Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

TỰ học BDTX MODULE 2 năm học 2016 2017 (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.85 KB, 42 trang )

Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017

TỰ HỌC BDTX NĂM HỌC 2016 – 2017
I/ MODULE 2: ĐẶC ĐIỂM HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THCS
* Nội dung hoạt động 1: Tìm hiểu hoạt động học tập của học sinh THCS
a/ Tuổi vị thành niên:
+ Vị thành niên là ai?
VTN (người sắp đến tuổi trưởng thành) là những em đang ở giai đoạn chuyển
tiếp từ ấu thơ sang trưởng thành trong độ tuổi từ 10- 19 (theo quy định của Tổ chức Y
tế Thế giới). Đây là giai đoạn phát triển đặc biệt mạnh mẽ và phức tạp nhất của cuộc
đời mỗi con người. Biểu hiện của nó là xảy ra đồng thời một loạt những thay đổi bao
gồm: Sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh tâm lý và các quan hệ
xã hội, bước đầu hình thành nhân cách nên nảy sinh nhiều rối nhiễu về tâm lý nhất so
với các lứa tuổi khác.
Tuổi VTN còn được chia ra ba nhóm:
* Nhóm VTN sớm (10-13 tuổi)
* Nhóm VTN giữa (14-16 tuổi)
* Nhóm VTN muộn (17-19 tuổi)
Sự phân chia các nhóm như vậy là dựa trên sự phát triển thể chất, tâm lý xã hôi
của từng thời kỳ, sự phân chia này cũng chỉ có tính chất tương đối. Vì trong thực tế,
yếu tố tâm sinh lý, phát triển thể lực của mỗi em có những đặc điểm riêng biệt không
hoàn toàn theo đúng như sự phân định. Cho nên nếu cha mẹ nhận thấy tại sao con
mình lại có những vấn đề không giống hoàn toàn với các em cùng trang lứa thì điều
đó cũng là điều bình thường và không nên quá lo lắng.
Tuổi VTN là thời kỳ có những thay đổi lớn lao trong cơ thể. VTN đang đứng
trước ngã ba đường đời, họ có thể và phải bắt đầu tự làm việc cho mình. Nếu bắt đầu
cuộc sống một cách tốt đẹp, họ có thể có được một sức sống và ý chí để làm việc,
nhưng họ cần giúp đỡ và cơ hội, và có được một mạng lưới an toàn khi va vấp.
Những khả năng phát triển mới này tạo ra những hành vi mới.
Những hành vi này không những thay đổi tùy theo giới tính và sự trưởng thành
về thể lực, trí tuệ và những quan hệ xã hội của các cá nhân VTN mà còn tùy thuộc


vào môi trường xã hội, văn hóa, chính trị, vật chất, kinh tế nơi họ sống.
+ Tuổi vị thành niên có ý nghĩa như thế nào?
Tuổi VTN là một trong những giai đoạn sôi nổi và có lẽ phức tạp nhất của cuộc
đời, đây là thời điểm mà VTN đảm nhận trách nhiệm mới và tự mình thử nghiệm,
khám phá và có khi là mạo hiểm. Các em đi tìm bản sắc riêng của chính mình, áp
dụng những giá trị đã được lĩnh hội từ giai đoạn trẻ thơ và phát triển các kỹ năng để
trở thành những người lớn có trách nhiệm và biết quan tâm đến người khác. Khi được
giúp đỡ và động viên, các em sẽ phát triển một cách phi thường, trở thành những
thành viên có khả năng và đóng góp có ý nghĩa cho gia đình và cộng đồng. Tràn trề
khí thế, thôi thúc bởi sự tò mò không dễ bị dập tắt, VTN có khả năng thay đổi những
hành vi tiêu cực trong xã hội và bứt phá vòng luẩn quẩn của sự xung đột và phân biệt
đối xử vốn đã thấm nhuần từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với sự sáng tạo và lòng
GV: Cao Minh Anh

1


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
nhiệt tình, VTN có thể thay đổi một cách bất ngờ, đem lại một thế giới tốt đẹp hơn
cho bản thân các em và cho mọi người.
Khi lên 10, các em bắt đầu một chặng đường dài qua các giai đoạn của tuổi
VTN. Cuộc hành trình này có thể gian nan, dễ mất phương hướng, nhưng cũng rất sôi
động và đầy thú vị. Đánh dấu bước khởi đầu của hành trình VTN tìm kiếm chính bản
thân mình, cũng như đi tìm ý nghĩa và vị trí trong cuộc sống. Các em giàu trí tưởng
tượng, tràn đầy khí thế về thế giới xung quanh và vị trí của em trong thế giới đó. Có
thể nói giai đoạn VTN được đặc trưng bởi sự phát triển nhanh cả về trí tuệ và thể lực.
Đây cũng là thời kỳ được đánh dấu những bước phát triển lớn về mặt xã hội, các em
có xu hướng thoát khỏi phạm vi gia đình để hòa nhập vào tập thể cùng lứa tuổi, các
em ham muốn tìm hiểu, khám phá và phát triển kỹ năng mới để tự khẳng định mình.
Tuổi VTN là giai đoạn quan trọng để hình thành tính cách và bản sắc. Đây

cũng là giai đoạn nhiều VTN tham gia vào cuộc sống xã hội và có đóng góp dưới
nhiều hình thức khác nhau. Trong mỗi gia đình, VTN có vai trò quan trọng là lực
lượng lao động sẽ thay thế cha mẹ để bảo đảm đời sống cho các thành viên trong gia
đình và sự tồn tại, phát triển của mỗi gia đình, mỗi dòng tộc. Vì vậy, nếu VTN được
bắt đầu cuộc sống một cách tốt đẹp , họ có thể có được một sức sống và một ý chí để
học tập, để lao động. Ngược lại, nếu họ mắc sai lầm trong thời kỳ này thì sẽ bị tổn
thương lớn về thể chất, tinh thần mà có thể không bao giờ hồi phục lại được.
Là những người chủ tương lai, kế tục và phát huy những thành quả của đất
nước, cha mẹ cần giúp các em tích cực học tập, chuẩn bị cho các em kiến thức đầy đủ
để làm chủ cuộc sống của mình và tham gia xây dựng xã hội. Cha mẹ cần định hướng
để VTN ý thức được những việc nên làm và nên tránh xa những việc không nên làm
như: ma túy, mại dâm, văn hóa phẩm đồi trụy; biết tiếp thu những cái mới, loại trừ
những cái xấu, kết hợp hài hòa văn hóa hiện đại với những bản sắc văn hóa dân tộc.
VTN là thời kỳ tràn đầy hứa hẹn và hy vọng nhất của cuộc đời. Nếu có thể là
bệ phóng để sản sinh ra những người trẻ tuổi đầy tự tin nếu được trang bị những kiến
thức, kỹ năng cần thiết để tạo dựng tương lai tốt đẹp cho bản thân, gia đình và xã hội.
+ VTN có những thay đổi như thế nào về thể chất?
Có thể nhận thấy những thay đổi về thể chất sau đây ở tuổi dậy thì:
Những thay đổi thể chất ở em gái:
* Ngay khi bước vào tuổi dậy thì, cơ thể các em bắt đầu phát triển nhanh hơn
mức bình thường. Các em gái cao rất nhanh và khi 18 tuổi các em có thể cao bằng
một người phụ nữ trưởng thành.
* Ngoài thay đổi về chiều cao, vú bắt đầu phát triển, mọc lông ở bộ phận sinh
dục và xuất hiện mụn trứng cá ở mặt.
* Giai đoạn dậy thì chính thức được đánh dấu bằng lần hành kinh đầu tiên, báo
hiệu trứng đã bắt đầu rụng và có khả năng có thai. Giai đoạn này diễn ra những biến
đổi quan trọng cho việc chuẩn bị làm mẹ sau này: Tử cung lớn và dày hơn, tuyến vú
phát triển, xương hông rộng ra.
+ Những thay đổi về thể chất ở em trai:
* Khi các em trai bước vào tuổi dậy thì, đặc điểm rõ rệt nhất là sự phát triển

mạnh mẽ về chiều cao và đến 17- 18 tuổi hầu hết các em đã đạt chiều cao tối đa.
* Cùng với sự phát triển chiều cao, dần dần xuất hiện lông mu, ria mép và mọc
mụn trứng cá. Đồng thời dương vật và tinh hoàn cũng bắt đầu phát triển về kích
2
GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
thước. Thanh quản mở rộng, vỡ giọng nói. Tiếp đó là sự phát triển của các cơ bắp ở
ngực, vai và đùi và bắt đầu có hình dáng đặc trưng của nam giới.
Lưu ý: Ở tuổi dậy thì không phải tất cả các em cùng tuổi hoăc cùng giới đều
phát triển như nhau. Có em có một số biểu hiện thay đổi sớm hơn một số em khác và
một số biều hiện thay đổi chậm hơn các em khác.
+ VTN có những thay đổi như thế nào về tâm lí, tình cảm?
VTN là những người không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn
dù là con trai hay com gái, diễn biến tình cảm và tâm lý cũng có những điểm giống
nhau do lứa tuổi, tất nhiên ở mỗi giới có thể có các biểu hiện ít nhiều khác nhau.
* Ở tuổi VTN nhóm sớm (10 - 13 tuổi): về mặt tâm lý và tình cảm, các em bắt
đầu có tư duy trìu tượng; các em ý thức được mình không còn là trẻ con nữa. Trong
hành động, các em muốn thử sức mình và muốn khám phá những điều mới lạ. Các
em thường quan tâm, đến những thay đổi của cơ thể, nhất là các em gái dễ băn khoăn,
lo lắng, buồn rầu về những nhược điểm ở cơ thể mình khi so sánh với các bạn cùng
lứa. Các em cũng bắt đầu quan tâm đến bè bạn, muốn tách khỏi sự bảo hộ của bố mẹ,
tuy nhiên các em vẫn còn quá trẻ, chưa có kinh nghiệm và vẫn phụ thuộc vào bố mẹ
và gia đình.
* Ở tuổi VTN nhóm giữa (14 -16 tuổi): các em phát triển mạnh tính độc lập,
muốn tách khỏi sự quản lý, kiểm soát của gia đình, phát triển mạnh cá tính và muốn
tìm kiếm những mối quan hệ bạn bè cùng lứa. Nhu cầu về tình bạn trở nên quan trọng
và dễ chịu ảnh hưởng (tốt cũng như xấu) của nhóm bạn đó; đặc biệt chú ý đến người
bạn khác giới và dễ nhầm lẫn tình bạn với tình yêu. Các em tiếp tục phát triển mạnh

về tư duy trừu tượng, tuy vậy các em lại thường thay đổi tình cảm một cách dễ dàng,
khi vui, khi buồn kiểu "sớm nắng chiều mưa". Khi mong muốn điều gì, các em muốn
được thoả mãn nhu cầu ngay và có thể hành động bất chấp hậu quả, trong khi về mặt
tư duy các em chưa phát triển đấy đủ khả năng tự phê phán. Cũng ở nhóm tuổi này
các em thường muốn tìm hiểu về khả năng hoạt động tình dục của mình.
* Ở tuổi VTN nhóm muộn (17 - 19 tuổi): cơ thể và chức năng sinh lý của các
bộ phận trong cơ thể các em đã gần như hoàn chỉnh. Về mặt tâm lý, tình cảm đã có
cách suy nghĩ, ứng xử khá chín chắn giống như người trưởng thành. Có suy nghĩ kế
hoạch cho tương lai, về sự lựa chọn nghề nghiệp một cách thực tế hơn, ảnh hưởng
của nhóm bạn bè giảm bớt, thường kén chọn bạn thích hợp với mình (bạn tâm giao).
Tình yêu ở nhóm tuổi này thực tế hơn, đã phân biệt tình bạn và tình yêu chứ không
còn mơ hồ như những năm trước đó.
Trên đây là những nét chính về phát triển tâm lý, tình cảm của các nhóm tuổi
VTN. Sự phát triển đó sớm, muộn khác nhau giữa các cá nhân và phụ thuộc không ít
về môi trường sống của VTN trong gia đình, nhà trường và xã hội. Có thể nói cách
sống và ứng xử của các bậc phụ huynh, thầy cô giáo và đặc biệt là của bạn bè cùng
lứa có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển tâm lý, tình cảm của các
em trong lứa tuổi này.
+ Những nguy cơ và thách thức nào đang đặt ra đối với VTN hiện nay?
VTN là nguồn nhân lực chủ yếu của đất nước trong tương lai; là lực lượng lao
động sẽ thay thế bố mẹ để đảm bảo đời sống và sự tồn tại, phát triển của mỗi gia
GV: Cao Minh Anh

3


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
đình. Tuy nhiên, VTN đang đương đầu với nhiều khó khăn, nguy cơ và thách thức mà
gia đình, nhà trường và toàn xã hội phải quan tâm giải quyết:
* Tình trạng VTN có thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn, mắc các bệnh

LTQĐTD, nhiễm HIV/AIDS, sử dụng và lạm dụng chất gây nghiện chiếm tỉ lệ còn
cao. Hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến SKSS
VTN. Theo số liệu của Bộ Y tế, tình trạng nạo hút thai ở lứa tuổi VTN trong những
năm gần đây có chiều hướng gia tăng. Số ca phá thai hàng năm ở lứa tuổi VTN có
khoảng 120.000 trường hợp (chiếm 10% tổng số người phá thai). Hiện tượng lây
nhiễm HIV/AIDS ở lứa tuổi VTN cũng đang ở mức báo động, cũng theo thống kê
này, có tới 14% số người là trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV/AIDS.
* Thiếu kiến thức, kỹ năng sống cần thiết để chăm sóc SKSS, SKTD; Tiếp cận,
sử dụng các dịch vụ thân thiện về chăm sóc SKSS, SKTD chưa được nhiều. Thời đại
bùng nổ thông tin dẫn VTN tiếp cận với nhiều nguồn phức tạp, không lành mạnh.
* Tác động nhiều mặt của xã hội và điều kiện sống khiến cho tuổi dậy thì sớm
hơn, trong lúc đó các em không được trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản về
chăm sóc SKSS.
* Nhiều VTN ở nông thôn muốn ra đô thị để hy vọng có được việc làm cuộc
sống sẽ rễ chịu trong khi không có nghề nghiệp, nhà cửa…dễ bị cưỡng bức và bị
xâm hại về tinh thần, thể chất…
* Vấn đề bình đẳng giới, tảo hôn trong quan niệm xã hội vẫn chưa được cải
thiện, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn nghèo.
* Cha mẹ còn thiếu kiến thức chăm sóc SKSS VTN, không giải thích được
những thắc mắc của các em, thường lảng tránh và định kiến.
* Các chương trình hiện tại cho VTN chưa hướng tới đáp ứng đầy đủ các nhu
cầu cho họ. Thiếu thông tin và thông tin chậm trễ đang làm cho giới trẻ hiểu lệch lạc
về hành vi tình dục.
Các định kiến của xã hội khiến VTN dễ bị tổn thương về SKSS; SKTD, và khi
xẩy ra những việc ảnh hưởng đến SKSS thì sự phản ứng của gia đình, nhà trường và
xã hội chưa tạo thuận lợi cho họ tự khắc phục.
b/ Đúc rút khảo sát tìm hiểu về đặc điểm hoạt động học của học sinh THCS
Lứa tuổi thiếu niên bao gồm những học sinh THCS có độ tuổi 11, 12 đến tuổi
14, 15 là giai đoạn có nhiều biến đổi mạnh “ tuổi khủng hoảng”, “ tuổi bất trị”…
Về mặt tâm lý đây là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ lên tuổi trưởng thành.

Đặc điểm chung lứa tuổi này “ vừa trẻ con, vừa có tính người lớn”, có khuynh
hướng muốn trở thành người lớn.
Tuy nhiên, xét về điều kiện phát triển tâm lý, ở lứa tuổi này có sự biến đổi
mạnh về thể chất nhưng không đồng đều như: Trọng lượng cơ thể tăng nhanh, hệ cơ
– xương phát triển không cân đối, hệ tim mạch phát triển nhanh làm rối loạn hô hấp,
tuần hoàn, hoạt động nội tiết gây rối loạn thần kinh; hệ thần kinh chưa có khả năng
chịu đựng kích thích mạnh.
Cùng với sự thay đổi về điều kiện sống như: Trong gia đình địa vị các em đã
thay đổi, được tham gia bàn bạc một số công việc, được giao một số nhiệm vụ; Trong
nhà trường việc học có sự thay đổi về nội dung dạy học, có sự thay đổi về phương
pháp dạy học và hình thức học tập; Trong đời sống xã hội các em được thừa nhận
4

GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
như một thành viên tích cực và được giao một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh
vực. Với những điều kiện phát triển tâm lý không đồng đều nêu trên mà lứa tuổi thiếu
niên có nhiều biểu hiện khủng hoảng trong đời sống tâm lý của các em.
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh, nhưng đến học
sinh THCS, hoạt động học tập được xây dựng lại một cách cơ bản so với lứa tuổi học
sinh tiểu học.
Về động cơ học tập: Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học đã chỉ
ra rằng ở thời kỳ đầu của lứa tuổi học sinh THCS chưa có kỹ năng cơ bản để tổ chức
tự học ( các em chỉ tự học khi có bài tập, nhiệm vụ được giao ) sau chuyển sang mức
độ cao hơn ( độc lập nắm vững tài liệu mới, những tri thức mới ). Bắt đầu ở lứa tuổi
này cũng là bắt đầu hình thành mức độ hoạt động học tập cao nhất. Đối với các em ý
nghĩa của hoạt động học dần dần được xem như hoạt động độc lập hướng vào sự thỏa
mãn nhu cầu nhận thức. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy động cơ học tập

của học sinh THCS có một cấu trúc phức tạp, trong đó các động cơ xã hội khác nhau
được kết hợp thành một khối ( học tập để phục vụ xã hội, để lao động tốt …). Những
động cơ nhận thức và những động cơ riêng ( ví dụ muốn có uy tín, có địa vị trong lớp
… ) liên quan với lòng mong muốn tiến bộ và lòng tự trọng. Đôi khi ta lại thấy có sự
mâu thuẫn giữa sự mong muốn trao đổi tri thức với thái độ bàng quan và thậm chí
thái độ xấu đối với học tập, thái độ : phớt đời” đối với điểm số.
Sở dĩ có tình trạng trên, là do các nguyên nhân sau: Do phản ứng độc đáo của
lứa tuổi này đối với thất bại trong học tập; do xung đột với giáo viên. Các em thường
hay xúc động mạnh khi thất bại trong học tập, nhưng lòng tự trọng thường làm cho
các em che dấu, thơ ơ, lãng đạm đối với thành tích học tập. Nhiều lúc chúng ta thấy
các em thường nhắc bài cho nhau. Việc làm này của các em có nhiều động cơ khác
nhau; nhưng các nhà tâm lý học đã xác nhận rằng, đó là động cơ thuộc về mặt nhận
thức đạo đức của các em. Các em nhắc bài cho bạn là muốn giúp bạn bằng mọi
phương tiện. Có em nhắc bài cho bạn để tỏ rõ sự hiểu biết của mình, muốn khoe
khoang sự chăm chỉ học hành của mình.
Tóm lại, động cơ học tập của học sinh THCS rất phong phú đa dạng, nhưng
chưa bền vững, nhiều khi còn thể hiện sự mâu thuẫn của nó.
Về thái độ đối với học tập của học sinh THCS cũng rất khác nhau. Tất cả các
em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ biểu
hiện rất khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện như sau:
- Trong thái độ học tập: từ thái độ tích cực, có trách nhiệm, đến thái độ lười
biếng, thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong học tập.
- Trong sự hiểu biết chung: từ mức độ phát triển cao và sự ham hiểu biết nhiều
lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em, nhưng ở một số em khác thì mức độ phát
triển rất yếu, tầm hiểu biết rất hạn chế.
- Trong phương thức học tập: từ hứng thú biểu hiện rõ rệt đối với một lĩnh vực
tri thức nào đó và có những việc làm có nội dung cho đến mức độ hoàn toàn không
có hứng thú nhận thức, cho việc học hoàn toàn bị gò ép, bắt buộc.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để giúp các em có thái độ đúng
đắn với việc học tập thì phải có biện pháp giúp học sinh như sau:

- Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học;
GV: Cao Minh Anh

5


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
- Tài liệu học tập phải gắn với cuộc sống của các em, làm cho các em hiểu rõ ý
nghĩa của tài liệu học;
- Tài liệu phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập;
- Trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó;
- Phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù hợp./.
c/ Thực trạng dạy và học ở THCS
Nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường là một yêu cầu bức xúc của
xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Việc nhà nước quy định các cấp trường từ
Tiểu học đến Đại học phải thực hiện sự kiểm định chất lượng, thông qua biệnpháp tự
đánh giá để xác định vị trí và khả năng đào tạo của mình trong hệ thống giáo dục ở
Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay càng khẳng định quyết tâm của Nhà nước ta
trong việc không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Học sinh đến độ tuổi THCS là đọ tuổi đã có thể lao động làm thêm để phụ giúp
gia đình, nhiều em co hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhiều gia đình không có đất canh
tác phải đi làm thuê “Lo cái ăn trước rồi mới đến cái học”, có số học sinh ở cách xa
trường …Chính vì vậy, sự quan tâm về học tập của con em đối với một số gia đình
còn nhiều hạn chế, số lượng học sinh gặp khó khăn trong việc học tương đối nhiều,
khả năng tiếp thu của một số học sinh còn quá chậm so với bạn cung trang lứa.
Việc quan tâm chăm sóc con em của một bộ phận phụ huynh học sinh chưa đáp
ứng với nhu cầu ngày càng cao của thời đại. Phụ huynh học sinh chưa nắm rõ quan
điểm giáo dục hiện nay, thái độ hợp tác giáo dục trẻ chưa rõ ràng, chưa thống nhất
với nhà trường. Giáo dục trẻ ở gia đình mang tính áp đặt, ít tạo điều kiện cho trẻ thể
hiện quan điểm của mình, sử dụng mệnh lệnh, roi vọt,…Cha mẹ thiếu làm gương cho

con noi theo. Một số gia đình bố, mẹ đi làm ăn xa gửi con cho người thân nuôi dùm,
đi làm từ sáng đến tối không có thời gian quan tâm đến việc học của con cái.Bên
cạnh đó tệ nạn xã hội, những thói quen xấu vẫn còn tồn tại khá phổ biến và những
bất cập khác.
Về chất lượng đội ngũ, đến nay, cán bộ và giáo viên của trường có trình độ đào
tạo chuyên môn trên chuẩn. Phần đa giáo viên nhiệt tình trong giảng dạy, yêu nghề
mến trẻ, tuy nhiên bên cạnh đó cạnh đó vẫn còn một số tồn tại, khó khăn :
Cơ sở vật chất của các nhà trường còn thiếu thốn nhiều
Đa số giáo viên tuổi đời còn trẻ, mới ra trường nên chưa dày dạn kinh nghiệm
giảng dạy, hoàn cảnh gia đình chủ yếu phụ thuộc vào tiền lương là chính, khoảng
cách từ nhà đến trường còn xa.
Một số giáo viên chưa chịu khó tìm tòi để có phương pháp giảng dạy tốt; chưa
biết phối kết hợp giữa các phương pháp giảng dạy để phát huy ưu điểm của từng
phương pháp trong quá trình giảng dạy.
Một số giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về phương pháp dạy học “Lấy học sinh
làm trung tâm ”. Trong quá trình dạy học chưa có kế hoạch phân nhóm học sinh theo
đối tượng để có những phương pháp dạy học phù hợp.
d/ Biện pháp tổ chức hoạt động học tập cho hs THCS:
Đối với cấp Tiểu học, việc tổ chức hoạt động học cho HS được diễn ra trong từng
lớp học theo định mức đang hướng tới là khoảng 15 - 30 lớp /trường, khoảng 20 30 HS /lớp và đua trường lớp gần vỏi khu dân cư nơi ở của HS.Việc tổ chức hoạt
động học dành cho HS cấp THCS được thực hiện theo hướng tập trung hơn, quy mô
6

GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
số lớp/trường và số HS/lớp lớn hơn để đáp úng đuợc hoạt động dạy và học ở cấp
học này. Đó là một số yêu cầu có tính đặc trung đối với cấp học, như:
GV được chuyên môn hóa, thưòng chỉ dạy một môn học ở một số lớp trong củng một khối

lớp, hoặc dạy một môn học ở các khối lớp khác nhau (do nhu cầu thực tế, hiện nay nhiều nhà chuyên môn
đang bàn tới việc đào tạo GVTHCS có khả năng dạy hai hoặc ba môn gần nhau).

Trong trường cần có phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn.
- HS đã lớn hơn, có thể đến trường trong khoảng cách khoảng vài ba cây số (có một
số HS đến trường bằng đoạn đường xa hơn thế).
- Hoạt động của tổ chuyên môn có vai trò quan trọng trong hoạt động dạy và học
theo phương châm “Dạy tốt- học tốt".
HS THCS không phải chỉ học trong phòng học dành riêng cho lớp mình mà nhiều
bài học, tiết học phải đuợc thực hiện trong phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn
hoặc trên hiện trường như khu thí nghiệm thực hành về sinh học, khu di tích lịch sử,
bảo tàng lịch sử, sinh học... Những bài học này rất có ích cả về kiến thức khoa học
và kĩ năng thực hành, kĩ năng giao tiếp và hoạt động nhóm.
Trong quá trình học tập để lĩnh hội tri thức, kĩ năng, hình thành thái độ tương ứng,
HS luôn cần sự hướng dẫn giảng giải của GV khi thì trực tiếp (trực diện trên lớp),
cũng có khi gián tiếp qua sách, tài liệu và các phương tiện thu nhận thông tin và dạy
học gián tiếp (thầy trực tiếp và thầy ẩn tàng). Những phương pháp dạy học của GV và theo
đó là phuơng pháp học hành của HS như thế nào là tuy thuộc vào nội dung bài học và điều kiện cụ thể. Đến
trình độ này, HS có thể làm việc cá nhân hoặc làm việc theo nhóm theo sự chỉ dẫn của GV và sự hướng
dẫn trong sách hoặc trong các tài liệu tham khảo hữu ích.
Có thể nói rằng, phương pháp giảng dạy cửa GV, theo đ ó là phương pháp thực hiện hoạt
động học cửa HS phụ thuộc vào nội dung học tập và các điều kiện- phương tiện phục vụ cho hoạt động dạy
và học, phụ thuộc vào trình độ “tay nghề" - chuyên môn và nghiệp vụ của GV. chính vì thế mà nhiều nhà
chuyên môn khẳng định vai trò quan trong của GV THCS - người quyết định chất lượng giáo dục hay là
quyết định sự thành bại của giáo dục.
Hoạt động học của HS THCS được GV tổ chức hướng dẫn theo các phương pháp có thể là khá phong
phú đa dạng, tuỳ thuộc vào nội dung và điểu kiện và có thể gọi bằng tên chung là phương pháp “Thầy tổ
chức- Trò hoạt động"
e/ Những giá trị cuộc sống phù hợp với lứa tuổi HS THCS mà nhà trường cần định hướng
và có biện pháp hình thành cho các em.


Chúng ta đang sống trong một thời đại mà việc dạy sao cho chúng nên người thực sự
là một thách thức. Trẻ em ngày nay luôn bị bủa vây bởi game online, Internet, cùng
những chương trình ti-vi với đầy rẫy những bộ phim đầy ắp các cảnh quay bạo lực,
sex, lừa lọc.
Là giáo viên, chắc hẳn các bạn cũng có lúc cảm thấy mệt mỏi bởi bạn đang cố gắng
xây dựng cho học sinh những đức tính tốt như trung thực, biết tôn trọng bản thân và
những người xung quanh khiêm tốn, dũng cảm và rộng lượng. Thách thức mà bạn
đang đối mặt cũng là thách thức mà từ bao lâu nay, các nhà triết học, tâm lý học đeo
đuổi và tìm cách giải quyết.
Để có năng lực tâm lý xã hội này, trẻ cần được trang bị các kỹ năng như: ý thức về
bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán đoán, truyền thông
và giao tiếp có hiệu quả, giải quyết vấn đề, lấy quyết định, ứng phó với cảm xúc và
stress v.v..
Bên cạnh đó, các giá trị sống (GTS) mà thầy cô cũng cần truyền cho học sinh trong
suốt cuộc đời như: sự chân thật, công bình, cảm thông, yêu thương và sự tự tin. Dù
GV: Cao Minh Anh

7


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
chưa thật thấu hiểu, trẻ vẫn có thể tiếp thu những tinh hoa của giá trị sống chủ
yếu nhờ năm giá trị sống này, trẻ có thể sống tốt khi trưởng thành.

Chính vì thế ngoài việc học cách để làm (doing) nhằm chuẩn bị mưu sinh cho cuộc
sống, học sinh cũng cần biết nên sống (being) ra sao. Nghĩa là làm thế nào để ứng
phó trước tình huống,quản lý cảm xúc, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người
xung quanh, làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ, làm thế nào để
thể hiện bản thân một cách tích cực, lành mạnh.

Đặc biệt trong một xã hội cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, nếu không được trang bị
sẵn vốn sống, chúng ta khó có thể ứng phó sao cho tích cực nhất khi phải đối mặt
trước những tình huống thử thách, hoặc sẽ dễ dàng bị sa ngã, bị ảnh hưởng tiêu cực
bởi môi trường sống.
Mặt khác, nếu học sinh người không có nền tảng GTS rõ ràng và vững chắc, dù cho
được học nhiều kỹ năng đến đâu, chúng ta sẽ không biết cách sử dụng nguồn tri thức
ấy sao cho hợp lý, mang lại lợi cho bản thân và cho xã hội. Không có nền tảng giá trị,
chúng ta sẽ không biết cách tôn trọng bản thân và người khác, không biết cách hợp
tác, không biết cách xây dựng và duy trì tình đoàn kết trong mối quan hệ, không biết
cách thích ứng trước những đổi thay, có khi còn tỏ ra tham lam, cao ngạo về kỹ năng
mình có.
Thiếu nền tảng GTS vững chắc, học sinh người rất dễ bị ảnh hưởng bởi những giá trị
vật chất và rồi mau chóng định hình chúng thành mục đích sống, đôi khi đưa đến kiểu
hành vi thiếu trung thực, bất hợp tác, vị kỷ cá nhân. GTS giúp chúng ta cân bằng lại
những mục tiêu vật chất. Những GTS tích cực là chiếc neo giúp chúng ta ổn định,
vững chãi giữa những biến động của cuộc đời, có thể sẽ không dễ dàng gì nhưng ta
vẫn vượt qua được mà không cảm thấy bị thua thiệt, mất mát.
Xã hội vận động & phát triển không ngừng đòi hỏi nhiều khía cạnh khác ngoài kiến
thức, tài năng. Khái niệm “kỹ năng sống” được nhắc đến như một yếu tố “đủ” mang
đến thành công trong đời với số liệu phân tích hẳn hoi nêu lên tỷ trọng của các kỹ
năng mềm (trí tuệ xúc cảm) quyết định đến 85% sự thành đạt trong sự nghiệp của
8

GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
một người so với chỉ 15% còn lại cho kỹ năng cứng (trí tuệ logic). Theo World Bank,
thế kỷ XXI được gọi là “Kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng” (Skills Based Ehọc
sinhomy). Kỹ năng sống (bao gồm kỹ năng mềm) ở đây là năng lực tâm lý xã hội,

tính thích ứng giúp cá nhân đối phó, giải quyết hiệu quả trước các nhu cầu (sinh sống,
học tập, lao động) và thách thức (tệ nạn, căng thẳng, mâu thuẫn…) hay biến cố nào
đó xảy ra trong cuộc sống.

Vậy thì, yếu tố “cần” của kiến thức đặt cạnh yếu tố “đủ” của kỹ năng có thực đã đủ
cho đích đến thành công nếu bản thân thiếu hẳn nền tảng cốt lõi của chuẩn mực, quy
chuẩn đạo đức được xã hội thừa nhận hay nói cách khác - thiếu hẳn giá trị sống đúng
đắn nhằm mang lại cảm giác ý nghĩa, hạnh phúc trước thành công đạt được? Câu hỏi
khác, một tài năng giỏi kỹ năng phải chăng lúc nào cũng hữu ích đối với xã hội?
Không chắc. Nếu tài năng, kỹ năng ấy phát huy dựa trên cơ sở của “đức”, khi ấy mới
thực hiền tài. Ngược lại, xã hội sẽ có thêm một nhân tố nguy hại khi cái tài bị bóp
méo, đi chệch hướng. Bởi vậy, không quá lời khi cho rằng gốc gác của mọi thành bại
trong cuộc sống của học sinh người chính từ chữ “tâm” - nơi những chuẩn mực xuất
phát từ tiềm thức và định hình giá trị bản thân mỗi người.
Có thể nói, tuy KNS là thái độ và hành vi phản hồi phù hợp với tác động từ môi
trường bên ngoài nhưng tiền đề để kỹ năng sống phát triển lại đến từ nhận thức về giá
trị sống. Nếu thiếu nền tảng giá trị sống, học sinh người sẽ không biết cách tôn trọng
cũng như nhận định đúng cái “tôi” và “chúng ta”. Giá trị sống, đơn giản – nằm ở
chính ý nghĩ, thái độ, hành vi theo quy chuẩn của đạo đức. GTS sẽ trả lời cho câu hỏi
“Vì sao? Tại sao?” một người nên hay không nên làm điều gì đó. Thế nên, kỹ năng
sống phải hình thành theo hướng tích cực dựa trên giá trị sống song song bổ trợ cho
kiến thức mới có thể mang lại thành tựu sự nghiệp lẫn cảm nhận thành công.
Trước khi hình thành những kỹ năng sống nào đó, các em còn cần cảm nhận rõ ràng
về các giá trị sống và sự lựa chọn của các cá nhân ấy đối với các giá trị.
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu thế nào là kĩ năng sống ? Giá trị sống ? Kĩ năng
sống là cụm từ được sử dụng rộng rãi cho mọi lứa tuổi trong mọi lĩnh vực hoạt động.
GV: Cao Minh Anh

9



Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
Đó có thể hiểu là năng lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và
thách thức của cuộc sống hằng ngày. Hay có thể hiểu nôm na rằng: Kĩ năng sống là
những kĩ năng cần có cho hành vi lành mạnh, tích cực, cho phép mỗi cá nhân đối mặt
với những thách thức của cuộc sống hằng ngày. Theo các tổ chức giáo dục thì kĩ năng
sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là:
- Học để biết: gồm các kĩ năng tư duy như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết
định giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả,…
- Học để làm: gồm các kĩ năng thực hiện công việc và làm nhiệm vụ như kĩ năng đặt
mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm, …
- Học để cùng chung sống: gồm các kĩ năng xã hội như giao tiếp, thương lượng, tự
khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông,…
- Học để làm người: gồm các kĩ năng như ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm
xúc, tự nhận thức, tự tin,…
Như vậy, có thể nói, kĩ năng sống là tất cả những kĩ năng cần có giúp cá nhân học
tập, làm việc có hiệu quả và sống tốt hơn.
Bên cạnh những kĩ năng sống, các giá trị sống cũng được hình thành. Giá trị sống là
những điều chúng ta cho là quý giá, là có ý nghĩa đối với cuộc sống mỗi học sinh phù
hợp với chuẩn mực mà chúng ta đang sống. Đó là một hình thái ý thức xã hội, là hệ
thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ giữa học sinh người
với học sinh. Giá trị sống về bản chất là những qui tắc, chuẩn mực trong quan hệ xã
hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Giá trị
sống có vị trí to lớn trong đời sống, định hướng cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
Kĩ năng sống và giá trị sống có mối quan hệ tương tác với nhau. Giá trị sống là nền
tảng để hình thành kĩ năng sống. Ngược lại, kĩ năng sống là công cụ hình thành và
thể hiện giá trị sống.
Bên cạnh việc học cách để làm (doing) nhằm chuẩn bị mưu sinh cho cuộc sống, học
sinh cũng cần biết nên sống (being) ra sao. Nghĩa là làm thế nào để ứng phó trước

tình huống, quản lý cảm xúc, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh,
làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ, làm thế nào để thể hiện bản
thân một cách tích cực, lành mạnh.
Đặc biệt trong một xã hội cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, nếu không được trang bị
sẵn vốn sống, chúng ta khó có thể ứng phó sao cho tích cực nhất khi phải đối mặt
trước những tình huống thử thách, hoặc sẽ dễ dàng bị sa ngã, bị ảnh hưởng tiêu cực
bởi môi trường sống.
Mặt khác, nếu học sinh không có nền tảng giá trị sống rõ ràng và vững chắc, dù cho
được học nhiều kỹ năng đến đâu, chúng ta sẽ không biết cách sử dụng nguồn tri thức
ấy sao cho hợp lý, mang lại lợi ích cho bản thân và cho xã hội. Không có nền tảng giá
trị, chúng ta sẽ không biết cách tôn trọng bản thân và người khác, không biết cách
hợp tác, không biết cách xây dựng và duy trì tình đoàn kết trong mối quan hệ, không
biết cách thích ứng trước những đổi thay, có khi còn tỏ ra tham lam, cao ngạo về kỹ
năng, khả năng vốn có của mình.
Thiếu nền tảng giá trị sống vững chắc, học sinh rất dễ bị ảnh hưởng bởi những giá trị
vật chất, và rồi mau chóng định hình chúng thành mục đích sống, đôi khi đưa đến
kiểu hành vi thiếu trung thực, bất hợp tác, vị kỷ cá nhân. Giá trị sống giúp chúng ta
10

GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
cân bằng lại những mục tiêu vật chất. Những giá trị sống tích cực là chiếc neo giúp
chúng ta ổn định, vững chãi giữa những biến động của cuộc đời, có thể sẽ không dễ
dàng gì nhưng ta vẫn vượt qua được mà không cảm thấy bị thua thiệt, mất mát.
Các kỹ năng sống trọng yếu là các kỹ năng cá nhân hay xã hội giúp học sinh truyền
đạt những điều họ biết (Kiến thức), những gì các em suy nghĩ hay cảm nhận (Thái
độ) và những gì họ tin (Giá trị) trở thành khả năng thực tiễn về những gì cần làm và
làm như thế nào.

Thanh thiếu niên phải đối mặt với rất nhiều thử thách. Bằng việc nâng cao nhận thức
và đưa các thành tố trọng yếu của kỹ năng sống vào cuộc sống của thanh thiếu niên,
điều này sẽ giúp các em nâng cao năng lực để có được những lựa chọn lành mạnh
hơn, có được sự kháng cự tốt hơn với những áp lực tiêu cực và kích thích những thay
đổi tích cực trong cuộc sống của các em. Chính vì vậy, trước khi hình thành những kỹ
năng sống nào đó, người học cần cảm nhận rõ ràng về các giá trị sống và sự lựa chọn
của các cá nhân ấy đối với các giá trị.
Thực chất kỹ năng sống là các giá trị thể hiện bằng hành động và ngược lại với kỹ
năng thể hiện giá trị bằng hành động sẽ cho kết quả tích cực và nó lại củng cố các giá
trị.
Để cảm nhận được sâu sắc các giá trị, ở người học cần phải phát triển những kỹ năng
nhất định. Chính vì thể, song song với giáo dục giá trị, cần trang bị cho người học
cách tiếp nhận và chuyển tải các giá trị ấy – đó chính là kỹ năng sống.
Tuy nhiên, cũng xin khuyến cáo, nếu quá tập trung vào các kỹ năng sống dưới góc độ
“kỹ thuật hành vi” và không chứa đựng giá trị nhân văn tốt đẹp thì giáo dục kỹ năng
sống kiểu này có thể dẫn đến phi đạo đức, không phù hợp với mục đich giáo dục tốt
đẹp của chúng ta.
Vậy, làm thế nào cho các em có thể lĩnh hội, hình thành những kĩ năng sống, giá trị
sống tốt đẹp?
Thứ nhất, cần phải hiểu rằng, việc rèn luyện hay giáo dục kĩ năng sống, giá trị sống
cho học viên không phải ngày một ngày hai là có thể nhìn thấy được thành quả của
nó. Từ việc giúp các em nhận thức đến việc các em tự ý thức hình thành những kĩ
năng sống, giá trị sống thể hiện ra bằng những hành vi cụ thể là cả một hành trình dài
và vô cùng gian nan mà không phải học sinh nào cũng dễ dàng đạt đến đích.
Một trong những nội dung và phương pháp rèn luyện kĩ năng sống, giá trị sống cho
các em là giáo dục học khả năng tự lập: tự nhận thức, đánh giá được chính bản thân
mình; biết vạch ra kế hoạch, thời gian biểu học tập cho bản thân và biết định hướng
được nghề nghiệp cho tương lai. Điều này dễ hiểu bởi một yếu tố đã trở thành đặc thù
của hệ bổ túc văn hóa mà ai cũng biết, và tôi cũng đã trình bày ở trên, đó là xuất phát
điểm, là ý thức đạo đức, kỉ luật, là học lực của học viên,... Nếu mỗi cá nhân thông

qua chương trình học càng hiểu về bản thân mình tốt thì họ có thể dễ dàng thay đổi.
Chỉ khi nào nhận thức rõ, hiểu rõ về mình, cá nhân đó mới nhận ra được điều gì chưa
phù hợp để hướng đến thay đổi, thích ứng. Trong nền kinh tế tri thức như hiện nay
đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự phát triển để có thể theo kịp với những thay đổi không
ngừng của xã hội. Những câu hỏi dạng như: Mình là ai ? Mình đang ở đâu ? Mình
muốn gì ? Mình sẽ đi đâu ?... nếu được hiểu và nhận thức đúng đắn sẽ giúp các em
hiểu được bản chất học sinh người mình và sẽ vững vàng hơn trước những thay đổi
GV: Cao Minh Anh

11


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
để lựa chọn cho mình những mục tiêu của cuộc đời phù hợp với năng lực, sở thích
của bản thân.
* Hoạt động 2: Tìm hiểu công nghệ dạy học cấp trung học cơ sở
a/ Bản chất nghề dạy học:
Dạy học là hoạt động đặc trưng nhất, chủ yếu nhất của nhà trường, diễn ra theo một
quá trình nhất định từ t0 đến tn gọi là quá trình dạy học (QTDH). Đó là một quá trình xã
hội bao gồm và gắn liền với hoạt động dạy và hoạt động học trong đó học sinh tự giác, tích
cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều kiển và điều chỉnh hoạt động nhận thức của mình dưới sự
điều
khiển chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn của giáo viên nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học.
Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý- lời của cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng nghĩa là dưới ánh sáng mặt trời, không có nghề nào cao quý hơn
nghề nào cao quý hơn nghề dạy học. Nếu một số nghề, khi một sản phẩm làm ra chưa
đẹp chưa chất lượng, ta có thể làm lại. Nhưng với nghề giáo, sản phẩm đào tạo ra là
con người, mà nói đến con người thì khó lắm. Nếu không vững chí, vững tâm thì khó
có thể dạy được một sơ suất nhỏ nông nổi nhỏ có thể dẫn đến hậu quả khôn lường
cho cả một thế hệ.

Nghề dạy học quả là vinh dự mà cũng thật là khó khăn. Người thầy giáo dạy học
trò của mình đâu phải chỉ có dạy kiến thức,quan trọng hơn là dạy làm người. Phải
ứng xử với học trò như với chính mình, đặt mình vào vị trí học trò mà dạy dỗ. Cái
khó của dạy học là tác động vào con người vào tâm trí. Thầy phải yêu trò như con
mình, người thầylàm sao cố gắng tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em. Tìm hiểu
các em đang nghĩ gì, đang vui gì, và đang mơ ước những gì...Nghề dạy học nhiều khi
dạy những điều chưa có trong sách vở hay giáo án.
Mọi người thường hay ví người thầy giáo như người lái đò chở khách sang sông.
Khách lên bờ có mấy ai ngoảnh lại, chỉ có người lái đò vẫn dõi trông theo. Có sự
tương đồng rất rõ trong đặc điểm nghề nghiệp của người thầy và người chèo đò: tiếp
xúc với số đông liên tục hết chuyến đò này đến chuyến đò kia cũng như với hết thế hệ
học trò này đến thế hệ học trò kia. Thầy có thể không nhớ hết trò nhưng trò lại nhớ
rất rõ thầy cô giáo đã dạy mình. Thêm nữa, cả hai nghề này lại có một tương đồng là
tận tâm, miệt mài và lặng thầm dâng hiến.
Nghề dạy học đâu chỉ là kiến thức, chuyên môn là đủ. Nghề dạy học cần đến chuyên
môn là đủ, nghề dạy học cần đến kĩ thuật, nghệ thuật sư phạm tuyệt khéo và hơn hết
là phải yêu nghề, tâm huyết với nghề, trăn trở với nghề. Nghề giáo không có được cái
giàu về vật chất nhưng bù đắp những cái quý giá thiêng liêng mà các nghề khác
không dễ gì có.
- Hoạt động dạy học ở trường THCS góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục trung học,
cụ thể: + Hình thành được cơ sở học vấn phổ thông THCS => hình thành cho thanh
thiếu niên có một trình độ văn hóa phổ thông của dân tộc trong vài tập kỷ tới.
+ Chuẩn bị cho học sinh có thể Học lên THPT Học nghề kỹ thuật Bước vào cuộc
sống lao động .
+ Đây là cấp học kế thừa thành tựu của giáo dục tiểu học, chuẩn bị những điều kiện
cho học sinh bước vào cuộc sống, học lên…
- Hoạt động dạy học ở trường THCS tạo điều kiện cho học sinh nghiên cứu cơ sở của
những khoa học với sự phong phú, đa dạng của những bộ môn, khối lượng tri thức
12


GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
lớn phức tạp, sâu sắc, hệ thống hơn. Các nội dung chương trình trong trường THCS
được thiết kế => phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Các nội dung này vừa
sức với học sinh tạo cho họ sự tích cực, hứng thú, sáng tạo trong hoạt động nhận
thức.
- Hoạt động dạy học theo từng môn học được chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp của giáo
viên bộ môn tương ứng. Điều này khác với hoạt động dạy học ở tiểu học, mỗi môn
học được hướng dẫn bởi một giáo viên có phong cách, phương pháp, trình độ, … dạy
học riêng nên tạo ra sự đa dạng trong dạy học. Vấn đề này cũng ảnh hưởng đến nhân
cách học sinh. Giáo viên cần cải tiến phương pháp cho phù hợp với đặc điểm môn
mình đảm nhiệm cũng như đặc điểm từng học sinh. - Lứa tuổi học sinh trong trường
THCS là lứa tuổi thiếu niên. Trong độ tuổi này có nhiều diễn biến tâm lý phức tạp
trong học sinh, đó là giai đoạn chuyển từ tình trạng trẻ con sang người lớn, là thời kỳ
tập làm người lớn chính vì vậy giáo viên cần có sự quan tâm, thông cảm, sẽ chia đối
với học sinh.
b/ Thực hành giảng dạy theo công nghệ dạy học ( đổi mới phương pháp)
Thực hành thiết kế giáo án Elearning hoặc PowerPoint và giảng dạy tại đơn vị.
c/ Đề xuất biện pháp đổi mới đánh giá kết quả học tập của HS:
Để đánh giá kết quả học tâp của học sinh người ta có thể dùng các phương
pháp sau đây: phương pháp quan sát, phương pháp vấn đáp, phương pháp viết tự luận
và phương pháp trắc nghiệm khách quan. Điều đáng lưu ý là tất cả các phương pháp
trên đều là phương pháp trắc nghiệm chứ không phải chỉ có trắc nghiệm khách quan
mới là phương pháp trắc nghiệm. Hiện nay, hai phương pháp đầu rất ít được sử dụng,
phương pháp trắc nghiệm tự luận được dùng rất phổ biến, phương pháp trắc nghiệm
khách quan đang được quan tâm và có chiều hướng sử dụng nhiều hơn.
Việc kiểm tra đánh giá HS cung cấp cho GV những thông tin “liên hệ ngược
ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy. Kiểm tra, đánh giá kết hợp với theo

dõi thường xuyên, tạo điều kiện cho Gv nắm được một cách cụ thể và khá chính xác
năng lực và trình độ của mỗi học sinh trong lớp mình phụ trách để có biện pháp giúp
đở riêng thích hợp, qua đó nâng cao chất lượng học tập của học tập của lớp.
Kiểm tra, đánh giá được tiến hành một cách công phu sẽ cung cấp cho GV
không chỉ những thông tin về trình độ mà còn tạo điều kiện cho GV nắm được những
học sinh có tiến bộ rõ rệt hoặc sút kém đột ngột để động viên hoặc giúp đở kịp thời.
Kiểm tra đánh giá giữ một vai trò rất quan trọng và quyết định đối với chất lượng đào
tạo.
+ Mục đích của kiểm tra, đánh giá:
HS là đối tượng, là sản phẩm của giáo dục, đồng thời là chủ thể của quá trình giáo
dục, do đó việc đánh giá HS giữ vị trí đặc biệt trong việc điều tra đánh giá giáo
dục.Thông qua việc kiểm tra, đánh giá kết quảhọc tập của HS, GV nhận biết được
khả năng giáo dục của mình, biết được phương pháp, cách thức giáo dục nào là tối ưu
đối với HS, đồng thời thông qua đó, người HS cũng tự biết được khả năng của mình
tới đâu, để điều chỉnh, hoàn thiện bản thân mình, từ đó để trở thành một học sinh toàn
diện.
+ Yêu cầu của việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
Việc kiểm tra, đánh giá kết quảhọc tập của học sinh muốn đem lại hiệu quả cao thì
phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây:
GV: Cao Minh Anh

13


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
- Khách quan: Việc đánh giá kết quả học tập của HS phải khách quan và chính xác tới
mức tối đa có thể, tạo điều kiện để mỗi HS bộ lộ thực chất khả năng và trình độ của
mình, ngăn chặn mọi biểu hiện thiếu trung thực khi làm bài như nhìn bài, nhắc bạn,
quay cóp,.. đồng thời phải dựa trên những tiêu chuẩn đã được thiết lập, kết hợp với
yêu cầu cao với sự tôn trọng nhân cách của học sinh.

- Toàn diện: Việc kiểm tra, đánh giá không chỉ quan trọng về mặt số lượng mà còn cả
về mặt chất lượng, và không chỉ về mặt kiến thức mà cả kỹ năng, thái độ, tư duy.
- Hệ thống: Việc kiểm tra, đánh giá phải được tiến hành theo kế hoạch và có hệ
thống.
- Công khai: Việc tổ chức kiểm tra, đánh giá phải được tiến hành công khai, kết quả
được công bố kịp thời để mỗi học sinh có thể tự đánh gia, xấp hạng trong học tập, để
tập thể học sinh hiểu biết, học tập và giúp đở lẫn nhau.
+ Những quy trình đánh giá:
+ Theo một số nhà nghiên cứu giáo dục(Guber và Stufflebeam) quá trình đánh giá tri
thức khoa học của HS được tiến hành theo các bước sau:
- Xác định mục tiêu đánh giá để xây dựng những câu hỏi cần được trả lời và các tiêu
chẩn cần phải đạt được khi đánh giá tri thức học sinh.
- Thu thập số liệu.
- Tổ chức sắp xếp phân loại số liệu.
- Phân tích số liệu
- Báo cáo kết quả để rút ra các kết luận cần thiết
+ Đánh giá trong giáo dục là một vấn đề hết sức phức tạp, khó khăn, nó mang tính
tổng hợp nhiều yếu tố, vì vậy để đánh giá chính xác một học sinh, một lớp hay một
khoá học, đầu tiên người giáo viên phải nghiên cứu chọn lựa một phương pháp cũng
như quy trình thu thập các thông tin hợp lý, quy trình này có thể bao gồm các bước:
- Xác định cho được các lượng thông tin cần thiết qua các đợt thực nghiệm sư phạm,
nghiên cứu chọn các mẫu thực nghiệm sư phạm thích hợp.
- Áp dụng các phương pháp và quy trình thích hợp cho việc thu thập thông tin qua
thực nghiệm sự phạm, phương pháp xử lí, phân tích số liệu và giải thích các số liệu
đó.
+ Nhận xét kết quả thu thập:Thông qua kết quả của điểm số, các số liệu thu thập được
qua thực nghiệm sư phạm để từ đó đánh giá xem vấn đề đưa ra (được thực nghiệm) là
quá dễ hay quá khó? Có phù hợp với học sinh hay không? Từ đó cần phải
điều chỉnh, bổ sung vần đề nào, phần nào, bài học nào? Dựa trên số liệu thu thập đó
người điều tra đi đến kết luận là cần phải thay đổi, hoàn thiện, phương pháp dạy học

của mình như thế nào để chất lượng học tập của học sinh được nâng cao.Như vậy, với
tư cách kiểm tra đánh giá theo phương pháp trắc nghiệm khách quan, thông qua các
đợt thực nghiệm sư phạm, cụ thể là các kết quả thu thập được, chúng ta có cơ sở để
đánh giá tương đối chính xác và đi đến những kết luận cụ thể.
+ Quyết định để cải tiến, hoàn thiện nội dung đào tạo:
- Quyết định có liên quan đến cá nhân: xác định nhu cầu của mỗi người học, đánh giá
học sinh với mục đích tuyển chọn hay phân loại, làm cho HS hiểu được khả năng của
họ so với yêu cầu chung
- Quyết định về mặt hành chính: đánh giá hệ thống tổ chức của nhà trường, của thầy
giáo và quy trình thực hiện.
14

GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
+ Những nguyên tắc chung để đánh giá:
+ Nguyên tắc có tính tổng quát:
- Đánh giá một quá trình tiến hành có hệ thống để xác định phạm vi đạt được của các
mục tiêu đề ra. Vì vậy điều kiện tiên quyết là phải xác định rõ mục tiêu đánh giá là
gì?
- Tiến hành đánh giá phải được chọn theo mục tiêu đánh giá, phải xác định mục tiêu
muốn kiểm tra, đánh giá cho rõ ràng, các mục tiêu phải được phát biểu dưới dạng
những điều có thể quan sát được.
- Để đánh giá cần phải có nghiều hình thức tiến hành đồng thời để có giá trị tổng hợp,
tổng quát nhất.
- Giáo viên cần phải biết rõ những hạn chế của từng công cụ đánh giá để sử dụng cho
đúng và có hiệu quả.
- Khi đánh giá giáo viên phải xem nó chỉ là phương tiện để đi đến mục đích, chứ bản
thân nó không phải là mục đích. Mục đích của việc đánh giá là để có những quyết

định đúng đắn, tối ưu nhất cho quá trình dạy học.
+ Những nguyên tắc mang tính cụ thể
- Đánh giá bao giờ cũng gắn với việc học tập của học sinh nghĩa là trước tiên phải
chú ý đến việc học tập của học sinh, sau đó mới kích thích sự nỗ lực học tập của học
sinh, cuối cùng mới đánh giá bằng điểm số.
- Đánh giá bao giờ cũng kèm theo nhận xét để học sinh biết những điều sai sót của
mình về kiến thức, kỹ năng, phương pháp để giúp học sinh nghiên cứu, trau dồi thêm
kiến thức.
- Qua những lỗi mắc phải của học sinh, thầy giáo cần rút kinh nghiệm để phát hiện ra
những sai sót trong việc dạy học và đánh giá của mình để thay đổi cách dạy sao cho
phù hợp và hoàn thiện nhất đối với học sinh.
- Trong đánh giá, nên sử dụng nhiều phương pháp và hình thức đánh giá khác nhau
nhằm tăng độ tin cậy và độ chính xác.
- Khuyến khích , lôi cuốn học sinh tham gia tích cực và quá trình đánh giá.
- GV phải thông báo một cách rõ ràng các loại hình câu hỏi để kiểm tra, đánh giá
nhằm giúp học sinh định hướng được khi trả lời.
- Phải dựa trên cơ sở của phương pháp dạy học mà xem xét kết quả của một câu trả
lời, một bài kiểm tra kết hợp với chức năng chẩn đoán hoặc quyết định vềmặt sư
phạm.
- Giáo viên phải nghiêm túc, tích cực và có trách nhiệm khi xây dựng hệ thống câu
hỏi “trắc nghiệm khách quan” làm sao để có chất lượng tốt nhất.
- Trong các câu hỏi xác định về mặt định lượng, giáo viên nên thông qua các câu hỏi
yêu cầu học sinh giải thích bằng lời để xác định rõ nhận thức của học sinh.
- Khi đánh giá theo phương pháp dùng bộ câu hỏi “trắc nghiệm khách quan” nên chú
ý đến độ giá trị, và sau đó là độ tin cậy của câu hỏi.
- Phương pháp và cách thức tiến hành kiểm tra, đánh giá phải diễn ra trong hoàn cảnh
thoải mái, học sinh cảm thấy tự nguyện, không lo lắng và sợt sệt.
- Không nên đặt ra những câu hỏi mà bản thân giáo viên cũng không thể trả lời một
cách chắc chắn ngay được
- Nêu luôn nghi ngờ về tính khách quan và mức độ chính xác của bộ câu hỏi để từ đó

chúng ta có thể đưa ra kết quả tối ưu nhất.
GV: Cao Minh Anh

15


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
d/ Các chính sách, chế độ của nhà nước đối với giáo viên:
1. Định mức biên chế:
1.1. Số: 35/2006/TTLT-BGDĐT-BNV, ngày 23 tháng 8 năm 2006, Hướng dẫn
định mức biên chế viên chức ở các cơ sở giáo dục phổ thông công lập;
1.2. Số: 59/2008/TT-BGDĐT , ngày 31 tháng 10 năm 2008 Hướng dẫn định mức
biên chế sự nghiệp giáo dục ở các trường chuyên biệt công lập;
2. Chế độ làm việc:
Số: 28 /2009/TT-BGDĐT ngày 21 tháng 10 năm 2009 Quy định về chế độ làm
việc đối với giáo viên phổ thông;
3. Chế độ, chính sách:
3.1. Số: 50/2008/TTLT- BGDĐT- BNV-BTC ngày 09 tháng 9 năm 2008 Hướng dẫn
thực hiện chế độ trả lương dạy thêm giờđối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục
công lập;
3.2. Số: 54/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm 2011 Về chế độ phụ cấp thâm niên đối
với nhà giáo;
3.3. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06
tháng 10 năm 2005 về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang
trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập;
3.4. Số: 61/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 6 năm 2006 Về chính sách đối với nhà giáo,
cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn,
Điều 7. Phụ cấp ưu đãi
Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đang công tác tại các cơ sở giáo dục, đào tạo
thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp ưu

đãi mức 70% mức lương hiện hưởng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm
niên vượt khung (nếu có) và không hưởng phụ cấp ưu đãi đã quy định tại Quyết
định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10 năm 2005của Thủ tướng Chính phủ
về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở
giáo dục công lập.
Điều 8. Phụ cấp thu hút
1. Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục (thuộc địa phương hoặc từ địa phương khác
đến) được điều động đến công tác hoặc hiện đang công tác tại vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp thu hút bằng 70% mức lương hiện
hưởng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).
3.5. Số: 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 Về chính sách đối với cán bộ,
công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
Điều 4. Phụ cấp thu hút
1. Đối tượng quy định tại Điều 2 Nghị định này được hưởng phụ cấp thu hút bằng
70% tiền lương tháng hiện hưởng, bao gồm: mức lương chức vụ, ngạch, bậc hoặc
cấp hàm và phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung, nếu có.
2. Thời gian hưởng phụ cấp thu hút là thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và không quá 5 năm. Thời điểm tính hưởng phụ
cấp thu hút được quy định như sau:
16

GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
a) Nếu đang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được
tính hưởng phụ cấp thu hút kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành;
b) Nếu đến công tác sau ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì được tính hưởng
phụ cấp thu hút kể từ ngày có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Điều 5. Phụ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn
Đối tượng quy định tại Điều 2 Nghị định này được hưởng phụ cấp hàng tháng tính
theo thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
nếu có thời gian đứt quãng thì được cộng dồn như sau:
1. Mức 0,5 so với mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với người có thời gian thực
tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 5 năm đến
dưới 10 năm;
2. Mức 0,7 so với mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với người có thời gian thực
tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 10 năm đến
dưới 15 năm;
3. Mức 1,0 so với mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với người có thời gian thực
tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 15 năm trở
lên.
Điều 6. Trợ cấp lần đầu và trợ cấp chuyển vùng
Đối tượng quy định tại Điều 2 Nghị định này đến công tác ở vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ 3 năm trở lên đối với nữ và từ 5 năm trở lên đối với
nam được hưởng trợ cấp như sau:
1. Trợ cấp lần đầu bằng 10 tháng lương tối thiểu chung;
2. Trường hợp có gia đình chuyển đi theo thì ngoài trợ cấp lần đầu, còn được trợ cấp
tiền tàu xe, cước hành lý cho các thành viên trong gia đình cùng đi và hưởng trợ cấp
chuyển vùng bằng 12 tháng lương tối thiểu chung cho hộ gia đình;
3. Chỉ thực hiện một lần mức trợ cấp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trong
cả thời gian công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
3.6. Số11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT ngày 5 tháng 1 năm
2005 hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp khu vực;
3.7. LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI SỐ 71/2006/QH11 NGÀY 29 THÁNG 6 NĂM 2006.

3.8. Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12 của Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ tư,
ngày 14 tháng 11 năm 2010.

Nhìn chung trong một vài năm trở lại đây, đời sống của cán bộ giáo viên không còn
khó khăn như trước, giáo viên có thể sống bằng đồng lương của mình nên phần nào
đã yên tâm công tác hơn. Chế độ thu hút đã thu hút được nhiều giáo viên lên vùng
cao công tác góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, do có chế độ thu hút, chế độ thu
hút và các chế độ phụ cấp khác mà giáo viên yên tâm hơn trong công tác, nhiều giáo
viên đã tự trang bị cho mình những thiết bị phục vụ cho công tác soạn bài, lên lớp
như máy vi tính và các thiết bị khác.Điều này cho thấy do điều kiện kinh tế được
nâng lên góp phần khuyến khích đội ngũ giáo viên gắn bó với nghề, phấn đấu, rèn
luyện nâng cao năng lực nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ.
Các chế độ chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cần
được luật hoá để bảo đảm giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành cao, bảo đảm điều chỉnh
công bằng đối với tất cả đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở trường công
lập và trường ngoài công lập; cụ thể:
GV: Cao Minh Anh
17


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
+ Về quyền, trách nhiệm (đạo đức, pháp lý), nghĩa vụ của nhà giáo và chế độ
làm việc của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở các cấp học.
+ Về các chức danh nhà giáo, hệ thống ngạch viên chức làm nhiệm vụ giảng
dạy (mỗi cấp học đều có đủ các ngạch viên - chính - cao cấp), định mức biên chế và
cơ cấu nhà giáo ở các loại hình cơ sở giáo dục thuộc các cấp học.
+ Về tiêu chuẩn các chức danh đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
của từng loại hình cơ sở giáo dục.
+ Về chuẩn nghề nghiệp nhà giáo từng cấp học và việc đánh giá, xếp loại, kiểm
định chất lượng, sàng lọc và tinh giản biên chế đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục.
+ Về các chính sách, chế độ trong tuyển dụng (xoá bỏ phân biệt “giáo viên
trong biên chế” và “giáo viên hợp đồng”), điều động, luân chuyển, sử dụng và quản

lý đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, miễn
nhiệm đối với các chức danh cán bộ quản lý giáo dục; các chính sách, chế độ bảo
hiểm bắt buộc (bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội), tiền thưởng, phúc lợi (phúc lợi tập
thể, phúc lợi xã hội, trợ cấp, nhà ở công vụ...) và các khoản thu nhập chính đáng khác
(ngoài tiền lương) của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
+ Về môi trường công tác và các điều kiện bảo đảm chất lượng, hiệu quả làm
việc của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục (nhất là đối với các chức danh
giáo sư, phó giáo sư, chuyên gia, giáo viên/giảng viên cao cấp/có học vị tiến sĩ...).
+ Về tiền lương và thang, bảng lương nhà giáo (bảo đảm cho tiền lương nhà
giáo, thực sự trở thành một động lực trong công việc của nhà giáo); chế độ phụ cấp
(phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thâm niên...) và bảo lưu chế độ cho nhà giáo khi được điều
động công tác về các cơ quan quản lý giáo dục.
+ Về các chính sách, chế độ khác (như chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục công tác ở các trường chuyên biệt, ở các vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; chính sách đối với nhà giáo giảng dạy các chuyên
ngành đào tạo, bộ môn đặc thù; chính sách kéo dài thời gian làm việc trước khi nghỉ
hưu đối với các nhà giáo cốt cán, có học hàm/học vị cao; chính sách thu hút nhà giáo
là người Việt Nam ở nước ngoài về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học chuyển giao công nghệ...).
Hoạt động 3: Tìm hiểu điẽu kiện dạy và học ở trường trung học cơ sở
a. Tự khảo sát đánh giá thực trạng cơ sở- vật chất thiết bị của trường mình.
Cơ sở vật chất, thiết bị đồ dùng dạy học là điều kiện cơ bản quyết định sự hình
thành và phát triển của nhà trường. Được sự quan tâm, tạo điều kiện của Chính phủ,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ Ngành Trung ương, đặc biệt là quan tâm chỉ đạo của
các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, nhân dân trong tỉnh, thời gian qua tỉnh Thanh
Hóa đã làm tốt việc huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm
thiết bị đồ dùng dạy học trong các nhà trường, cơ sở giáo dục từng bước đáp ứng yêu
cầu đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường.
Tỉ lệ phòng học trên lớp của trường THCS Hạ Sơn là 8 phòng/8 lớp= 1 phòng/lớp.
( đủ điều kiện dạy học)
Tỉ lệ phòng học kiên cố /lớp là 7/8 = 0,875 phòng / lớp. ( chưa đủ theo tỉ lệ kiên cố

hóa trường lớp)
Chi tiết khối các công trình trường trung học cơ sở Hạ Sơn.
18

GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
1. Phòng học:
- Số phòng học: Số lượng phòng học tương ứng với số lớp học 2 buổi/ngày
(lớp /phòng), mỗi lớp 45 học sinh: đạt yêu cầu
- Quy hoạch xây dựng công trình nhà lớp học phải phù hợp, cân đối với các
khối công trình khác trong trường, đảm bảo mỹ quan kiến trúc và môi trường giáo
dục: đạt yêu cầu
- Phòng học, bảng, bàn ghế học sinh theo thiết kế mẫu ban hành kèm theo
Quyết định 355/QĐ-BXD ngày 28/3/2003 của Bộ Xây dựng: đạt yêu cầu
- Diện tích phòng học được tính theo tiêu chuẩn 1,5 m 2/HS, tương đương 67
m2/phòng: chưa đạt yêu cầu
- Phòng nghỉ của giáo viên bố trí trong khối công trình nhà lớp học, số lượng 1
phòng/tầng: chưa đạt yêu cầu
2. Phòng học bộ môn:
a. Diện tích sử dụng các phòng bộ môn:
- Đối với THCS: Diện tích làm việc tối thiểu là 1,85 m 2/HS; riêng phòng bộ
môn công nghệ diện tích làm việc tối thiểu là 2,25 m2/HS: chưa đạt yêu cầu
- Phòng học bộ môn các môn: Lý, Hóa, Sinh, Công nghệ phải có phòng chuẩn
bị diện tích từ 12 m2- 27 m2, bố trí liền kề liên thông với phòng học bộ môn: đạt yêu
cầu
- Kích thước phòng học bộ môn: Tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng của phòng
học bộ môn không lớn hơn 2; kích thước chiều ngang phòng bộ môn từ 7,2 m trở lên;
chiều cao phòng học bộ môn từ 3,3 m trở lên: chưa đạt yêu cầu

b. Số phòng bộ môn:
Số phòng học bộ môn của từng môn học được tính trên số tiết có thực hành thí
nghiệm của môn học đó. Số phòng học bộ môn cụ thể cho các trường theo hạng
trường (Mức tối thiểu) như sau:
+ Đối với trường THCS có số lớp >= 28 lớp, 9 phòng học bộ môn;
+ Đối với trường THCS có số lớp =< 27 lớp, 6 phòng học bộ môn: chưa đủ,
chưa đạt yêu cầu
3. Khối phòng phục vụ học tập:
2.3.1. Nhà đa năng: Nhà đa năng được sử dụng cho các hoạt động thể thao
trong nhà (bóng bàn, cầu lông, thể dục nhịp điệu, cờ vua,...,
Quy mô nhà đa năng được tính từ 30-50% tổng số học sinh toàn trường. Chỉ
tiêu diện tích sử dụng được tính 0,6 m 2/chỗ. Trong nhà đa năng có sàn tập; sân khấu
>=24 m2; kho dụng cụ >=9 m 2; phòng thay đồ: Nam 16 m 2, nữ 16 m2; nhà vệ sinh,
nam nữ riêng biệt;
* Nhà đa năng THCS: chưa có, chưa đạt yêu cầu
* Thư viện:
- Quy mô thư viện được tính từ 30-50% tổng số học sinh toàn trường. Tiêu
chuẩn diện tích sử dụng toán >= 0,6 m2/HS, nhưng diện tích tối thiểu của thư viện
không nhỏ hơn 60 m2; Tiêu chuẩn diện tích chỗ ngồi >=2,4 m2;
- Thư viện gồm: Kho sách, phòng thủ thư (quản lý); phòng đọc cho giáo viên
và phòng đọc cho học sinh. Thư viện chuẩn phải đảm bảo yêu cầu về diện tích như
sau:
GV: Cao Minh Anh

19


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
+ Phòng đọc cho giáo viên tối thiểu 20 chỗ ngồi; phòng đọc học sinh tối thiểu
50 chỗ ngồi.

+ Phòng thủ thư (Phòng quản lý) >= 6 m2;
+ Kho sách kín 2,5 m2/1000 đơn vị tài liệu; kho sách mở 4,5 m 2 /1000 đơn vị
tài liệu;
=> chưa đủ tiêu chuẩn, chưa đạt yêu cầu
* Phòng truyền thống: Chuẩn diện tích >= 48 m2 . Những trường có bề dầy lịch
sử, truyền thống nên thiết kế xây dựng nhà truyền thống gồm phòng trưng bày và
phòng mô hình=> chưa có, chưa đạt yêu cầu
* Phòng hoạt động đoàn, đội, tiêu chuẩn diện tích 0,03 m 2/HS, nhưng tối thiểu
phải đạt: Trường THCS phòng hoạt động đội >= 54 m2: đạt yêu cầu
* Phòng đồ dùng dạy học dùng chung >=54 m2: đạt yêu cầu
* Phòng hỗ trợ giáo dục học sinh khuyết tật hòa nhập >=24 m 2: chưa có, chưa
đạt yêu cầu
4. Khối phòng hành chính:
Thực hiện Quyết định 260/QĐ-TTg ngày 14/11/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc bổ sung, sửa đổi Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 5/7/1999 của Thủ
tướng Chính phủ quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc tại cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN 8794:2011.
- Phòng Hiệu trưởng: 18 m2, Không kể diện tích tiếp khách: đạt yêu cầu
- Phòng P.Hiệu trưởng: 15 m2, Không kể diện tích tiếp khách=> chưa đủ tiêu
chuẩn, chưa đạt yêu cầu
- Phòng khách bố trí liền kề phòng Hiệu trưởng, diện tích >= 18 m 2: chưa có,
chưa đạt yêu cầu
- Phòng Kế toán: 18 m2: đạt yêu cầu
- Phòng hành chính: 18 m2: chưa có, chưa đạt yêu cầu
- Phòng giám thị: 18 m2: chưa có, chưa đạt yêu cầu
- Phòng Khảo thi: 18 m2: chưa có, chưa đạt yêu cầu
- Phòng Công đoàn: 18 m2: đạt yêu cầu
- Phòng họp hội đồng: Tiêu chuẩn diện tích 1,2 m 2/GV, nhưng tối thiểu bằng
diện tích phòng học >= 67 m2: đạt yêu cầu
- Phòng làm việc của giáo viên: 18 m2. Số phòng làm việc của giáo viên phụ

thuộc số giáo viên của trường. Phòng làm việc của giáo viên nên bố trí theo tổ chuyển
môn (Tổ chuyên môn/phòng), để tiện sinh hoạt, trao đổi chuyên môn: chưa có, chưa
đạt yêu cầu
- Kho dụng cụ và học phẩm chung, diện tích >=48 m 2: chưa có, chưa đạt yêu
cầu
- Phòng y tế: Tiêu chuẩn diện tích >= 24 m2: chưa có, chưa đạt yêu cầu;
- Phòng trực, bảo vệ bố trí gần cổng trường, thuận lợi cho việc quan sát bao
quát khu vực trường. Tiêu chuẩn diện tích từ 15 m 2-24 m2, trong đó Phòng thường
trực >= 6 m2 và phòng trực đêm >=9 m2: chưa có, chưa đạt yêu cầu;
5. Sân chơi, bãi tập, vườn thực nghiệm:
- Diện tích sân chơi bãi tập 25% tổng diện tích mặt bằng của trường. Sân chơi
phải bằng phẳng, có cây xanh bóng mát đảm bảo vệ sinh: đạt yêu cầu.
20

GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
- Sân tập thể dục thể thao phải ngăn cách với khối phòng học bằng dải cây
xanh, có tiêu chuẩn diện tích 0,35 m 2- 0,4 m2/HS nhưng không nhỏ hơn 350 m2: đạt
yêu cầu
- Sân tập luyện các môn điền kinh phải bố trí đường chạy dài 120 m - 150 m và
có sân nhảy cao, sân nhảy xa, sân bóng đá, sân cầu long. Kích thước, diện tích các
sân thể thao thiết kế theo quy định hiện hành: : chưa có, chưa đạt yêu cầu
- Sân tập trung học sinh: Tiêu chuẩn diện tích tối thiểu 1,5 m2/HS: đạt yêu cầu
- Vườn thực nghiệm: Các trường cần có quy hoạch và bố trí diện tích đất hợp
lý để xây dựng các vườn thực nghiệm: Địa lý, Lịch sử, Sinh vật: : chưa có, chưa đạt
yêu cầu
6. Khu để xe, khu vệ sinh:
a. Khu để xe:

Quy hoạch xây dựng khu để xe riêng cho học sinh; khu để xe cho cán bộ, giáo
viên, nhân viên và khu để xe của khách. Đảm bảo quy hoạch tổng thể khối công trình
trong nhà trường và các yêu cầu mỹ quan kiế trúc, môi trường sư phạm.
Số lượng xe được tính với tỷ lệ 50-70% tổng số học sinh và 60-90% tổng số
giáo viên toàn trường;
Tiêu chuẩn diện tích: 0,9 m2/xe đạp; 2,5 m 2/xe máy; 25 m 2/ôtô
=> đạt yêu cầu
b. Khu vệ sinh;
- Khuyến khích bố trí các nhà vệ sinh trong khối các công trình trường học,
những nơi thiếu nguồn nước sạch, hoặc không có điều kiện có thể bố trí nhà vệ sinh
ngoài trời theo từng khu làm việc, học tập của giáo viên, học sinh, nhưng phải có đủ
nước, ánh sáng, hợp vệ sinh, không gây ô nhiễm môi trường;
Các yêu cầu về diện tích, các tiêu chuẩn kỹ thuật nhà và thiết bị vệ sinh thực
hiện theo quy định tại TCVN 8794: 2011.
- Có khu chứa, xử lý rác thải;
- Hệ thống cấp, thoát nước.
=> đạt yêu cầu
7. Nhà ở giáo viên và học sinh.
a. Nhà ở giáo viên:
Các trường mà giáo viên có nhu cầu ở lại trường, quy hoạch xây dựng nhà ở
công vụ cho giáo viên, cụ thể:
Nhà ở giáo viên quy hoạch xây dựng thành khu riêng biệt liền kề ngoài khu
vực hoạt động giáo dục của nhà trường.
=> đạt yêu cầu
b. Nhà ở học sinh:
=> Không có hs nội trú.
8. Cổng trường, tường rào, biển trường:
a. Biển trường:
Biển trường được thiết kế theo mẫu thống nhất quy định tại Điều lệ nhà trường,
tránh tình trạng tùy tiện sai quy định.=> đạt yêu cầu

b. Cổng trường, tường rào.
Xây dựng theo mẫu thiết kế cổng, tường rào ban hành kèm theo Quyết định số
355/QĐ-BXD ngày 28/3/2003 của Bộ Xây dựng.
GV: Cao Minh Anh

21


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
Cổng trường nên thiết kế đẹp, hoành tráng, biểu trưng, tích hợp truyền thống
lịch sử văn hóa và xu thế phát triển của trường, địa phương.
 chưa đạt yêu cầu.
b/ Đề xuất biện pháp khả thi xây dựng cơ sở vật chất- thiết bị phục vụ cho hoạt
động dạy và học.
Trên cơ sở thực trạng về cơ sở vật chất và công tác xã hội hoá giáo dục trong việc
xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, từ đó tôi xin mạnh dạn đề xuất 5 biện pháp
nhằm xây dựng và phát triển cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng dạy và học cụ thể
như sau:
Biện pháp thứ nhất: Xây dựng và củng cố tổ chức trong nhà trường.
Trước hết trong sinh hoạt chi bộ, các đồng chí đảng viên cần đề xuất ý kiến, cần chỉ
đạo rồi đưa ra bàn bạc thống nhất trong chi bộ nhằm củng cố tổ chức hoạt động của
nhà trường.
Hàng tháng chi bộ chỉ đạo Ban giám hiệu và các đoàn thể xây dựng kế hoạch hoạt
động chặt chẽ, sát sao, chú trọng hàng đầu đến chất lượng giáo dục và phải quan tâm
thực sự đến vấn đề xây dựng cơ sở vật chất trường học.
Mở rộng quan hệ giữa Đảng, chính quyền, các đoàn thể ở cơ sở. Nhân các buổi họp,
khai giảng, sơ kết, tổng kết năm học, mời họ đến tham dự để họ hiểu việc làm của
người giáo viên, hoạt động của nhà trường nhất là công tác xây dựng cơ sở vật chất
và các công việc có liên quan khác.
Hàng tháng dưới sự chỉ đạo của chi bộ nhà trường, chỉ đạo của ban giám hiệu đề ra

kế hoạch hoạt động của nhà trường, của các đoàn thể một cách chặt chẽ, sát sao từng
ngày, từng tháng, từng kỳ, có kiểm tra đôn đốc thường xuyên.
Sau khi củng cố được khá tốt về công tác tổ chức nhà trường dưới sự lãnh đạo của chi
bộ Đảng, vị trí nhà trường càng được củng cố như được tiếp thêm sức mạnh, tăng
thêm sự tin tưởng của các cấp lãnh đạo. Chất lượng dạy học ngày càng đi vào thế ổn
định và nâng cao. Công tác xây dựng cơ sở vật chất sẽ được tạo đà phát triển.
Biện pháp thứ hai: Lập kế hoạch huy động cộng đồng tham gia xây dựng
trường lớp.
Trong luật giáo dục (ở điểm D, điều 84, trang 55) có nêu trách nhiệm của
xã hội phải đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, cho sự nghiệp của giáo dục tuỳ
theo khả năng của mình.
Sau khi kết thúc năm học, Ban giám hiệu cùng lãnh đạo địa phương, các
trưởng ban, hội cha mẹ học sinh và các đồng chí giáo viên phải đánh giá được
hiện trạng cơ sở vật chất của nhà trường, tìm ra nguyên nhân và cách tháo gỡ,
những thuận lợi, khó khăn của địa phương, của nhà trường, sau đó bàn kế hoạch
tu sửa cho năm học sau. Đồng thời ban giám hiệu họp với ban đại diện cha mẹ
học sinh để xác định tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở vật chất nhà
trường thông qua kế hoạch năm học, lập tờ trình lên uỷ ban nhân dân xã xem
xét phê duyệt. Nhân dịp năm học mới, Ban giám hiệu cần tổ chức họp phụ
huynh về việc xây dựng cơ sở vật chất hàng năm để hội cha mẹ học sinh bàn
bạc mức đóng góp theo từng năm họcvới phương châm " Nhà nước và nhân
dân cùng làm”, nâng cao tính thuyết phục để dân hiểu tầm quan trọng của công
tác giáo dục, tình hình bức xúc của việc xây dựng cơ sở vật chất. Nêu những
22
GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
khó khăn của địa phương, vị trí của nhà trường trong giai đoạn lịch sử, từ đó
cha mẹ học sinh tự nguyện đóng góp xây dựng trường. Mỗi cuộc họp có biên

bản kí kết, đề nghị xây dựng hàng năm, có chữ kí của hội cha mẹ học sinh.
Biện pháp thứ ba: Tham mưu tốt với chính quyền địa phương và cấp trên, cấp
kinh phí xây dựng cơ sở trường học.
Qua thực tế cho thấy, việc xây dựng cơ sở vật chất trường học là việc làm đòi hỏi
phải có nguồn lực kinh phí rất lớn, trong đó nguồn đóng góp của nhân dân chỉ có
mức, dân còn nghèo, còn gặp nhiều khó khăn.
Theo kế hoạch xây dựng hàng năm của nhà trường dự toán mức đóng góp của nhà
trường là bao nhiêu sau đó làm tờ trình, có ý kiến với hội phụ huynh, trình hội đồng
nhân dân, UBND xã, huyện sau đó các cấp có thẩm quyền ra quyết định cho nhà
trường thu bao nhiêu tiền trong năm để đầu năm trình cho các bậc phụ huynh nắm
được nội dung thu chi trong năm học đúng chính xác.
Hàng năm ban giám hiệu lập dự toán kinh phí xây dựng hạng mục các công trình, có
xác nhận của uỷ ban nhân dân xã.
Căn cứ vào tờ trình của nhà trường, UBND xã phê duyệt, nhà trường trình cấp trên
(Phòng giáo dục đào tạo, uỷ ban nhân dân huyện) xin kinh phí xây dựng. Số kinh phí
nhà trường có được là nhờ sự quan tâm của Đảng của chính quyền, và nhân dân đối
với sự nghiệp trồng người của chính quyền sở tại.
Biện pháp thứ tư: Ban giám hiệu có kế hoạch kịp thời, nhạy bén để mua sắm
trang thiết bị dạy và học trong nhà trường.
Hàng năm vào cuối năm học, ban giám hiệu cần chỉ đạo bộ phận quản lý tài sản kiểm
tra toàn bộ tài sản của nhà trường : SGK, sách tham khảo,các đồ dùng dạy học, bàn
ghế, bảng... có biên bản kiểm tra, có danh mục chủng loại đồ dùng. Lập bảng dự trù
báo cáo với ban thường trực hội phụ huynh xin trích từ quỹ hội mua bổ sung thiết bị
hỏng.
Mỗi năm vận động học sinh đóng góp để xây dựng tủ sách dùng chung
Ngoài ra, những đồ dùng cần thiết phục vụ cho việc dạy và học, các thiết bị dạy và
học cho phong trào bề nổi như : Phông, tăng âm, ảnh tượng Bác... trường lập dự toán
thông qua hội phụ huynh vận động các cha mẹ học sinh ủng hộ việc mua bán những
dụng cụ cần thiết. Để thực hiện được điều đó cần phải có được sự ủng hộ nhất trí cao
của cha mẹ học sinh và có được một nguồn kinh phí nhất định

Biện pháp thứ năm: Công tác xây dựng đi đôi với tu sửa.
Khi cơ sở vật chất nhà trường đã ổn định, nhà trường lồng ghép hoạt động ngoài giờ
nhằm giáo dục các em có tinh thần giữ gìn và bảo vệ trường lớp, hàng tuần có kế
hoạch lao động cho các em dọn dẹp vệ sinh, tạo cảnh quan cho môi trường Xanh Sạch - Đẹp. Mặt khác cuối năm học nhà trường kiểm kê toàn bộ tài sản, còn bao
nhiêu % trước khi nghỉ hè, bàn giao cho bảo vệ có trách nhiệm bảo quản trông coi.
Khi các lớp học, ngói vỡ, lớp dột phải kịp thời kiểm tra thay thế vật liệu do nhà
trường chi trả.
Hàng năm vào đầu năm học mới, nhà trường tổ chức bàn giao lớp học, bàn, ghế cho
giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm bảo quản và kịp thời báo cáo để tu sửa.
GV: Cao Minh Anh

23


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
Tổ chức họp giáo viên chủ nhiệm nhà trường triển khai mẫu trang trí lớp học theo
quy định của bộ giáo dục đào tạo, lớp có khăn trải bàn, lọ hoa giá để chậu rửa tay,
chổi quét, thùng đựng rác để học sinh làm công tác vệ sinh đúng quy định. Tất cả các
mẫu trang trí phải thống nhất một mẫu, một khuôn, nguồn kinh phí trang trí, giáo viên
chủ nhiệm lớp dự toán bàn thống nhất với chi hội phụ huynh trích quỹ lớp ra để trang
trí.
Các dụng cụ phục vụ cho việc dạy học, học tập và cho phong trào, hết năm phải bàn
giao cho nhà trường, bảo vệ có trách nhiệm trông coi bảo quản.
Tất cả tài sản của nhà trường đều được ghi vào sổ tài sản của nhà trường. Thường
xuyên có sự kiểm tra bổ sung, có biên bản kiểm tra xác nhận của Ban giám hiệu nhà
trường. Chính vì vậy, tài sản của nhà trường không bị thất thoát, phòng học luôn bảo
đảm vững chắc bền đẹp.
Lập kế hoạch cụ thể làm tờ trình gửi đề nghị các cấp có thẩm quyền để mở rộng diện
tích, khuôn viên trường học theo tiêu chuẩn : Trường chuẩn quốc gia.
Nói tóm lại, việc xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường có được tốt hơn

để phục vụ việc dạy và học của trường tiểu học Võ Miếu 1 hay không nó còn đòi
hỏi sự thay đổi về nhận thức của mỗi đồng chí cán bộ đảng viên và toàn thể nhân
dân. Mỗi cán bộ quản lý phải bám sát phương châm " Nhà nước và nhân dân
cùng làm" có như vậy mới phát huy được nguồn lực, khai thác hết được tiềm
năng sáng tạo của nhân dân, của toàn hể xã hội, nhằm phục vụ công việc đổi mới
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Nếu tìm ra các biện pháp xây dựng và quản lý cơ sở vật chất phù hợp,
đúng đắn hơn thì chắc chắn số lượng và chất lượng cơ sở vật chất của nhà
trường sẽ khang trang hơn và chất lượng giáo dục sẽ có sự chuyển biến rõ rệt.
Chính vì vậy, qua Đại hội lần này, tôi mong muốn trong nhiệm kỳ tới Chi bộ , Ban
giám hiệu trường tiểu học Võ Miếu 1 cần quan tâm hơn nữa để nhà trường có điều
kiện chuẩn về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học. Có như vậy thì chất lượng giáo
dục toàn diện sẽ được cải thiện đáng kể so với hiện nay.
c/Phân tích về mô hình trường học.
Thời xưa trường học được quan niệm rất giản đơn, có thầy, có trò có nơi che mưa che
nắng, có bảng đen và bàn ghế, như thế gọi là trường học.
Trường chuẩn quổc gia là mô hình nhà trường ờ trình độ phát triển mới, từ mô hình
trường chuẩn đang xây dựng ta có thể hình dung và diễn đạt theo cách khác như ở mô
hình 1.
Trong mô hình 1 có 7 yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau:
Yếu tố số 1 là HS - nhân vật trung tâm, là mục tiêu giáo dục.
Yếu tố thứ 2 là các hoạt động giáo dục, cả hoạt động chính khoá và hoạt động ngoại
khóa, sinh hoạt đoàn thể, hoạt động xã hội.
Yếu tố thứ 3 là hoạt động kiểm định và đánh giá giáo dục.
Yếu tố thứ 4 là các nguồn lực cả về nhân lực, vật lực và tài lực. Nguồn lực giáo dục
trước hết là HS và GV. Các nguồn lực khác từ Nhà nước và từ xã hội hoá.
Yếu tố thứ 5 là tố chức và quản lí giáo dục, trước hết là nhân lực quản lí, cơ chế quản
lí.
Yếu tố thứ 6 là nội dung và phương pháp dạy học.
24


GV: Cao Minh Anh


Tự học BDTX Module 2 THCS 2016-2017
Yếu tố thứ 7 là cơ sờ vật chất- thiết bị.

Các yếu tố trong mô hình nhà trường không xếp theo thứ tự về tàm quan trọng mà chỉ
là sự sắp xếp các thành tố theo các mối quan hệ hướng vào HS và tạo lập một nhà
trường lành mạnh.
Trong các hoạt động giáo dục (yếu tố 2) bao gồm cả các hoạt động giáo dục và hoạt
động học tập của HS và hoạt động giảng dạy của GV. Dạy học và giáo dục là những
hoạt động không đơn tuyến, không tách biệt nhau mà ở trong nhau: giáo dục HS qua
dạy học và đã dạy học thì phải giáo dục HS. Nhà giáo là thầy dạy học chứ không phải
là thợ dạy, “Dạy' chữ - Dạy người" là vậy. Về mổi quan hệ giữa giáo dục và dạy học
được hình dung ở mô hình 1.
d/Trình bày quan điểm của bạn về bồi dưỡng HS giỏi, phụ đạo HS kém và vấn
đề dạy, học thêm.
+ Về vấn đề bồi giỏi, phụ kém:
Việc bồi duõng HS giỏi và phụ đạo HS kém là biểu hiện của quan điểm dạy học phù
hợp vì đổi tượng HS hay là dạy học phân hoá, mà theo phương pháp truyền thống gọi
là “Dạy học vừa sức HS" đuợc hiểu theo nội hàm mới là phù hợp với từng đối tượng
HS.
Trên thực tế đã nhiều năm, do việc dạy của GV và kết quả học tập của HS ở nhiều
nơi còn thấp, làm cho xã hội chưa an tâm và còn nhiều lí do khác nữa nên đã dẫn đến
tình trạng “dạy thêm học thêm tràn lan tiêu cực". Ngành Giáo dục đã phải đưa ra các
biện pháp tình thế để khắc phục nhưng hiện tượng dạy thêm, học thêm vẫn không hạn
chế được như mong muốn, do ngay trong một số biện pháp đó còn có những điểm bất
hợp lí. Ví dụ như: Việc quy định cho GV chỉ đuợc bồi dưỡng HS giỏi và phụ đạo HS
kém, nhưng số HS thuộc hai loại này thường ít và thường có sự thay đổi theo chiều

hướng tích cực (tiến bộ) hoặc sa sút (kém đi) nên sự phân định chỉ là tương đối.
Đa số HS trong lớp thường thuộc loại học lực trung bình, các em có nhu cầu chính
đáng là vươn lên học khá, học giỏi và cần học thêm để thỏa mãn nhu cầu chính đáng
GV: Cao Minh Anh

25


×