tôn giáo.
Bốn là, Khác với trước đây, Đảng, Nhà nước ta xác định; trong thời kỳ mớí “Nội
dung cối lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quân chúng
Cái mới trong nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo trong thời kỳ
mới chính là việc nhấn mạnh vị trí, vai trò “cốt lõi” của công tác vận động quân chúng
trong công tác tôn giáo. Điều này là hoàn toàn đúng đắn cả về lý luận và thực tiễn.
Công tác tôn giáo trước hết là công tác đối với con người, vì con người. Mục đích
cao nhất của nó là phải cùng các hoạt động khác góp phần thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nên muốn giành thắng lợi, nâng cao chất
lượng hiệu quả phải: trọng dân, gần dâán, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân,
nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
Năm là, Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, Đảng ta chủ trương nâng
tầm Nghị quyết, mở rộng tối đa đối tượng nghiên cứu, thực hiện Nghị quyết, đồng thời
tăng cường nghiên cưu lý luận cơ bản, bồi dưõng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác
tôn giáo...
Tuy nhiên, để những nhận thức mới về tôn giáo của Đảng, Nha nước trong thời kỳ
đổi mới ngày càng phát huy hiệu quả, chúng ta còn nhiều việc phải làm. Trong đó việc
quán triệt những nhận thức mới này vào nghiên cứu, giảng dạy tôn giáo học trong các
nhà trường quân đội là một việc làm cấp thiết.
*Ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
- Để nhận thức và thực hiện tốt chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo ở Việt Nam,
đòi hỏi chúng ta phải trên cơ sở nhận thức và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo trong điều kiện thực tiễn hiện
nay, phải tỏ rõ thái độ của những người cộng sản trong giải quyết vấn đề tôn giáo trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, dân chủ hóa đời sống xã hội. Đảng
và Nhà nước ta cũng từng bước xây dựng hoàn thiện chính sách đổi mới về công tác tôn
giáo theo quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề về chính
sách, pháp luật cũng cần được bổ sung, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho công tác tôn giáo
cũng như phù hợp với tình hình thực tế. Có như vậy mới thật sự tạo điều kiện cho các tôn
giáo tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, góp phần vào sự ổn định và phát triển đất nước trong điều kiện mới…
9. Vấn đề khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo đến đời sống
tinh thần xã hội ở Việt Nam hiện nay? Ý nghĩa phương pháp luận trong công tác
dân vận hiện nay?
Với tính cách là một tổ chức xã hội, một lực lượng xã hội, tôn giáo là một tổ chức
không thể xem thường. Với tổ chức chặt chẽ, khép kín và mang tính quốc tế, tôn giáo là
một tổ chức rất khó kiêm soát. Mặt khác, với tổ chức chặt chẽ như vậy, tôn giáo lại thu
hút được đông đảo quần chúng tham gia, hoạt động khá hiệu quả, do đó tổ chức tôn giáo
càng mạnh bao nhiêu, càng chi phối được quần chúng bao nhiêu thì cũng có nghĩa là vai
trò lãnh đạọ của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước XHCN càng suy giảm bấy nhiêu ở
những vùng đồng bào có đạo. Đồng thời sự chặt chẽ về tổ chức, sự lạc hậu, bảo thủ về ý
thức hệ của tôn giáo dễ làm xuất hiện những lực lượng cuồng tín, sẵn sàng “tử vì đạo”,
đây cũng là một mối nguy hiểm cần hết sức đề phòng. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh
rằng, việc giành lấy quần chúng có đạo, là một trong những nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa
chiến lược của Đảng và Nhà nước XHCN.
Đời sống tình thần xã hội Việt Nam là tổng hòa những giá trị vật chất, tinh thần;
những quan hệ, những hoạt động tinh thần của xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại,
phát triển của người dân ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
*Ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo đến đời sổng tinh thần xã hội Việt Nam
Là sự tác động của tín ngưỡng, tôn giáo gây ra những biến đổi nhất định trong đời
sống tinh thần XHVN.
- Ảnh hường của tín ngưỡng, tôn giáo ... là tất yếu.
- Sự ảnh hưởng... thông qua nhiều con đường, hình thức, yếu tố khác nhau như: môi
trường sinh sống, quan hệ gia đình, bạn bè, thói quen, tâm lý tò mò muốn hiểu biết bởi
sức “hấp dẫn” của tín ngưỡng, tôn giáo.
- Ảnh hưởng tích cực: là sự tác động của tín ngưỡng, tôn giáo gây ra những biến đổi
tích cực trong đời sống tinh thần của nhân dân: góp phần tạo động lực cho người dân
trong lao động sản xuất, đấu tranh cách mạng; làm phong phú đời sống tinh thần; điều
chỉnh hành vi ứng xử theo hướng nhân văn,...
- Ảnh hưởng tiêu cực: là sự tác động của tín ngưỡng, tôn giáo gây ra những biến đổi
tiêu cực trong đời sống tinh thần của người dân: củng cố thế giới quan duy tâm, cản trở
sự hình thành, phát triển thế giới quan duy vật; kìm hạm, cản trở việc hoàn thành nghĩa
vụ, trách nhiệm công dân,...
*Khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo đến đời sống tinh thần
xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Tăng cường nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối quan điểm của Đảng vê tôn giáo và công tác tôn giáo.
- Nâng cao nhận thức của người dẫn về tôn giáo, về các thành tựu khoa học và công
nghệ hiện đại liên quan đến vấn đề tôn giáo.
- Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền giáo dục với đưa người dâri vào hoạt động thực
tiễn lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng.
- Không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
- Nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp trong
khăc phục ảnh hưởng tiêu cực cua tôn giáo.
- Đấu tranh chống…
*Ý nghĩa phương pháp luận đối vói công tác dân vận
- Một là, ở một nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo như Việt Nam thì tín đồ các tôn
giáo phải luôn đặt lợi ích dân tộc, quốc gia lên trên hết và phấn đấu vì mục tiêu chung là
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhà nước không phân biệt đối xử
về nghĩa vụ và quyền lợi công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Hai là, phát huy tính khoan dung, hòa đồng giữa các tôn giáo nhằm đoàn kết các
tôn giáo để bảo đảm ổn định chính trị - xã hội.
- Ba là, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào có đạo, thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, vùng sâu vùng xa nơi đồng bào tín đồ các tôn giáo
đang gặp nhiều khó khăn.
- Bốn là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng luôn đề cao cảnh giác
chống những âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch, kiên quyết trùng trị bọn
phản động đội lốt tôn giáo và lợi dụng vấn đề tôn giáo để hoạt động chống phá nhà nước.
- Năm là, nâng cao năng lực thực tiến lãnh đạo, quản lý vấn đề chính trị nói chung
và vấn đề tự do tín ngưỡng tôn giáo nói riêng cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở địa phương,
nhất là ở các vùng có đạo. Thực tiễn cho thấy, cán bộ chính quyền ở địa phương nào có
năng lực lãnh đạo, quản lý tốt vấn đề chính trị (ở vùng có đạo bao gồm cả vấn đề tôn
giáo), thì ở đó mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ được tổ chức thực
hiện tốt, đời sống mọi mặt và an ninh chính trị - xã hội ổn định.