Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận tư tưởng biện chứng trong triết học hêraclít

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.43 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ph.Ăngghen đã từng định nghĩa phép biện chứng là khoa học “về những
quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”. Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cách mạng đã chứng
minh rằng: khi nào chúng ta nắm vững lý luận biện chứng, biết vận dụng
sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh cụ thể thì vai trò, hiệu lực cải tạo tự nhiên
được tăng cường. Ngược lại cách nghĩ cách làm chủ quan duy ý chí sẽ dẫn
đến sai lầm, gây tổn thương cho cách mạng và xã hội nói chung.
Nghiên cứu lịch sử phép biện chứng không thể bỏ qua những tư tưởng
biện chứng sơ khai thời cổ đại. Như ở trong cùng một dòng chảy, những
thành tựu phép biện chứng mà chúng ta có được ngày nay là kết quả tất yếu
của sự phát triển tư tưởng biện chứng liên tục từ thời cổ đại qua thời phục
hưng, cho đến thời cận đại. Sự ra đời và phát triển của phép biện chứng duy
vật là sự nối tiếp hợp lôgíc của tư tưởng biện chứng từ thời cổ đại.
Nói đến tư tưởng biện chứng ở Hy Lạp cổ đại, thì không thể không nói
đến nhân vật Hêraclít - nhà triết học đã được V.I. Lênin đánh giá là nhà biện
chứng đầu tiên trong lịch sử. Việc chọn đề tài “Tư tưởng biện chứng trong
triết học Hêraclít”, do những lý do đã nêu. Hơn nữa nghiên cứu tư tưởng
biện chứng Hy Lạp cổ đại thì Hêraclít lại giữ vị trí trung tâm. Đồng thời
việc chọn đề tài “Tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclít” cũng nhằm
mục đích muốn hướng bạn đọc yêu quý triết học đến với những tư tưởng
biện chứng sơ khai đầy lý thú nhưng cũng hết sức sâu sắc của con người
thời cổ đại.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu và xây dựng học thuyết của mình, cũng như
luận chiến chống lại các trào lưu tư tưởng phản tiến bộ, các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác đã có nhiều công trình nghiên cứu và đánh giá sâu sắc vai trò
1



ý nghĩa của tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại.C.Mác đã có tác phẩm “Sự
khác nhau giữa triết học Đêmôcrít và triết học của Epyquya”, Ph.Ăngghen
có tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” và “Chống Đuyrinh”. V.I.Lênin có
“Bút ký triết học” và “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”.
Công trình quan trọng số một khi nghiên cứu lịch sử biện chứng, đó là bộ
sách “Lịch sử phép biện chứng” (6 tập) của Viện Hàn Lâm khoa học Liên
Xô,“Câu chuyện triết học” của Bryan Magee (người dịch Huỳnh Phan Anh Mai Sơn). “Lịch sử triết học Phương Tây” của Nguyễn Tiến Dũng, “Lịch sử
triết học Hy - La Cổ đại” (2 tập) của Nguyễn Quang Thông và Tống Văn
Chung đã hệ thống hoá triết học Hy Lạp - La Mã Cổ đại qua các giai đoạn
phát triển. “Lịch sử triết học” của Nguyễn Hữu Vui, bộ sách “Câu hỏi và bài
tập triết học” (4 tập). Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có nhiều
công trình nghiên cứu khác nhau về triết học Hy Lạp cổ đại. Trong số đó
“Tạp chí triết học” cũng là một nguồn tài liệu phong phú. Việc xây dựng đề
tài khoá luận “Tư tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít” sẽ vẫn dựa
trên các nguồn tài liệu quý giá đã nêu trên có thể hoàn thành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài:
Làm rõ tư tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít, qua đó muốn
nói đến vị trí của triết học Hêraclít cũng như tư tưởng biện chứng của ông
trong nền triết học Hy Lạp cổ đại.
- Nhiệm vụ của đề tài:
Phân tích bối cảnh ra đời và phát triển tư tưởng biện chứng của triết học
Hy Lạp cổ đại. Trình bày và làm rõ những quan điểm biện chứng trong triết
học của Hêraclít. Đánh giá những đóng góp và hạn chế trong những quan
điểm biện chứng của Hêraclít.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

2



- Cơ sở lý luận của đề tài: Là các nguyên lý, quy luật, các cặp phạm trù
cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho việc nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Là quán triệt các nguyên tắc của
phép biện chứng duy vật, kết hợp với các phương pháp đối chiếu và so sánh;
phương pháp logíc và phương pháp lịch sử.
5. Đóng góp của đề tài
Cũng như mục đích của đề tài đã đặt ra thì đề tài cũng muốn làm rõ tư
tưởng biện chứng trong triết học Hêraclít. Đề tài cũng nêu ra những quan
điểm đánh giá của các nhà nghiên cứu về Hêraclít. Đề tài cũng là một nguồn
tài liệu giúp ích cho việc học tập và tìm hiểu triết học của các bạn sinh viên.
6. Kết cấu của khoá luận
Khoá luận ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham
thảo, Nội dung được kết cấu thành hai chương (4 tiết)
Chương 1
PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ LỊCH SỬ PHÉP BIỆN CHỨNG HY LẠP
CỔ ĐẠI
1.1. Khái niệm phép biện chứng và nguồn gốc của phép biện chứng.
Phép biện chứng là một khoa học triết học, Ph.Ăngghen đã từng định
nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. Phép
biện chứng ra đời cùng sự ra đời của triết học, phép biện chứng có một quá
trình phát triển lâu dài trước khi đạt đến khái niệm khoa học.
Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “phép biện chứng” là Xôcrát với ý
nghĩa là nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý. Đây cũng là cách hiểu phổ
biến của người Hy Lạp cổ đại, về sau học trò của Xôcrát và Platôn đã coi
phép biện chứng là nghệ thuật đối thoại dưới hình thức hỏi - đáp, phân tích
và liên kết các khái niệm để đạt tới định nghĩa đúng đắn về các khái niệm
đó.
3



Đến Hêghen (1770 - 1831), nhà triết học duy tâm khách quan người đức,
thuật ngữ này đã được phát triển khá toàn diện. Ông là người đầu tiên sử
dụng thuật ngữ “phép biện chứng” sát với nghĩa hiện đại. Tuy nhiên, phép
biện chứng của Hêghen là phép biện chứng lộn ngược, “phép biện chứng
lộn ngược đầu xuống đất”.
Đến C.Mác, Ph.Ăngghen và tiếp theo đó là Lênin đã kế thừa và phát
triển một cách sáng tạo những giá trị triết học trong lịch sử tư tưởng của loài
người, trong đó có những tư tưởng biện chứng trước đó mà trực tiếp là phép
biện chứng của Hêghen để hoàn thiện phép biện chứng, đưa phép biện
chứng lên đỉnh cao - phép biện chứng duy vật, làm cho phép biện chứng
thực sự trở thành khoa học phản ánh những quy luật chung nhất, phổ biến
nhất về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy.
Có thể thấy rằng, lịch sử phát triển phép biện chứng gắn liền với những
hình thức cơ bản sau:
Phép biện chứng tự phát ngây thơ; gắn liền với hình thức đầu tiên của
phép biện chứng là nền triết học Hy Lạp cổ đại. Đó là phép biện chứng dựa
trên sự cảm thụ trực tiếp thế giới vật chất xung quanh. Phép biện chứng đó
chưa phải là một hệ thống lý luận, quan điểm về phép biện chứng.
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức: đây là “hình thức
thứ hai” của phép biện chứng. Nếu phép biện chứng cổ đại chủ yếu được
đúc rút từ kinh nghiệm cuộc sống hàng ngày thì phép biện chứng duy tâm
trong triết học cổ điển Đức đã trở thành một hệ thống lý luận tương đối
hoàn chỉnh và đã trở thành một phương pháp tư duy triết học phổ biến.
Lênin đã đánh giá, “phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã
hoàn thành cuộc cách mạng về phương pháp, nhưng cuộc cách mạng đó lại
ở tận trên trời, chứ không phải ở dưới trần gian. Trong cuộc sống hiện thực
của loài người, và do vậy, phép biện chứng đó cũng không tách khỏi tính
chất gò ép, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”.


4


Phép biện chứng duy vật: C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhà sáng lập
ra phép biện chứng duy vật và tiếp sau đó là V.I.Lênin phát triển. Khi sáng
lập ra phép biện chứng duy vật, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã kế thừa
và phát triển sáng tạo những “hạt nhân hợp lý” trong lịch sử tư tưởng của
nhân loại, mà trực tiếp là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và đặt nó
trên nền tảng duy vật. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa
thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng, giữa lý luận nhận thức
với lôgíc biện chứng. Đánh giá về vai trò của phép biện chứng duy vật như
Mác từng nói: “Các nhà triết học trước kia chỉ có thể giải thích thế giới theo
cách này hay cách khác song vấn đề lại là cải tạo thế giới”.
Như vậy, lịch sử phép biện chứng là một quá trình lịch sử lâu dài, phát
triển từ những hình thức sơ khai, ngây thơ, tự phát cho đến hoàn thiện nhất,
đầy đủ nhất ở phép biện chứng duy vật
1.2. Hoàn cảnh lịch sử ra đời cho sự phát triển phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại
Vùng đất Hy Lạp cổ đại trước kia rộng lớn hơn rất nhiều so với ngày nay
với cấu trúc địa hình phức tạp, phong phú gồm phần đất liền cùng vô số hòn
đảo trên biển Êgiê, vùng duyên hải Ban Căng và Tiểu Á. Những cuộc di dân
ồ ạt từ thế kỷ thứ VIII đến hết thế kỷ thứ VI trước công nguyên và những
cuộc chinh phạt thành công của Alếchxan đại đế vào cuối thế kỷ IV trước
công nguyên càng làm cho vùng đất này được mở rộng và cùng với nó là sự
ra đời của các quốc gia Hy Lạp hoá. Đây là điều kiện thuận lợi để Hy Lạp
phát triển mạnh mẽ kinh tế và thực hiện giao lưu văn hoá giữa các dân tộc.
Về mặt kinh tế, ngay từ khi xuất hiện những công cụ bằng sắt thích hợp
với vùng đất Hy Lạp khô cằn và không thuận lợi cho việc tưới tiêu so với
người Ai Cập và người Sume người Babilon cổ đại. Việc sử dụng các công

cụ bằng sắt trong sản xuất thủ công nghiệp đã khiến cho thủ công nghiệp
thoát khỏi sản xuất nông nghiệp. Nghề thủ công phát triển cao trên quy mô
lớn ở các thành phố Hy Lạp cổ đại. Giữa thành phố và nông thôn có một sự
5


đối lập gay gắt. Đó là một trong các nhân tố quan trọng giúp cho người Hy
Lạp thoát khỏi kinh tế tự nhiên để tham gia vào các quan hệ vật chất.
Sự phát triển của công thương nghiệp đã tạo ra một tầng lớp chủ nô mới.
Tầng lớp giàu có vốn không phải chủ nô mới này ngày càng khẳng định
được địa vị của mình trong các nhà nước thành thị Hy Lạp. Việc của cải, nô
lệ nắm trong tay tầng lớp chủ nô mới này đã thúc đẩy chế độ tư hữu tài sản
phát triển nhanh chóng.
Sự phát triển của nhiều thành phố Hy Lạp cổ đại còn do quan hệ buôn
bán diễn ra ở những trung tâm lớn. Các thành phố Hy Lạp cổ đại trở thành
các trung tâm buôn bán và sản xuất hàng hoá hết sức sôi động, điều đó được
minh chứng bởi sự xuất hiện đồng tiền vào thế kỷ VII trước công nguyên.
Kinh tế phát triển, phân công lao động diễn ra sâu sắc là một trong những
nhân tố quan trọng dẫn đến sự tan rã của nền kinh tế tự nhiên mà cùng với
nó là những quan hệ huyết thống trong cộng đồng thị tộc ngày càng được
thay thế bởi chế độ tư hữu với vai trò của cá nhân ngày càng lớn khi họ
tham gia vào các quan hệ vật chất.
Về mặt xã hội: Ở Hy Lạp cổ đại sự phân hoá giai cấp của xã hội nô lệ đã
hình thành, đồng thời những mâu thuẫn giai cấp cũng xuất hiện. Cơ cấu xã
hội đó đã trở nên phức tạp hơn nhiều trong điều kiện nhà nước - thành bang.
Đặc trưng của các nhà nước thành bang Hy Lạp là đấu tranh giai cấp khốc
liệt.
Mâu thuẫn giữa bình dân và quý tộc đạt tới mức độ gay gắt nhất vào thế
kỷ thứ VII - VI trước công nguyên. Cuộc đấu tranh ấy đã làm cho thể chế
chính trị chủ nô quý tộc chuyển sang chế độ dân chủ chủ nô mà bằng chứng

rõ nét nhất qua lịch sử của thành bang Aten.
Về mặt tổ chức xã hội: Nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổ đại với
những đặc trưng của mình được tổ chức theo lối thành bang (pônit). Lịch sử
Hy Lạp cổ đại là lịch sử của những thành bang. Trong đó phải kể đến hai
thành bang lớn là thành bang Aten và thành bang Spác.
6


Thành bang Aten nằm trên đồng bằng Áttích thuộc trung bộ Hy Lạp.
Vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, sau những cải cách của Cơ-li-xten,
nhà nước Aten được xác lập hoàn chỉnh với chính thể hoàn toàn dân chủ.
Nét đặc trưng nhất của cả Aten và liên minh thành bang Aten là sự thống trị
của tầng lớp dân tự do, đó là đại bộ phận dân đem lại tính chất phong phú,
độc đáo của nền văn hoá Hy Lạp cổ đại.
Thành bang Spác nằm ở vùng bình nguyên Lacôni thuộc Pêlôpône, miền
Nam Hy Lạp. Tầng lớp chủ nô ở Spác là tầng lớp chủ nô quý tộc bảo thủ, áp
bức nô lệ vô cùng thậm tệ và để đàn áp các cuộc chống đối của nô lệ, Spác
đã xây dựng nhà nước kiểu liên minh quân sự với sự cai trị hà khắc, độc
đoán… Có thể nói đây là thành bang hiếu chiến nhất và phản động nhất
trong các thành bang của Hy Lạp cổ đại.
Vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, kinh tế Hy Lạp phát triển không
đồng đều. Chính điều đó đã dẫn đến việc những thành bang lớn mạnh tranh
giành quyền bá chủ của Hy Lạp. Điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai thành
bang - liên minh Aten và liên minh Spác dưới tên gọi cuộc chiến tranh
Pelôpône diễn ra hàng chục năm với kết quả là sự thất bại nặng nề của thành
bang Aten và liên minh. Không chỉ là cuộc chiến tranh giành quyền lực,
cuộc chiến tranh giữa hai thành bang còn biểu hiện cuộc đấu tranh quyết liệt
giữa hai phái chủ nô: chủ nô dân chủ Aten và chủ nô quý tộc Spác.
Đến thế kỷ thứ II trước công nguyên, Hy Lạp bị đế quốc La Mã chinh
phục. Nhưng với nền văn hoá phát triển rực rỡ thì Hy Lạp đã chinh phục La

Mã về văn hoá. Chính vì vậy, đây là thời kỳ được gọi là thời kỳ Hy Lạp hoá.
Vào khoảng thiên niên kỷ I trước công nguyên trên cơ sở tiếp thu và cải
tạo chữ viết người Phiniki. Chữ viết ra đời thể hiện trình độ tư duy cao của
người Hy Lạp mà thông qua nó, mọi tư duy của người Hy Lạp đều được
biểu đạt lên trên mặt giấy.
Trong kho tàng văn hoá cổ đại, thần thoại Hy Lạp là một đỉnh cao xán
lạn. Ngay từ khi mới xuất hiện, thần thoại Hy Lạp không chỉ là nguồn cảm
7


hứng bất tận cho văn học, thơ ca, hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc… mà còn trở
thành cội nguồn lý luận cho sự hình thành tư tưởng biện chứng trong triết
học Hy Lạp cổ đại.
Thần thoại đã phản ánh thành công những nguyện vọng của nhân dân,
cũng như cuộc sống lao động và đấu tranh của người Hy Lạp cổ đại. Đối với
triết học Hy Lạp thì thần thoại là một yếu tố quan trọng dẫn đến sự hình
thành, mối quan hệ giữa thần thoại và triết học Hy Lạp cổ đại là mối liên hệ
phát sinh: “Mối liên hệ mang tính phát sinh này của triết học Hy Lạp cổ đại
với thần thoại thể hiện ở sự thống nhất phương pháp nhìn nhận thế giới,
phương pháp mang tính quyết định đối với các quan niệm thần thoại đã trở
thành một trong những phương pháp cơ bản trong các hệ thống triết học - vũ
trụ luận”.Khoa học cũng là một yếu tố quan trong cho việc hình thành tư
tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng và nền triết học Hy
Lạp nói chung.
Khoa học được phát triển mạnh mẽ trên cả hai phương diện: Tự nhiên và
xã hội, đặc biệt là khoa học tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu buôn bán, vượt
biển và những cuộc chinh phục của người Hy Lạp đến các vùng đất mới.
Triết học Hy Lạp cùng với những thành tựu của nó có vai trò vô cùng
quan trọng đối với Châu Âu nói riêng và nhân loại nói chung. Hy Lạp là quê
hương của các triết gia lớn với những tư tưởng vĩ đại. Từ Talét, triết học đã

ra đời và thay thế thần thoại cùng tôn giáo nguyên thuỷ, đồng thời thâu tóm
các tri thức khoa học vào một hệ thống mang tính khái quát hơn.
1.3. Phép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại và đặc điểm của phép
biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại
Phép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong triết học của
những nhà triết học duy vật về tự nhiên, về con người và về xã hội. Các đại
biểu tiêu biểu cho phép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại đó là: Talét,
Anaximen, Anaximenđrơ, Hêraclít, Đêmôcrít.

8


Với Talét - “người nghiên cứu triết học đầu tiên” cho rằng thế giới bắt
đầu từ nước. Nước - một dạng vật chất cụ thể, được Talét xem là cơ sở của
thế giới, cơ sở của mọi sự vật. Mọi sự vật đều được sinh ra từ nước và khi
phân huỷ lại biến thành nước.
Tư tưởng này của Talét tiếp tục được phát triển ở Anaximen khi ông cho
rằng khởi nguyên của thế giới là không khí, sự xuất hiện của vô số các vật
thể và sự quay lại khởi nguyên đầu tiên của chúng là quá trình cô đặc và làm
loãng ra của không khí.
Anaximenđrơ cho nguồn gốc và cơ sở của mọi sự vật là Apâyrôn - một
cái không xác định vô hạn cả về đại lượng lẫn thuộc tính, không thể chuyển
hoá thành một khởi nguyên nào khác, là thứ mà từ đó trong quá trình phát
triển các mặt đối lập được tách ra: nóng - lạnh, khô - ướt… Khởi nguyên
ướt sẽ dẫn tới sự hình thành đất và cùng với khởi nguyên nóng, nó quy định
sự xuất hiện của sự sống.
Trong sự giải thích về nguồn gốc của sự sống, Anaximenđrơ đã có
những phỏng đoán thiên tài. Ông cho rằng sự sống của con người nảy sinh
trên ranh giới giữa lục địa và đáy biển, dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời
(nóng), các đại dương cạn dần, sau đó từ những sinh vật sống ở biển chuyển

lên cạn sinh sống, trút lớp vảy đi và trở thành động vật trên cạn, từ các con
vật trên cạn phát triển tiến hoá con người ra đời từ đó. Sự sống là sự chuyển
tiếp từ thấp đến cao, sự vận động của con người và các sinh vật luôn theo
quy luật tiến hoá tự nhiên của nó.
Về phép biện chứng Hy Lạp cổ đại thì Hêraclít được xếp ở vị trí trung
tâm. Ông được xem là “một trong những nhà sáng lập ra phép biện chứng”.
Hêraclít truy tìm bản nguyên của thế giới từ một hành chất đầu tiên, đó là
lửa. Lửa là cơ sở của thế giới sự vật hiện tượng, thế giới sự vật hiện tượng
thống nhất ở cơ sở của chúng là ngọn lửa, lửa là cơ sở phát sinh sinh thành
thế giới. Con đường để sinh thành đó tuân theo quy luật chuyển hoá.

9


Hêraclít trong triết học của mình đã làm rõ tính thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Trong quan điểm về sự thống nhất (hài hoà) và đấu
tranh của các mặt đối lập Hêraclít đã làm nổi bật những tư tưởng sau:
Thứ nhất, sự thống nhất có nghĩa là sự đồng nhất của cái đa dạng, là sự
hài hoà giữa các mặt đối lập “bất đồng với nhau”.
Thứ hai, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng trong quá trình biến đổi đều trải qua
các trạng thái đối lập và chuyển hoá thành các mặt đối lập với nó.
Thứ ba, đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là sự đối lập mà còn là
sự liên hệ thống nhất giữa các mặt đối lập, là điều kiện của tồn tại.
Hêraclít còn được mọi người biết nhiều đến bởi học thuyết dòng chảy
phổ biến (vận động là phổ biến) của ông. Ông đưa ra mệnh đề “người ta
không thể hai lần tắm trên một dòng sông”.
Đại biểu tiêu biểu cho lập trường duy vật Hy Lạp cổ đại đó là Đêmôcrít.
Đêmôcrít cho rằng khởi nguyên của vũ trụ là từ các nguyên tử, thế giới với
sự đa dạng của nó được cấu thành từ sự đa dạng của các nguyên tử, sự kết
hợp của các nguyên tử. Sự khác nhau của các vật thể là do sự kết hợp của

các nguyên tử theo một trật tự nhất định.
Đêmôcrít khác với các nhà triết học thuộc trường phái Êlê khi ông thừa
nhận sự tồn tại của khoảng không (tức không tồn tại). Ông khẳng định:
“Không tồn tại hiện có chẳng kém gì so với tồn tại”. Cả hai (cái tồn tại và
không tồn tại) đều là nguyên nhân của vật chất, thậm chí không tồn tại còn
là điều kiện cho sự vận động của các nguyên tử.
Trên cơ sở trình bày tóm lược phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ
đại. Chúng ta có thể khái quát đặc điểm của phép biện chứng duy vật Hy
Lạp cổ đại.
Đặc điểm cơ bản và xuyên suốt trong phép biện chứng Hy Lạp cổ đại đó
là tính ngây thơ, tự phát. Tự phát vì các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên
cứu tự nhiên chỉ cốt làm sao vẽ được bức tranh chung về thế giới và chỉ ra
được nguồn gốc của nó chứ không có chủ định nghiên cứu phép biện chứng.
10


Ngây thơ vì hầu hết các tư tưởng biện chứng của các nhà duy vật Hy Lạp cổ
đại đều mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở kinh nghiệm trực giác.
Vào thời đại của các nhà triết học cổ đại Hy Lạp thì yếu tố khoa học
chưa phát triển để chứng minh cho các tư tưởng biện chứng của các nhà triết
học. Chính yếu tố khoa học của thời đại các nhà triết học cổ đại Hy Lạp
chưa phát triển, chưa phục vụ tích cực cho triết học nên đã làm cho những
tư tưởng mang đặc điểm ngây thơ, tự phát.
Cùng với yếu tố khoa học lúc đó chưa phát triển thì các chuyện thần
thoại vẫn còn phảng phất trong triết học Hy Lạp cổ đại. Chính vì vậy mà
trong các tư tưởng biện chứng của các nhà triết học duy vật cũng có những
yếu tố thần thoại.
Từ sự phân tích nói trên, chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa
rằng: đặc điểm cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại là
mang tính ngây thơ, tự phát. Điều đó do: Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại

chỉ muốn vẽ nên bức tranh về thế giới mà không có chủ định nghiên cứu
phép biện chứng, khoa học lúc bấy giờ chưa phát triển để chứng minh cho
các tư tưởng biện chứng, do ảnh hưởng của thần thoại đến nền triết học Hy
Lạp cổ đại, nên phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại còn
phảng phất yếu tố thần thoại.
Chương 2
TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA HÊRACLÍT
2.1. Tiểu sử của Hêraclít
Hêraclít (khoảng 540- 475 trước công nguyên), xuất thân từ nhà nước
thành thị Ephee thuộc vùng Tiểu Á của Hy Lạp. Ông sống trong thời kỳ lịch
sử đầy căng thẳng của các nhà nước thành thị Hy Lạp khi mà dân thường đã
giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh gay gắt với tầng lớp quý tộc dòng
dõi (nông thôn). Ông cũng là người sống trong thời kỳ diễn ra cuộc chiến
tranh giữa Hy Lạp với Ba Tư (500 - 449 trước công nguyên).

11


Sinh thời Hêraclít là một nhà đại quý tộc thuộc dòng dõi Côđơriđốp.
Theo luật ông là con trai đầu nên được thừa kế chức Badin, nhưng ông đã
nhường lại cho em trai của mình để đi du lịch và nghiên cứu triết học. Như
vậy, Hêraclít là một người có nguồn gốc đại quý tộc nhưng vị trí lại không
là như thế, ông đã tự tách mình ra khỏi vị trí đại quý tộc đó. Nhưng Hêraclít
cũng không thuộc vào giai cấp đang lên, tư tưởng triết học của ông có sự
tiến bộ ở chỗ có phản ánh phong trào nhân dân, có nội dung nhân dân qua
những mâu thuẫn chia rẽ của giai cấp quý tộc.
2.2. Tư tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít
2.2.1. Quan niệm của Hêraclít về khởi nguyên của vũ trụ
Tìm kiếm bản nguyên đầu tiên của vũ trụ, luận giải bản nguyên đó về
phương diện bản thể luận và gắn nó với một hay vài dạng tồn tại cụ thể của

vật chất dưới dạng trực quan cảm tính, đó là một trong những đặc trưng làm
nên tính độc đáo của triết học Hy Lạp cổ đại. Trước Hêraclít các nhà triết
học nổi tiếng của trường phái Milê đã truy tìm khởi nguyên đầu tiên của vũ
trụ ở một hành chất đơn nhất, nếu Talét cho khởi nguyên đầu tiên đó là
nước, Anaximenđrơ cho đó là Apâyrôn, hay Anaximen cho đó là không khí
thì Hêraclít lại khẳng định rằng đó là lửa.
Hêraclít khẳng định: “Thế giới là một chỉnh thể bao gồm mọi vật, không
do một thần thánh nào tạo ra, mà đã, đang và sẽ là một ngọn lửa cháy vĩnh
viễn sống, bùng cháy và tắt đi theo những quy luật”.
Như vậy, vũ trụ xét về tổng thể, theo Hêraclít là cái đơn (duy nhất),
nhưng cái đơn đó phải là tổng thể của sự thống nhất của các vật thể và
không thể thiếu một khởi nguyên thống nhất và chung cho mọi vật thể và
khởi nguyên đó chính là lửa. Với quan điểm duy vật Hêraclít cũng cho rằng
trong vũ trụ những sự vật, hiện tượng nội tại tự nó biến đổi đa dạng, vận
động chuyển hoá, biến đổi sang những hình thức, mức độ khác nhau mà có
cơ sở của chúng là ngọn lửa.

12


Hêraclít đã lấy lửa là cơ sở độc nhất, phổ biến của mọi hiện tượng tự
nhiên, lửa là nguồn gốc vật chất đầu tiên của chúng và ông đã dùng sự biến
đổi của lửa để giải thích như là sự biến đổi bản chất của mọi hiện tượng tự
nhiên. Ông cho rằng: “Tất cả được trao đổi với lửa, và lửa trao đổi với tất
cả, giống như hàng hoá đối với vàng và vàng đối với hàng hoá”.
Trong quan niệm về lửa của Hêraclít đã cho thấy tính thống nhất của thế
giới, quan niệm luôn đòi hỏi phải giải thích các hiện tượng một cách khách
quan tức là dựa vào tự nhiên để giải thích tự nhiên. Đánh giá quan điểm này
của Hêraclít: V.I.Lênin cho rằng đó là “một sự trình bày rất hay những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng”. Tuy nhiên, trong quan điểm

về lửa của Hêraclít vẫn còn mang tính vật hoạt luận, Hêraclít đã không nhìn
thấy có sự phát triển từ thấp đến cao trong cái “dòng chảy” và sự biến đổi
phổ biến liên tục của vạn vật trong vũ trụ.
2.2.2. Về khái niệm Logos của Hêraclit
Logos là một khái niệm có trước Hêraclít là một khái niệm đa nghĩa.
Trong tiếng Hy Lạp cổ Logos có nghĩa là từ ngữ, là tư tưởng. Với nghĩa là,
tư tưởng, Logos được thể hiện trong từ ngữ. Logos được hiểu theo nghĩa
nào là tùy thuộc vào văn cảnh của ngôn ngữ. Hêraclít đã biến khái niệm này
thành trung tâm trong triết học của ông. Logos trong hệ thống triết học của
Hêraclít vẫn là một khái niệm đa nghĩa. Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng
trong công trình “Lịch sử triết học phương Tây” thì đã có bảy cách giải
thích khác nhau về Logos của Hêraclít.
Trong triết học của Hêraclít khi quan niệm lửa là khởi nguyên đầu tiên,
là cơ sở của vạn vật thế giới, lửa sẽ phán xét tất cả. “Ngọn lửa” có một quy
luật nội tại của nó, đó là Logos. Và như vậy, mối quan hệ Logos và lửa có
thể xem là mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Logos trong quan niệm
của Hêraclít là quy luật bất biến vĩnh hằng của vũ trụ, ông viết rằng: “Logos
là cái vĩnh viễn tồn tại…vạn vật ra đời đều dựa vào Logos của nó”. Hêraclít
cho rằng thấu hiểu của một con người đó là nhận thức Logos, người thông
13


thái phải là người nhận thức và việc làm phải tuân thủ theo Logos: “Tự
nhiên yêu thích ẩn dấu mình”. Nhận thức và việc làm phải tuân thủ theo
Logos: “không phải theo tôi, mà theo Logos, thừa nhận rằng tất cả là đơn
nhất”.
Với cách hiểu như trên, thì Logos là quy luật chung nhất, phổ biến của
vũ trụ và vạn vật phải tuân theo. Trên cơ sở quan điểm này trong tư tưởng
của mình về sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập,
Hêraclít đã cho rằng: Logos là quy luật về tính thống nhất (hài hoà) và đấu

tranh của các mặt đối lập.
Trong quan điểm về nhận thức của mình, Hêraclít đã xây dựng lên khái
niệm Logos khách quan và Lôgos chủ quan, sự thống nhất phù hợp Logos
chủ quan với Logos khách quan là cơ sở của nhận thức.
2.2.3. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong quan niệm về sự
thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập
Nếu như ở Hy Lạp cổ đại các nhà triết học thuộc trường phái Milê và đặc
biệt là Anaximenđrơ đã có công đầu trong việc xây dựng những tư tưởng sơ
khai đầu tiên về sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập, sự phân đôi
thống nhất của các mặt đối lập, thì Hêraclít là là người nói đến sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập nhiều nhất. Ở Hêraclít quan điểm của ông
về sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập được thể hiện rõ
ở những điểm sau.
Thứ nhất, sự thống nhất có nghĩa là sự đồng nhất của cái đa dạng, là sự
hài hòa của các mặt đối lập “bất đồng với nhau”.
Đồng ý với quan điểm của hầu hết các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho
rằng thế giới là một chỉnh thể “tuyệt đẹp”bao gồm các sự vật đa dạng phong
phú,thì Hêraclít đã nhìn nhận sự thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng.
Nhưng Hêraclít còn khác với phần đông các nhà triết học Hy Lạp cổ đại còn
cho rằng sự thống nhất không chỉ đơn giản là sự đồng nhất của cái đa dạng
mà trong sự thống nhất luôn bao hàm trong nó các mặt đối lập “bất đồng”
14


với nhau. Theo Hêraclít có những sự thật hiển nhiên, hết sức rõ ràng mà ai
cũng biết như ngày và đêm, thiện và ác; hòa bình và đấu tranh…song giống
như mọi sự đối lập khác chúng tạo thành một chỉnh thể thì lại là điều không
phải ai cũng biết.
Tuy nhiên, ở đây Hêraclít mới chỉ nêu ra các ví dụ từ hiện thực cuộc
sống để so sánh, minh hoạ các mặt đối lập và sự thống nhất của các mặt đối

lập. Còn những khái niệm: mặt đối lập, khái niệm đồng nhất, khái niệm mâu
thuẫn thì ông chưa đi tới rõ ràng.
Không chỉ cho rằng các mặt đối lập tồn tại khách quan trong mỗi sự vật,
hiện tượng, Hêraclít còn thấy được rằng, trong sự thống nhất của các mặt
đối lập, các mặt đối lập còn có mối quan hệ giả định lẫn nhau và không thể
có được nếu thiếu nhau. Chúng là điều kiện cho nhau tồn tại, sự tồn tại của
mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề, chúng tồn tại thông qua
nhau.
Hêraclít còn cho rằng các mặt đối lập giả định lẫn nhau và không thể có
được nếu thiếu nhau. Ông cũng đưa ra ví dụ minh họa: không thể quý sức
khỏe nếu không biết mặt đối lập của nó là bệnh tật “bệnh tật làm cho sức
khỏe trở nên quý giá và ngọt ngào, đói - no, mệt mỏi - nghỉ ngơi”.
Hêraclít cho rằng trong vũ trụ bao hàm sự đa dạng của các sự vật thì tính
tương đối các thuộc tính của sự vật cần phải được xét trong mối quan hệ của
nó. Các thuộc tính của sự vật trực tiếp đối lập với nhau tùy thuộc vào công
việc của chúng có quan hệ với chất nào, vật nào. Ông nói: “Con vượn đẹp
nhất nhưng xấu xí so với loài người. Con người sáng suốt nhất nhưng cũng
chỉ là con vượn so với thượng đế xét về sự anh minh, sắc đẹp và về mọi thứ
khác”.
Thứ hai, mỗi sự vật, hiện tượng trong quá trình biến đổi đều trải qua các
trạng thái đối lập và chuyển thành các mặt đối lập với nó.
Vẫn là lối văn phong giàu hình ảnh, ông đã làm rõ quan điểm này của
mình bằng những ví dụ: sống trở thành chết; thức trở thành ngủ; trẻ trở
15


thành già… nhưng cũng có thể nói ngược lại rằng: chết thành sống; ngủ
thành thức; già trở thành trẻ. Ông nói: “cùng ở một thứ trong ta như sống và
chết; thức và ngủ; già và trẻ vì sau khi biến đổi cái này trở thành cái kia, và
ngược lại”.

Thứ ba, đấu tranh của các mặt đối lập là sự liên hệ thống nhất của các
mặt đối lập. Đấu tranh là phổ biến, là điều kiện của sự tồn tại.
Sự hoàn hảo, tính hài hoà này của vũ trụ theo quan niệm của Hêraclít, là sự
thống nhất nội tại, là sự hoà hợp, sự cân bằng các mặt đối lập cấu thành
chỉnh thể. Chính sự hoàn hảo và hài hoà ấy đã đem lại cho mọi sự vật, hiện
tượng và cả vũ trụ này tính xác định, tính vững chắc và tính ổn định: sẽ
không có âm thanh hài hoà nếu thiếu sự kết hợp thống nhất giữa các âm cao
và âm thấp cũng như không có chỉnh thể hài hoà thống nhất vũ trụ, nếu
thiếu các bộ phận khác nhau, và ngược lại không có các bộ phận ở bên
ngoài vũ trụ thống nhất… Những sự kết hợp hình thành từ tất cả và không
phải tất cả, cái giống nhau và khác nhau, cái hoà nhịp và cái không hoà
nhịp, cái thống nhất xuất hiện từ tất cả và tất cả từ cái thống nhất”.
Trái với quan điểm đương thời xem cuộc đấu tranh như một hiện tượng
hoàn toàn tiêu cực, như là sự xung đột giữa các lực lượng mù quáng bất
đồng mang tính chất phá huỷ thì Hêraclít lại cho rằng đấu tranh là vốn có ở
bản chất của các sự vật, là quy luật phổ biến của sự tồn tại của chúng. Đấu
tranh là nguồn gốc của sự sống là chân lý, là lẽ phải của sự sống. Ông có
một câu nói rất hay: con người sẽ không cảm thấy tốt hơn nếu mọi ý nguyện
của mình sẽ trở thành hiện thực.
Tư tưởng này của Hêraclít hoàn toàn khác biệt và đối lập với quan niệm
của liên minh Pitago. Khi Pitago và liên minh Pitago thừa nhận thế giới bao
gồm một số mặt đối lập, thừa nhận sự thống nhất cuả các mặt đối lập. Tuy
nhiên sự thống nhất của các mặt đối lập, sự hài hoà hoàn toàn loại trừ sự đấu
tranh, theo đó sự hài hoà là bất biến không đổi mới. Họ cho rằng không phải
là sự đấu tranh tạo ra sự hài hoà mà do sự thiếu hụt của mặt đối lập tạo ra sự
16


hài hoà,vũ trụ là sự hoà bình, hoà hợp. Hêraclít khẳng định: ở đâu không có
sự khác biệt thì không có sự thống nhất, không có sự bất hoà thì không có gì

phải hoà hợp.
Trên quan điểm về sự thống nhất (hài hoà) và đấu tranh của các mặt đối
lập, Hêraclít đã có những quan điểm về con người, xã hội. Con người theo
Hêraclít là một thực thể gồm phần thể xác và linh hồn. Trong phần linh hồn
của con người được cấu thành từ yếu tố lửa (năng động), mỗi linh hồn đều
có phần “ẩm ướt” và phần “khô ráo”. “Ẩm ướt” và “khô ráo” là hai mặt đối
lập thống nhất trong linh hồn của con người. Nếu trong linh hồn của một
người nào đó yếu tố “khô ráo” chiếm ưu thế thì người đó sẽ có được trí tuệ
thông minh, sẽ dễ dàng hiểu được cái Logos - quy luật của thế giới.
Xã hội trong quan niệm của Hêraclít cũng chứa đựng những mặt đối lập,
những mặt trái ngược nhau và do đó xã hội vận động theo xu thế đấu tranh,
bài trừ của các mặt đối lập. Ông cho rằng trong xã hội con người sẽ không
cảm thấy tốt hơn nếu mọi ý nguyện của mình trở thành hiện thực. Cũng trên
quan điểm đó Hêraclít diễn đạt tư tưởng của ông về “chiến tranh”; “chiến
tranh là cha đẻ của mọi thứ, là hoàng đế của mọi thứ. Chiến tranh có thể
biến một số người thành thần thánh, số khác là người, nó biến một số người
thành nô lệ, số khác là người tự do”. Chiến tranh tạo ra một trật tự hài hoà
mới.
Có thể nói rằng trong tư tưởng của Hêraclít về thống nhất (hài hoà) và
các mặt đối lập, ông đã làm nổi rõ những quan điểm sau: thống nhất là sự
hoà hợp của cái bất đồng của các mặt đối lập; trong quá trình biến đổi của
sự vật đều trải qua các trạng thái đối lập và chuyển hoá thành các mặt đối
lập. Đấu tranh của các mặt là phổ biến, là điều kiện của tồn tại. Với Hêraclít
thế giới là sự hài hoà của các mặt đối lập, là sự thống nhất (hài hoà) và đấu
tranh của các mặt đối lập là quy luật phổ biến của thế giới, nhận thức thế
giới là nhận thức quy luật đó, nhận thức là sự phân đôi nội tại của quy luật.

17



2.2.4. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong quan điểm về nhận
thức
Hêraclít được thừa nhận với tư cách là người sáng lập ra phép biện
chứng không chỉ bởi những quan niệm về vũ trụ, tính thống nhất của vũ trụ,
về vận động phổ biến, về tính thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
mà còn bởi quan niệm độc đáo của ông về nhận thức.
Một điểm hết sức độc đáo của Hêraclít là ông cho rằng người ta chỉ có
thể nhận biết được cái chung, cái phổ biến khi tìm ra được những biểu hiện
đa dạng, cụ thể của nó ở các sự vật, hiện tượng đơn nhất, cá biệt bằng cách
so sánh, đối chiếu các sự vật, hiện tượng đơn nhất cá biệt này với cái chung,
cái phổ biến. Nhiều nhà triết học có tên tuổi trong đó có những nhà sáng lập
ra chủ nghĩa Mác đã coi đó là phương pháp “đằng sau cây nhận thấy rừng” đằng sau hiện tượng nhận thấy bản chất, còn đằng sau bản chất nhận thấy
hiện tượng. Ông có một câu châm ngôn nổi tiếng: “biết nhiều thứ chưa làm
cho người ta thông minh, người thông minh phải là người nắm được bản
chất và tính tất yếu của sự vật, hiểu được cái Logos của vũ trụ”.
Để nắm được mối quan hệ biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng, nắm
được bản chất quy luật phổ biến của thế giới, nắm được Logos của vũ trụ,
theo Hêraclít chủ thể nhận thức trước hết phải có năng lực quan sát và sự
sáng suốt của trí tuệ.
Nét độc đáo trong quan niệm của Hêraclít đó là đã coi Logos chủ quan
cũng là đối tượng của nhận thức, của con người. Song sự khác biệt của
Hêraclít so với các nhà triết học đương thời còn ở chỗ ông luôn coi tự nhiên
mới là đối tượng của nhận thức, nhận thức của thế giới phải là cái nhận thức
được cái Logos khách quan. Để có được sự nhận thức đúng đắn này thì nhận
thức của con người kể cả những người có trí tuệ anh minh nhất phải bắt đầu
từ nhận thức cảm tính, “bởi mắt và tai là những người thầy tốt nhất”. Song
mắt và tai lại là những nhân chứng tồi nhất đối với con người nếu người đó
có linh hồn “ẩm ướt”. Điều đó cũng có nghĩa là, để nhận thức được cái
18



Logos khách quan của tự nhiên thì con người phải đi từ trực quan cảm tính
đến trực giác trí tuệ, từ sự nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Với quan niệm trên của mình về nhận thức Hêraclít đã đưa ra nguyên lý
về sự thống nhất giữa Logos chủ quan và Logos khách quan.
Logos khách quan theo như cách hiểu đơn giản và phổ biến thì đó là quy
luật, là trật tự thế giới. Logos chủ quan được hiểu là hình ảnh, từ ngữ, lời
nói, là chuẩn mực của mọi tư tưởng, suy nghĩ của con người. Xuất phát từ
quan điểm tư duy vốn có ở mọi người nên ông cho rằng Logos của con
người (Logos chủ quan) có đủ khả năng để phù hợp với Logos của thế giới
(Logos khách quan), mặc dù điều đó diễn ra không phải thường xuyên và ở
mọi người, mặc dù con người giao tiếp trực tiếp, thường xuyên với Logos
thế giới. Vậy câu hỏi đặt ra là: Cái Logos chủ quan của con người tìm thấy
sự đồng nhất với Logos khách quan của vụ trụ bằng cách nào? Hêraclít cho
rằng: Nếu thế giới nội tâm của con người, tính chủ quan của Logos khách
quan và cấu trúc bên ngoài của Logos khách quan chúng giống nhau và
trùng hợp nhau thì việc nhận thức Logos thế giới bên ngoài có thể bằng con
đường tự nhận thức. Tự nhận thức đi từ thế giới nội tâm đến thế giới bên
ngoài. Trên con đường này tâm hồn của con người ngày càng phong phú,
mở rộng hơn, phát triển hơn. “Logos tự phát triển là vốn có ở tâm hồn con
người”. Ngoài con đường tự nhận thức còn một con đường khác nữa. Đó là
khi Logos chủ quan quan hệ với Logos khách quan của thế giới và hít “vào
mình” Logos thần thánh đó và trở nên có lý tính. Cả hai phương thức, con
đường đó không loại trừ lẫn nhau tạo thành sự thống nhất của cái bên trong
và cái bên ngoài.
Hêraclít đã vạch ra mối quan hệ thống nhất, mâu thuẫn giữa Logos với
sự đa dạng của các sự vật, hiện tượng, biện chứng giữa cái đơn nhất với cái
số nhiều nói chung. Hêraclít cho rằng Logos là cái vốn có ở sự vật nhưng
đồng thời về một phương diện nào đó lại nằm ngoài chúng. Ông đưa ra
minh chứng ví dụ đó là: Điều này cũng giống như nghĩa của câu nói nằm ở

19


mỗi từ nhưng không phải ở mỗi từ riêng biệt. Nghĩa của một câu là một cái
toàn vẹn nhưng không tách biệt. Cũng có thể nói như thế về thế giới với tư
cách là vũ trụ, là một chỉnh thể hài hoà và duy nhất.
2.2.5. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong học thuyết về dòng
chảy phổ biến (vận động phổ biến)
Cùng với những tư tưởng của mình về vũ trụ, tính thống nhất của vũ trụ,
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, sự thống nhất giữa Logos
chủ quan và Logos khách quan… Học thuyết về dòng chảy phổ biến đã làm
cho tên tuổi của Hêraclít còn lưu mãi đến sau này. Học thuyết về dòng chảy
của Hêraclít được mọi người biết đến qua câu nói hết sức nổi tiếng của ông:
“không thể lội xuống một con sông hai lần”.
Trước Hêraclít câu nói cửa miệng “mọi thứ đều trôi qua” đã trở thành rất
phổ biến ở thời cổ đại mà không phải là của Hêraclít. Các nhà triết học tự
nhiên trường phái Milê đã nói nhiều đến vận động và biến đổi cho nên học
thuyết về dòng chảy phổ biến của Hêraclít được coi là một điều hiển nhiên.
Dường như tất cả các nhà triết học trước và sau Hêraclít, tất cả mọi người
đều đã nói về vận động và biến đổi. Hêraclít cũng đã cố gắng kiên quyết
nhấn mạnh sự khác biệt giữa học thuyết của mình với học thuyết đa số các
tác giả. Trên quan điểm đấu tranh là phổ biến, đấu tranh là quy luật, đấu
tranh của các mặt đối lập sẽ tạo ra một trật tự mới, hài hoà mới, trật tự hài
hoà mới khi được thiết lập lại bao gồm các mặt đối lập mới đấu tranh với
nhau… và cứ như thế đấu tranh là vĩnh cửu. Ông đi đến khẳng định sự vật,
hiện tượng luôn luôn biến đổi và biến đổi không ngừng. Quan điểm này của
ông được thể hiện bằng một mệnh đề nổi tiếng: “không thể lội xuống cùng
một dòng sông hai lần”. Nhưng chính mệnh đề này của Hêraclít đã gây ra
nhiều tranh cãi đối với toàn bộ học thuyết về dòng chảy phổ biến của ông.
Tư tưởng vận động là phổ biến, mọi sự vật điều biến đổi không ngừng

nghỉ của Hêraclít đã được người học trò của ông là Kratil phát triển theo
hướng tuyệt đối hoá sự vận động, sự biến đổi của sự vật. Kratil chỉ nhìn
20


thấy và nhấn mạnh tuyệt đối một mặt là vận động và biến đổi. Chính vì vậy
Kratil đã nói rằng: “Không cần phải nói không lội xuống một con sông hai
lần” mà phải nói “không thể lội xuống con sông thậm chí là một lần”, tức là
“ chúng ta không thể lội xuống được cùng một con sông”.
Tuy nhiên, ở Hêraclít thì vận động và đứng im về một sự thống nhất của
các mặt đối lập, giống như đấu tranh và hài hoà. Chúng không thể tồn tại
thiếu nhau, chúng tồn tại thông qua nhau. Lại nói về luận điểm của Hêraclít:
“không thể lội xuống một con sông hai lần”, suy ra rằng dòng sông phải
chính là dòng sông do vậy mà chúng ta mới lội xuống nó và đồng thời dòng
sông cũng không phải là nó nên chúng ta không lội xuống nó. Đương nhiên
là dòng sông luôn chảy, chảy là bản chất của tất cả những con sông, song
điều đó không có nghĩa là trong nó không có gì là ổn định, là bất biến, là
xác định. Chính trong sự vận động biến đổi liên tục ấy lại biểu hiện tính ổn
định, bất biến của dòng sông đó là chảy. Nhờ chảy mới là sông, cái biến đổi
biểu hiện cái xác định và vì vậy nên sông mới chảy, cái xác định biểu hiện
cái biến đổi. Đó chính là mối quan hệ giữa vận động và đứng im mà
Hêraclít muốn nói tới. Ở đây Hêraclít cũng đã từng khẳng định rõ ràng:
“Chúng ta lội xuống và không lội xuống cùng một con sông”. Tinh thần của
Hêraclít cần phải được hiểu rõ ràng như vậy.
Từ hình ảnh dòng sông Hêraclít đã so sánh với cuộc sống của con người:
“Chúng ta lội xuống và không lội xuống cùng một con sông, chúng ta tồn tại
và không tồn tại”. Nói cách khác nếu trong ta mọi thứ đều biến đổi và không
có gì là ổn định, bất biến, nếu mỗi lần chúng ta lại là khác thì liệu có thể nói
tới sự tồn tại hiện thực nào là của chúng ta chăng? Cũng như vậy Hêraclít lý
luận “cái chết” của chúng ta sinh ra từ đâu nếu sự sống của chúng ta là bất

biến, ổn định và không chịu sự biến đổi nào?
2.3. Những đóng góp của tư tưởng biện chứng của Hêraclít đối với
lịch sử phát triển của phép biện chứng

21


Có thể nhận xét chung rằng trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử nhân loại
với cách nhìn biện chứng về thế giới thì trên phương diện thế giới quan các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã vượt bỏ những ảnh hưởng của thế giới quan
thần thoại và tôn giáo, đem lại cho loài người một phương pháp tư duy mới
- đó là tư duy triết học. Tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại đã mở đầu cho
sự phát triển những tư tưởng biện chứng phương Tây, những vấn đề được
các nhà triết học Hy Lạp đặt ra là những viên đá tảng tạo tiền đề cho sự phát
triển tư tưởng biện chứng trong triết học sau này.
Các nhà triết học thuộc trường phái Milê và Hêraclít là những người đã
đặt nền móng cho sự phát triển triết học trên lập trường duy vật. Với
phương pháp tư duy độc đáo của mình - với cách nhìn biện chứng mà hình
thức đầu tiên là nhìn nhận thế giới trong sự thống nhất. Các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại đã truy tìm nguồn gốc của thế giới, tính thống nhất của thế giới
từ một dạng vật chất cụ thể. Với Talét đó là nước, Anaxmen là không khí,
Anaxmenđrơ là Apâyrôn…còn đối với Hêraclít đó là lửa, ông quan niệm
rằng: “Thế giới một chỉnh thể bao gồm mọi vật, không phải do bất cứ một
thần thánh hoặc bất cứ một người nào sáng tạo ra, mà đã, đang và sẽ là một
ngọn lửa vĩnh viễn sống, bùng cháy và tắt đi theo những quy luật. Quan
điểm về khởi nguyên vũ trụ của Hêraclít đã được V.I.Lênin đánh giá là:
“Một sự trình bày rất hay những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng”. Tư tưởng biện chứng trên lập trường duy vật về bản thể luận này
càng về sau càng được phát triển trừu tượng hơn trong quan niệm của
Đêmôcrít đó là nguyên tử… rồi đến định nghĩa vật chất của Lênin đã đưa

lập trường duy vật lên đến đỉnh cao của sự hoàn thiện và triệt để.
Hêraclít là người đầu tiên trình bày quy luật thống nhất (hài hoà) và đấu
tranh của các mặt đối lập. Trong đó ông cho rằng thế giới là một chỉnh thể
thống nhất tuyệt đẹp bao gồm các mặt đối lập, hơn thế nữa ông còn khẳng
định được rằng đấu tranh của các mặt đối lập, là quy luật phổ biến của thế
giới, là điều kiện của tồn tại. Nhận thức thế giới là nhận thức quy luật thống
22


nhất (hài hoà) và đấu tranh của các mặt đối lập. Trong “Bút ký triết học”
Lênin đã đánh giá tư tưởng này của ông đã khiến cho nhà triết học lỗi lạc
Hy Lạp cổ đại là Arixtốt phải “nát óc” đấu tranh chống lại.
Trong quan điểm nhận thức, ông đã có những tư tưởng biện chứng cực
kỳ sâu sắc. Khi ông đưa ra quan điểm của mình về một phương pháp nhận
thức: Để nhận biết được cái chung, cái phổ biến khi tìm ra được những biểu
hiện đa dạng của nó trong các sự vật đơn lẻ, so sánh đối chiếu các sự vật
đơn lẻ, cá biệt với cái chung, cái phổ biến. Với quan điểm nhận thức này
Hêraclít đã có cách nhìn đúng đắn đầu tiên về cặp phạm trù cái chung và cái
riêng. Ông cũng là người đưa ra khái niệm Logos chủ quan và Logos khách
quan, theo đó Logos chủ quan của con người có mối quan hệ biện chứng với
Logos khách quan của thế giới. Nhận thức của con người là một quá trình đi
từ Logos chủ quan đến Logos khách quan hay nói cách khác nhận thức là
một quá trình đi từ trực quan cảm tính đến tư duy trí tuệ. Bản chất của nhận
thức thế giới là nhận thức Logos khách quan.
Trong học thuyết về dòng chảy phổ biến Hêraclít cũng đã nêu lên những
tư tưởng biện chứng của mình. Ông đưa ra mệnh đề nổi tiếng: “Không thể
lội xuống một con sông hai lần” để khẳng định: Vận động là vĩnh cửu, biến
đổi là vĩnh cửu, là phổ biến. Tuy nhiên ông cũng khẳng định sự đứng im,
vận động và đứng im là một sự thống nhất mâu thuẫn của các mặt đối lập.
Tư tưởng vận động của ông đã được Ph.Bêcơn kế thừa và phát triển trong

triết học của mình.
Có thể thấy rằng tư tưỏng biện chứng của Hêraclít và triết học của ông
có một vị trí và vai trò nhất định trong nền triết học nói chung và lịch sử
phát triển phép biện chứng nói riêng. Qua thời gian những giá trị trong tư
tưởng biện chứng của ông vẫn còn được khẳng định và ông sẽ còn được mọi
người biết đến nhiều hơn nữa.

23


Bên cạnh những giá trị của tư tưởng biện chứng Hêraclít đối với sự phát
triển lịch sử phép biện chứng thì tư tưỏng biện chứng của Hêraclít còn có
những hạn chế nhất định.
Cũng như các nhà triết học trường phái Milê thì ở Hêraclít sự thống nhất
mới chỉ được quan niệm ở nguồn gốc chung của sự vật mà vẫn chưa thấy
được sự thống nhất giữa các sự vật trong những mối liên hệ cụ thể, hay như
sự vận động cũng chỉ là sự vận động theo một vòng khép kín, vận động
trong quan niệm của ông còn đơn giản, ông chưa đi đến được quan niệm vận
động tạo nên sự đa dạng và phong phú của các sự vật và hiện tượng, vận
động và phát triển của các sự vật hiện tượng theo nấc thang đi lên.
Một điểm hạn chế trong tư tưởng biện chứng của Hêraclít nữa là, hầu hết
trong tư tưởng biện chứng của ông đều được thể hiện qua những câu văn
giàu hình ảnh, những câu châm ngôn nhiều ẩn dụ, đa nghĩa. Điều này tạo
nên sự đa nghĩa, tính không nhất quán trong các tư tưởng, quan điểm, luận
điểm của ông.
KẾT LUẬN
Trong tư tưởng biện chứng của Hêraclít, ông đã có những đóng góp quan
trọng đối với sự phát triển lịch sử phép biện chứng. Ông đã đưa ra tư tưởng
biện chứng trong quan điểm về khởi nguyên của vũ trụ, tính thống nhất của
vũ trụ, đó là lửa. Lửa là khởi nguyên đầu tiên của thế giới, thế giới thống

nhất ở cơ sở của nó là lửa; ông đã đưa ra khái niệm về Logos với tư cách là
sự thống nhất (hài hoà) và đấu tranh của các mặt đối lập, thì Logos được
hiểu là quy luật, là tính tất yếu, là quy luật phổ biến của thế giới; ông đã đưa
ra tư tưởng biện chứng về sự thống nhất giữa Logos khách quan và Logos
chủ quan của con người; ông đã đưa ra tư tưởng biện chứng về học thuyết
dòng chảy phổ biến với mệnh đề nổi tiếng “không lội xuống cùng một con
sông hai lần”.v.v.. Những tư tưỏng biện chứng này của ông đã làm nên sự

24


khác biệt giữa ông so với các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, đã làm cho triết
học và tên tuổi của ông còn lưu mãi đến ngày hôm nay và mai sau.
Mặc dù còn những hạn chế nhất định trong lối văn phong của mình
nhưng phép biện chứng của Hêraclít xứng đáng được giữ vị trí trung tâm
trong triết học Hy Lạp cổ đại. Xung quanh vấn đề phép biện chứng của
Hêraclít còn nhiều quan niệm, nhiều ý kiến đánh giá. Song chúng ta cần có
một đánh giá khách quan, không phiến diện, không gò ép có như vậy mới
nhìn rõ phép biện chứng của Hêraclít và ý nghĩa, vai trò, vị trí của nó trong
lịch sử phát triển phép biện chứng.
Tư tưởng biện chứng của Hêraclít nằm trong hệ thống tư tưởng biện chứng
trong triết học Hy Lạp cổ đại, ý nghĩa và vai trò của nó là đã mở đầu cho
những tư tưởng biện chứng và sự phát triển phép biện chứng sau này.
Những vấn đề được các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đặt ra là những viên đá
tảng trong tiến trình lịch sử hình thành và phát triển phép biện chứng của
nhân loại. Còn nhớ một ý của Lênin đã nói: Con người chỉ tiếp tục công
việc của Hêraclít và Arxitốt đã vạch ra.

25



×