Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

NHÂN tố CON NGƯỜI THEO QUAN điểm CHỦ NGHĨA MAC LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.74 KB, 20 trang )

Tiểu luận
NHÂN TỐ CON NGƯỜI THEO QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA
MAC - LÊNIN

Học viên :
Ngành học Khóa


2

Mở đầu
Từ thời xa xưa đến nay con người luôn là trung tâm nghiên cứu của
các khoa học nói chung và của Triết học nói riêng. Vấn đề con người là vấn
đề hết sức phức tạp mà các khoa học nghiên cứu thì chỉ nghiên cứu một
phần nào của con người mà không thể nghiên cứu hết tất cả các cơ quan, các
bộ phận, không nghiên cứu được bản chất của con người. Chỉ có Triết học nói
chung, đặc biệt là Triết học Mác – LêNin mới có sự nghiên cứu con người
trong một thể thống nhất không tách rời các bộ phận, nghiên cứu con người
trong một chỉnh thể từ đó truy tìm bản chất của con người và có những định
hướng giải phóng con người.
Trong xã hội hiện nay thì yếu tố con người là yếu tố cơ bản
không thể thiếu để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển đất nước
và phát triển cả thế giới. Con người là tiềm năng là và sức mạnh trí
tuệ, tinh thần, đạo đức là nhân tố quyết định và là vốn quý nhất để xây
dựng đất nước giàu mạnh.
Do đó việc nghiên cứu để áp dụng quan điểm Triết học về nhân tố con
người vào việc định hướng giải phóng con người hiện nay ở nước ta hiện nay
là vấn đề quan trọng, không thể thiếu vì nó là cơ sở, là động lực để phát triển
đất nước. Nó cũng là những lýdo mà tôi chọn đề tài “ Nhân tố con người theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin”
Tiểu luận này gồm các nội dung chính sau:


Chương 1: Quan điểm về con người theo quan điểm phương Tây và
phương Đông trườc triết học Mác - Lênin.
Chương 2: Quan điểm về con người theo triết học Mác – Lênin
Chương 3: Phát huy vai tri nhân tố con người trong giai đoạn hiện nay ở
Việt Nam

2


3

Chương 1

QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI THEO QUAN ĐIỂM
PHƯƠNG TÂY VÀ PHƯƠNG ĐÔNG TRƯỚC TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Có thể nói rằng lich sử khoa học nói chung, của triết học nói
riêng là lịch sử nghiên cứu về con người. Tuy nhiên, mỗi khoa học có cách
tiếp cận vấn đề con người theo phương pháp riêng, phù hợp với đặc điểm,
đối tượng của mình. Các khoa học khác khi nghiên cứu con người thì nghiên
cứu trực tiếp vào một bộ phận nào của con người, cin triết học Mác nghiên
cứu con người bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ thống. Do vậy, quan
hệ giữa triết học với các khoa học khoa học khác là quan hệ giữa cái chung
và cái riêng.
Từ thời cổ đại, các trường phái triết học đều tìm cách lý giải bản
chất con người, quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh.
Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi
giáo nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí
hoặc nhị nguyên luận. Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa

danh và sắc. Đời sống của con người trên trần thế chỉ là ảo giác hư vô. Vì
vậy, cuộc đời con người khi cin sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống
vĩnh cửu là phải hướng đến trạng thái Niết bàn, nơi tinh thần của con người
được giải thoát để trở thành bất diệt.
Như vậy, dù bị chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc nhị
nguyên, suy đến cùng con người trong quan niệm của các học thuyết tôn giáo
phương Đông đều phản ánh sai lầm về bản chất của con người, hướng con
người đến thế giới thần linh. Trong tiết học phương Đông, với sự chi phối bởi
thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác, biểu hiện trong tư tưởng Nho
giáo, Lão giáo, quan niệm về bản chất con người cũng thể hiện một cách
phong phú. Khổng tử cho rằng bản chất con người do thiên mệnh chi phối
quyết định, đức “nhân” chính là giá trị cao nhất của con người. Mạnh Tử
3


4

quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của
phong tục, tập quán xấu mà con người bi nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp.
Vì vậy phải qua tu dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình. Củng
như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để
dẫn dắt con người hướng đến các giá trị đạo đức tốt đẹp.
Triết học Tuân tử cho rằng, bản chất con người sinh ra là ác, nhưng
có thể cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được.
Trong Tiết học phương Đông có quan niệm duy tâm cho rằng trời
và người có thể hòa hợp với nhau.
Lão tử, người mở đầu cho trường phái Đạo gia cho rằng người sinh ra
từ “Đạo”. Do đó con người cần phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên,
thuần phát không hành động một cách giả tạo, gi ép, trái với tự nhiên. Quan
niệm này biểu hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của Triết học Đạo gia.

Có thể nói rằng, có nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học
phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú , thiên về con người
trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Nhìn chung con người trong triết học
phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất
phác ngây thô trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác
nhau về con người:
Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo,
nhận thức về vấn đề con người trên cô sở thế giới quan duy tâm, thần bí.
Trong Kitô giáo, con người là kẻ có thể xác. Thể xác sẽ mất đi nhưng linh
hoàn vẫn cin tồn tại mãi mãi. Linh hoàn là giá trị cao nhất trong con người.
Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc linh hoàn để hướng tới thiên đường vĩnh
cửu.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi
đ ầ u của tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương
phản chiếu lẫn nhau. Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Prôtago
4


5

cho rằng “con người là thước đo của vũ trụ”. Quan điểm của Arixtốt về con
người, theo ông, chỉ có linh hoàn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ
thuật làm cho con người nổi bậc lên, con người là bậc thang cao nhất của vũ
trụ. Khi đề cao nhà nước, ông xem con người là “một động vật chính trị”.
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã có sự phân biệt con người với tự
nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người.
Triết học Tây Âu thời trung cổ xem con người là sản phẩm của
Thượng đế sáng ïtạo ra. Mọi số phận niềm vui, nổi buồn sự may rủi của con

người đều do Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ của con người thấp hơn lý trí anh
minh sáng suốt của Thượng đế. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống
tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại đặc biệt đề cao vai tri của trí
tuệ, lý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đólà một
trong những yếu tố quan trọng nhằm giải thoát con người ra khỏi mọi gông
cùm chật hẹp mà chủ nghĩa thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con người. Tuy
nhiên, để nhận thức đầy đủ con người cả về mặt sinh học và về ỉmặt xã hội thì
chưa có trường phái nào đạt được. Con người chỉ được nhấn mạnh về mặt cá
thể, mà xem nhẹ mặt xã hội.
Triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantô,
Hêghen đã phát triển con người theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm.
Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan, thông qua sự vận
động của “ý niệm tuyệt đối”, đã cho rằng, con người là hiện thân của “ý niệm
tuyệt đối”. Bước diễu hành của “ý niệm tuyết đối” thông qua quá trình tự ý
thức của con người đã đưa con người trở về giá trị tinh thần, giá trị bản thể
và cao nhất trong đời sống con người. Hêghen cũng trình bày một cách có hệ
thống về các quy luật của quá trình tư duy của con người, làm rõ cơ chế
tinh thần đời sống tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người.
Mặc dù, con người được nhận thức được từ mức độ duy tâm khách quan,
nhưng Hêghen là người khẳng định vai tri chủ thể của con người đối với lịch
sử, đồng thời cũng là sự phát triển của kết quả lịch sử.
Tư tưởng duy tâm Phoiôbắc đã vượt qua những hạn chế trong triết
5


6

học Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một cách đích thực.
Phoiôbắc phê phán tính chất siêu nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản chất

con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con người là sự vận
động của thế giới vật chất tạo nên. Con người là kết quả của sự phát triển
của thế giới thự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách
rời. Phoiôbắc đề cao vai tri trí tuệ của con người với tính cách là những cá
thể người. Đó là những con người cá biệt, đa dạng, phong phú không giống
ai. Quan niệm này dựa trên nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm
tính, nhằm giải phóng cá nhân con người. Tuy nhiên, Phoiôbắc không thấy
được bản chất xã hội trong đời sống con người, tách con người ra khỏi điều
kiện lịch sử cụ thể. Con người của Phoiôbắc là phi lịch sử, phi giai cấp và
trừu tượng.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học
trước
Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận
hay duy vật siêu hình đều không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn
chung, các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng,
tuyệt đối hóa mặt tinh thần thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên –
sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy, một
số trường phái triết học vẫn đạt được những thành tựu trong việc phân tích,
quan sát con người, đề cao uy tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để
hướng con người tới tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình
thành tư tưởng về con người của triết học Mác.

Chương 2
Quan điểm về con người theo triết học Mác – Lênin
Qua sự trình bày trên, chúng ta thất rằng trước khi có triết học Mác
ra đời, những cố gắng của tư duy triết học nhằm đạt đến sự hiểu biết về con
6


7


người “cụ thể”, “hiện thực” đều không đem lại kết quả. Cuối cùng thì chủ
nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức đời sống xã hội. Một nhiệm vụ có ý
nghĩa đặt ra là: thay thế con người trừu tượng, hoặc con người tự nhiên – sinh
học bằng con người cụ thể trong sự phát triển lịch sử, con người xã hội. Một
con người như vậy đã thực sự ra đời trong quá trình Mác – Aêngghen xây
dựng nên học thuyết hoàn chỉnh của mình.

2.1. Quan điểm về con người trong triết học Mác - Lênin
Lịch sử quá trình hình thành triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác
nói chung, đã chứng tỏ một cách rõ ràng rằng: Con người là điểm xuất
phát và sự giải phóng con người là mục đích cao nhất của triết học Mác.
Song triết học Mác lại không thể lấy con người làm đối tượng nghiên cứu của
mình.Vì:
- Con người là một khách thể có nội dung hết sức phong phú, sự tồn
tại của con người bao hàm nhiều mặt với vô vàn các quan hệ phức tạp, nên
con người được nghiên cứu bởi nhiều khoa học khác nhau như sinh vật
học, tâm lý học, y học, sử học, văn hóa học, giáo dục học ... Nhưng các khoa
học này chỉ lấy một phần nào đó của con người để nghiên cứu và trực tiếp
nghiện cứu vào vào đối tượng đó.
- Triết học chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất về con người
như bản chất của con người, thế giới quan, tư duy, đạo đức, tín ngưỡng , thẩm
mỹ của con người, các quan hệ cá nhân và xã hội, quan hệ giai cấp, dân tộc
và nhân lọai… Song triết học không giới hạn đối tượng nghiên cứu của mình
ở từng mặt của con người trong trạng thái trừu tượng, cô lập với thế giới bên
ngoài. Hay nói cách khác triết học nghiên cứu về con người theo hướng trước
hết trả lời cho câu hỏi “Con người là gì?” từ đó mới đi truy tìm bản chất con
người.
Triết học Mác quan niệm rằng: “Con người là thực thể thống nhất giữa
mặt sinh vật với mặt xã hội”.

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm con người trong lịch sử triết học
7


8

đồng thời khẳng đinh con người người hiện thực là sự thống nhất giữa con
người sinh học và con người xã hội.
Tiền đề vật chất là tiền đầu tiên quy đinh sự tồn tại của con người là sản
phẩm của giới tự nhiên. Do đó con người sẽ bị những quy luật tự nhiên và sinh
học ví dụ:ï như quy luật phủ đinh của phủ đinh, quy luật biến dị, di truyền ...
chi phối cuộc sống một cách tự nhiên mà con người không cưỡng lại được.
Vì con người là thực thể sinh học cho nên con người mang bản chất
tự nhiên thể hiện nhu cầu có tính bản năng đói muốn ăn, khát muốn
uống, đau kêu… Như vậy, con người trước hết là một sinh vật, biểu hiện
trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cô thể của con người và mối
quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học,
quá trình tâm – sinh lý, các giai đọan phát triển khác nhau nói lên bản
chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng đinh rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu
tố duy nhất quy đinh bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt
giữa con người với thế giới lại vật là mặt xã hội. Tính xã hội của con
người biểu hiện trong họat động sản xuất vật chất, nó biểu hiện căn
bản tính xã hội của con người. Thông qua họat động lao động sản xuất,
con người tạo ra của cảùi vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình;
hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy,
lao động là yếu tố quyết đinh hình thành bản chất xã hội của con người, đồng
thời hình thành nhân cách cá nhân trong xã hội.
Con người sống không tách rời khỏi cộng đồng xã hội . Mối quan hệ
với cộâng đồng xã hội nên con người chịu sự chi phối của các quy luật xã hội

như quy luật kinh tế, quy luật cung cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với lực lượng sản xuất v...
Con người là một thực thể xã hội nên con người có bản chất xã hội.
Bản chất xã hội thể hiện những nhu cầu có tính bản năng con người luôn chú
ý để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng của xã hội chính điều này đã làm cho
con người từ động vật ra nhưng con người khác với con vật.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan
8


9

hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu
xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Trong mối quan hệ giữa thực thể
tự nhiên và thực thể xã hội thì thực thể tự nhiên là tiền đề trên tiền đề đó
thực thể xã hội tồn tại và phát triển. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên
của con người mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với
loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa”để mang giá trị văn minh con
người, đến lượt nó nhu cầu xã hội không thể thóat ly khỏi tiền đề nhu cầu
sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để trở thành
con người tự nhiên - xã hội.
2.2 Vấn đề bản chất con người
Con người là thể thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Nếu xét con
người là một chỉnh thể thì con người mang bản chất xã hội. “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội.”
Con người sống trong cộng đồng người nào, sống trong chế độ
xã hội nào thì mang bản chất của cộng đồng đó, chế độ xã hội đó. Chúng ta
thấy rằng, con người đã vượt lên thế giới loài vật về cả ba phương diện khác
nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con
người. Cả ba mối quan hệ đó, suy cho cùng, đều mang tính chất xã hội, trong

đó quan hệ xã hội giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm các quan
hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy,
để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi
tiếng “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riệng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con con người là tổng hồ
những quan hệ xã hội”. Điều này khẳng đinh rằng không có con người trừu
tượng, thóat ly khỏi mọi điều kiện mọi hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn
luôn cụ thể, xác đinh, sống trong một điều kiện lịch sử nhất định, một thời đại
nhất đinh. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể
lực và cả tư duy trí tuệ. Do đó, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều
kiện lịch sử xã hội luôn vận động và biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp.
9


10

Nên khi xem xét về bản chất con người ta phải đặt con người trong không gian
cụ thể, thời gian cụ thể, hoàn cảnh cụ thể.
Bản chất con người không phải là hệ thống đóng kín, mà là hệ thống
mở, là“tổng hòa các quan hệ xã hội”. Các quan hệ xãhội khác nhau không ít thì
nhiều có sự thâm nhập với nhau, chi phối nhau để góp phần hình thành nên bản
chất của con người. Bản chất con người bị chi phối bởi tất cả các yếu tố. Nếu
như xét về mặt thời gian thì thì bản chất con người bị chi phối bới quá khứ, hiện
tại và tương lai. Nếu xét về mặt không gian thì tất cả những quan hệ trực tiếp,
gián tiếp, quan hệ gần quan hệ xa đều góp phần hình thành bản chất con người.
Nếu xét vềcác loại quan hệ thì có bao nhiêu loại quan hệ thì có bấy nhiêu quan
hệ góp phần hình thành nên bản chất con người. Những quan hệ cơ bản có
thể kể đến đó là quan hệ kinh tế, chính trị, đạo đức, huyết thống, hôn nhân…
trong các quan hệ ấy thì quan hệ kinh tế giữ vai tri quyết định vì khi kinh tế

thay đổi thì bản chất con người sẽ thay đổi rất nhanh.
Như vậy, bản chất của con người không được sinh ra mà được
sinh thành. Bản chất con người hình thành và thay đổi theo sự hình thành các
quan hệ xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là quan hệ về kinh tế.
Vì vậy, để giải phóng con người thì phải tạo điều kiện tối ưu để con
người phát huy tối ưu khả năng của mình. Phải kìm hãm tất cả các mối quan
hệ, các hoàn cảnh đang kìm hãm sự phát triển con người. Trong đó quan hệ
về kinh tế là quan hệ quan trọng nhất cho nên khi giải phóng con người
cần xem trọng quan hệ này. Muốn giải phóng con người thì trước tiên những
con người đó phải được giải phóng ra khỏi sự áp bức, bóc lột, giải phóng họ
ra khỏi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Phải làm cho hoàn cảnh tác động
đến đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt đến các giá trị có
tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con
người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh
theo nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử,
hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện
chứng của mối quan hệ giữa con người hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào
10


11

của lịch sử loài người.

2.3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Với tư cách là thực thể xã hội, con người họat động thực tiễn tác động
vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, thúc đẩy sự vận động và phát triển
của lịch sử xã hội thì càng đóng vai trò là chủ thể. Thế giới loài vật dựa vào
những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua họat

động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm giới tự nhiên, tái tạo lại
lại tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Mặt khác, trong quá trình cải biến giới tự nhiên thì con người vừa
làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời
là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Họat động
lao động sản xuất vừa là điều kiện tồn tại của con người, vừa là phương
thức để biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cô sở nắm bắt quy luật của
lịch sử xã hội, con người thông qua họat động vật chất và tinh thần, thúc đẩy
xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con
người đặt ra. Không có họat động của con người thì cũng không tồn tại quy
luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có
sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người từu tượng, chỉ có con người trong mỗi giai
đọan phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải
thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng
kín, mà là một hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất của con người theo hướng tích cực thì
cần phải làm cho hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh
trên nhiều phương diện khác nhau, nó là biện chứng của mối quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đọan nào của lịch sử

11


12

Chương 3
PHÁT HUY VAI TRI NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐỌAN HIỆN NAY

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì muốn phát triển thì ta phải
dựa vào những tiền đề đã có, lấy đó làm cô sở để họach định cho tương lai.
Do đó để hiểu rõ hơn về con người Việt Nam trong giai đọan hiện nay để
từ đó có định hướng phát triển thì trước hết ta phải tìm hiểu đôi nét về
con người Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh gần đây – Chiến tranh chống
đế quốc Mỹ.
12


13

3.1 Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh
Năm 1975 Việt Nam đã đánh thắng Mỹ thống nhất đất nước là một
biểu tượng của thời đại. Chính những con người Việt Nam thời đại Hồ
Chí Minh đã làm nên lịch sử mà không phải dân tộc nào cũng có thể
làm được. Với ý chí quyết chiến, quyết thắng, thái độ sống lạc quan, sự
đoàn kết nhất trí giữa lãnh đạo và quần chúng, lòng yêu thương giữa những
con người với nhau ... trong điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh đã góp
phần làm xua tan tâm trạng bi quan tuyệt vọng, bế tắc khôi phục lại niềm
tin ở mỗi con người vào sự tất thắng của chính nghĩa và lý trí.
Dân tộc Việt Nam ta trong thời kỳ chiến tranh được đánh giá rất
cao vì họ là những người dám hy sinh thân mình vì người khác, vì cuộc chiến
đấu giải phóng dân tộc. Họ là những con người có vóc dáng rất nhỏ bé nhưng
ý chí, niềm tin thật là to lớn, không có kẻ địch nào có thể khuất phục được
họ. Thế điều gì đã tạo nên sức mạnh Việt Nam, phẩm chất Việt Nam
trong thời kỳ đánh Mỹ cứu nước.
Một điều hiển nhiên là khi xem xét hiện tại thì không thể tách rời
khỏi quá khứ lịch sử, nhân dân ta rất tự hào về nền văn hiến mấùy nghìn năm
lịch sử.
Không phải những đặc điểm về chủng tộc, về đia lý… mà chính lịch

sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước trải qua cuộc đấu tranh chinh phục
thiên nhiên và chống giặc ngọai xâm đã tạo nên bản cho người Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, chủ nghĩa yêu nước là cái vốn quý nhất
là đặc điểm lớn nhất trong di sản tinh thần của dân tộc Việt Nam ta. Chủ
nghĩa yêu nước là truyền thống Việt Nam: thà chết, thà hy sinh tất cả chứ
không chịu cúi đầu làm nô lệ, là động lực tinh thần của ý chí quyết chiến,
quyết thắng bất cứ kẻ xâm lược lớn mạnh nào, là cơ sở đạo lý của đại đoàn
kết toàn dân. Chủ nghĩa yêu nước kết hợp với tài thao lược, mưu trí, sáng
tạo đã hung đúc nên nghệ thuật quân sự Việt Nam điêu luyện bách chiến
bách thắng.
Con người Việt Nam trong chiến tranh mang tính nhân văn, tính
13


14

“người” rất cao. Chúng ta phải tôn trọng, nâng niu những giá tri truyền thống
đó, nhưng chúng ta không nên quá đề cao vai trò của lịch sử. Chúng ta phải
hiểu rằng lịch sử là một quá trình tiếp nối vô tận, trong đó luôn luôn diễn
ra sự phủ định biện
chứng giữa cái cũ và cái mới, con người luôn luôn diễn ra sự phủ định biện
chứng cái cũ bởi cái mới, trong đó con người luôn đứng trước những yêu cầu,
đòi hỏi mới chưa hề đặt ra cho các thế hệ trước. Truyền thống lịch sử là cái
vốn có để từ đó đi lên, nhưng chính khi đối chiếu với những yêu cầu, đòi hỏi
mới thì nét tiêu cực, lạc hậu của cái cũ nổi lên rất rõ.

3.2 Xây dựng và phát huy vai tri con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay
Con người Việt Nam có một lịch sử mấy ngàn năm nhưng con
người Việt Nam kiểu mới chỉ mới bắt đầu khai sinh từ khi cách mạng Việt

Nam đã đi vào quỹ đạo cuả cách mạng thời đại, trải qua phong trào cách
mạng trong những năm 30, cách mạng tháng tám năm 1945, cuộc kháng
chiến chống mỹ cứu nước, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cuộc chiến
chống đế quốc Mỹ cứu nước. Xét về mặt quan hệ với lịch sử đó là một sự
phục hưng vĩ đại cuả tất cả các giá trị truyền thống lâu đời cuả cả dân tộc,
chuyển sức mạnh tiềm tàng cuả lịch sử thành sức mạnh hiện đại.
Xét về mặt lịch sử con người Việt nam sống trong chiến tranh tranh,
phải luôn luôn tìm cách chống giặc bảo vệ tổ quốc chiếm một thời gian gấp
bội lần so với công cuộc xây dựng đất nước. Nên khi hòa bình được lặp lại
thì câu hỏi được đặt ra là: làm thế nào chuyển được khí thế và sức mạnh cuả
chủ nghiã anh hùng cách mạnh thời chống Mỹ, cứu nước vào mặt trận xây
dựng chủ nghiã xã hội, trước hết là vào lao động sản xuất. Nhiều người đã tin
tưởng rằng khi đã có một truyền thống kiên cường trong đấu tranh thì cũng
sẽ thành công trong công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, chiến tranh và
lao động lại là những hiện tượng xã hội khác nhau, phát triển theo những quy
luật khác nhau, chịu sự tác động cuả những quy luật khác nhau, đứng trước
14


15

bước ngoặc này đòi hỏi chúng ta giải quyết hàng loạt vấn đề mới mẻ mà
chúng ta chưa nhiều kinh nghiệm, đòi hỏi mỗi chúng ta phải có sự thích
ứng mới, rèn luyện mới.
Thật vậy, sau chiến tranh người Việt Nam chưa phát huy được mọi
năng lực vốn có cuả mình, vì con người không được giải phóng ra khỏi những
quan hệ ràng buộc sự phát triển. Trong thời gian này rất nhiều tài năng bị
chôn chặt do chế độ xã hội không khuyết khích họ, họ không được giải
phóng ra khỏi những ràng buộc nhất là ràng buộc về kinh tế. Kết quả là sau 10
năm đổi mới nền kinh tế nước ta không thể phát triển, con người không thể

phát huy được tính năng động sáng tạo vốn có cuả họ.
Có thể nói rằng con người Việt Nam trong thời bình có thể
phát huy được tài năng cuả mình từ khi chế độ bao cấp được bải bỏ, khi ta
tiến hành xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự đinh hướng cuả nhà
nước. Khi Đảng ta
vận dụng quan điểm cơ bản cuả chủ nghiã duy vật biện chứng và chủ nghiã
duy vật lịch sử về sự tác động biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, về
con người với tư cách là chủ thể có ý thức cuả xã hội, vưà là sản phẩm cuảxã
hội, Đảng ta xem xét và giải quyết vấn đề xây dựng con người mới trong mối
liên hệ thống nhất hữu cơ với việc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới,
nền văn hóa mới.
Muốn phát huy hơn về vai trò nhân tố con người trong thời đại hiện
nay thì phải đề cao vai trò của con người với tư cách là chủ thể cuả lịch
sử và tạo điều kiện để con người phát huy được tài lực, trí lực, nhân lực. Để
làm được điều này thì Đảng ta phải có những định hướng, phải có những
đường lối, chính sách rõ ràng để từng bước nâng cao trình độ học vấn, trình
độ tư tưởng, nâng cao mức sống… nhằm để con người có những điều kiện tốt
nhất để phát huy khả năng của mình.
Những vấn đề này đã được Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm và
được thực hiện qua nhiều việc làm cụ thể như
- Thực hiện xóa đói giảm nghèo để mọi người thóat ra khỏi nghèo
đói từ đó tài năng sẽ dễ dàng phát huy. Khi điều kiện kinh tế quá thấp, suốt
15


16

ngày ý nghĩ không ra thể vượt ra khỏi cơm, áo, gạo, tiền thì người ta rất khó
nghĩ đến những thứ khác như học tập nâng cao trình độ, tìm tòi để phát hiện
ra những cái mới. Do đó phải thực hiện được xố đói giảm nghèo bằng cách

cho họ vay vốn để sản xuất nông nghiệp, tạo cho họ có công ăn việc làm ….
Cũng đã đem lại hiệu quả nhất đinh đã làm cho một số người dân thóat ra khỏi
tình trạng thiếu trước hụt sau từ đó họ mới có điều kiện để lo cho con cháu
cuả họ.
- Khi trình độ cuả con người quá thấp thì họ cũng khó có thể phát
huy vai trò cuả mình, khó góp phần tích cực vào xu thế phát triển chung.
Do đó muốn mọi người dân đều có thể tiếp thu được những chính sách, những
thành tựu khoa họïc kỹ thuật … thì phải tiến hành xã hội hóa giáo dục. Nước
ta hiện nay đã hoàn thành xong việc xóa mù chữ ở bậc tiểu học và đang tiến
hành phổ cập hóa bậc trung học. Nhìn chung hiện nay trình độ dân trí cuả ta
còn thấp nên vần đề nâng cao dân trí là vấn đề cấp bách nhưng khá là nan
giải vì một số bộ phận người dân cho là việc học là không cần thiết, nên họ
không đi học. Đảng và nước ta phải có chính sách như thế nào để mỗi người
dân có được điều kiện tốt nhất để học tập nâng cao trình độ, để họ có thể tự
giải phóng họ.
- Nếu chỉ kể đến kinh tế, giáo dục thì chưa đủ điều kiện để phát
huy vai trò cuả nhân tố con người. Một điều kiện không thể thiếu cho sự
phát triển đólà con người phải cómột sức khoẻtốt, vì cósức khoẻthì mới cóthể
tham gia vào các hoạt động vật chất cũng như là tinh thần tốt được. Để
phần nào nâng cao được chất lượng sức khỏe nước ta tiến hành xây dựng
mạng lưới y tế rộng khắp,
mọi đứa trẻ sinh ra phải được tiêm phòng một số bệnh nguy hiểm, mọi người
đều có thể đến trạm y tế để chăm sóc sức khoẻ cho mình. Có những chương
trình tư vấn về sức khỏe cốt yếu là để nâng cao sức khỏe y tế công đồng.
- Để có thể phát huy vai trò nhân tố con người khái quát và quan
trọng nhất là thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát tiển
nền kinh tế, đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu đến với sự giàu mạnh và
16



17

có thể hòa nhập được vào thế giới đang biến đổi hết sức sôi động. Khi thực
hiện thành công quá trình này thì đời sống cuả người dân dần dần được cải
thiện, họ mới có điều kiện để học tập, nghiên cứu, có điều kiện thể hiện được
bản thân mình, phát huy tài năng cuả mình. Đây phải nói là vấn đề then chốt
nhất quy đinh sự phát triển cuả xã hội, cuả một quốc gia. Hiện nay dường như
vấn đề này đã bắt đầu được diễn ra ở khắp mọi nới, từ thành thị đến cả
nông thôn, đâu đâu chúng ta cũng thấy bắt đầu xuất hiện những cơ sởsản
xuất, những nhà máy, những khu công nghiệp mói bắt đầu mọc lên. Khi
những cơ sở, những nhà máy này mọc lên thì ở khắp nơi thì tạo điều kiện cho
người dân tham gia vào quá trình lao động sản xuất tạo ra cuả cải vật chất, để
đời sống cuả họ được nâng lên từ đó làm cho xã hội phát triển, mọi người có
đủ điều kiện làm chủ bản thân mình, làm chủ tiến trình lịch sử.

KẾT LUẬN
Sau khi đã tìm hiểu chủ đề Triết học và vấn đề phát huy vai trò
nhân tố con người ở Việt nam trong giai đọan hiện nay tôi rút ra được một
số vấn đề cơ bản sau:
- Con người là một thự thể sinh học xã hội nên muốn nghiên cứu về
con người Việt Nam phải nghiên cứu những đặc điểm của con người
Việt Nam về mặt sinh học, về mặt tâm lý về nhận thức để làm cơ sở đinh
hướng cho sự phát triển.
- Vì con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử nên khi nghiên
cứu con người Việt nam thì phải nghiên cứu con người Việt Nam trong lịch
sử dựng
nước và giữ nước cũng như phải nghiên cứu con người Việt Nam mới xã hội
chủ nghĩa qua các giai đọan phát triển khác nhau của cách mạng Việt Nam
17



18

cho đến nay.
- Nghiên cứu con người Việt Nam hiện nay. Những đặc điểm, chỗ
mạnh và chỗ yếu của nó. Làm thế nào phát huy được đầy đủ những ưu điểm và
chỗ mạnh, khắc phục được nhanh chóng những chỗ yếu, những nhược điểm,
đểhoànthành nhiệm vụ của thời kỳlịch sử vàđưa con người Việt Nam lên một bước
phát triển cao hơn
- Nghiên cứu con người phải đặt trong các quan hệ không cô lập
tách rời ra khỏi xã hội, khỏi các quan hệ, phải tìm ra những quan hệ ràng
buộc sự phát triển để từ đó có định hướng cải tạo các quan hệ theo chiều
hướng tích cực để cho con người phát huy hết khả năng của mình.
- Nhìn chung để áp dụng thành công quan điểm triết học nói
chung và quan điểm của Triết học Mác – Lênin vào việc giải phóng con người
ở nước ta hiện nay thì trước hết chúng ta cần nghiên cứu thật kỹ về lý luận và
phương pháp về lý luận để từ đó mới có những chính sách, những chiến
lược, những định hướng … phù hợp với việc phát triển và giải phóng con
người.

18


19

19


20


20



×