MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay Việt Nam chúng ta đã và đang tiến hành xây dựng đất
nước theo công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước bối
cảnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chủ động hội nhập kinh tế thế giới, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế
trong xu thế toàn cầu hoá, những tác động tích cực rất nhiều, nhưng đã
bộc lộ những mặt trái của nó, trong đó có ảnh hưởng tiêu cực đến tư
tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta, nhất là đối với sinh viên. Việc
xây dựng phong cách sống, văn hóa lành mạnh hiện đang là vấn đề được
quan tâm trong trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ
nghĩa của nước ta hiện nay, chính vì thế việc bàn về lối sống của sinh
viên là một điều quan trọng và hết sức cần thiết… Sinh viên là lớp thanh
niên trí thức, là chủ nhân tương lai của đất nước.
Sinh viên Việt Nam là những lớp người có phẩm chất năng lực và
khả năng tư duy nhạy bén, năng động sáng tạo, nhanh nhạy nắm bắt tiếp
cận nhanh chóng các thông tin mới nhất. Họ là thế hệ tiếp nối truyền
thống cha ông tiếp tục sự nghiệp giáo dục đào tạo của đất nước nói riêng
và tri thức nhân loại nói chung. Các bạn chính là những hạt giống đang
nảy mầm trong một chân trời kiến thức. Họ đang cần định hướng các giá
trị để xây dựng nhân sinh quan mới, từ đó làm cơ sở xây dựng lối sống
mới - đó là nhân sinh quan cách mạng của triết học mácxít. Trong đó
quan điểm rất quan trọng là “Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã
hội”. Hiểu đúng mối quan hệ biện chứng này cho chúng ta thế giới quan,
nhân sinh quan cách mạng để xây dựng những nội dung mới làm chuẩn
mực xây dựng lối sống mới.
Từ những thực tiễn đòi hỏi ở trên, việc xây dựng lối sống mới của
sinh viên là một vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn
1
cấp bách. Đồng thời qua một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu bản thân
mình cũng là một sinh viên, em đã chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp của
mình là : “Biện chứng cá nhân - xã hội trong lối sống của sinh viên hiện
nay” để làm vấn đề nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề xây dựng lối sống mới của sinh viên hiện nay là vấn đề có
nhiều công trình khoa học và có nhiều bài viết quan tâm ở nhiều lĩnh vực
khác nhau, tiêu biểu như các công trình khoa học và các bài viết như:
GS. Phạm Minh Hạc, đề tài kx07 “Con người Việt Nam - mục tiêu
và động lực phát triển kinh tế - Xã hội” Vũ Văn Hạc, “Về sự biến đổi mối
quan hệ giữa cá nhân - xã hội và những suy nghĩ xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí nghiên cứu con người, 2007.
Nguyễn Văn Huyên, “Lối Sống của người Việt Nam dưới tác động của
toàn cầu hoá hiện nay”. Võ Văn Thắng “Một số mâu thuẫn nảy sinh trong
quá trình xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay”. Đoàn Văn Khiêm
“Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên
trong điều kiện hiện nay”. Hồ chí Minh “Về xây dựng con người mới”.
Đoàn Đức Hiếu “Sự phát triển cá nhân trong nển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Hoàng Chí Bảo “Giáo dục đạo đức, nhân cách
cho sinh viên đại học ở nước ta hiện nay - quan niệm, vấn đề và giải
pháp”. Dương Tự Đam “Bản lĩnh thanh niên, sinh viên ngày nay”. Phạm
Đình Nghiệp “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ trong tình hình
mới”. Văn Tùng “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh
niên”. Võ Minh Tuấn “Về xu hướng vận động của đạo đức sinh viên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay”. Võ Văn Hoài “Giáo dục đạo đức Hồ Chí
Minh cho sinh Viên Đại học Huế hiện nay”. Trần Hậu Kiêm và Đoàn
Đức Hiếu “Hệ thống phạm trù đạo đức và vấn đề giáo dục đạo đức cho
sinh viên”…
2
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình, các bài viết có liên
quan, tác giả khoá luận lựa chọn vấn đề “Biện chứng cá nhân - xã hội
trong lối sống của sinh viên hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội theo quan
điểm của triết học Mác - Lênin với tư cách là thế giới quan, nhân sinh
quan cách mạng, là cơ sở lý luận cho lối sống của mỗi sinh viên. Vận
dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội trong xây dựng lối sống mới của sinh viên. Góp vào thực
tiễn những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả xây dựng lối sống
mới của sinh viên hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội. Những chuẩn mực của lối sống mới của sinh viên cần
hướng tới để xây dựng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo quan điểm triết học Mác Lênin. Khóa luận nghiên cứu những chuẩn mực thuộc nội dung xây dựng
lối sống mới chủ yếu ở góc cạnh thể hiện quan hệ giữa cá nhân trong
quan hệ với xã hội, tổng hợp các quan hệ ứng xử của cá nhân trong xã
hội. Thực hiện hành động và hiệu quả xây dựng lối sống mới của sinh
viên hiện nay.
5. Cơ sở lý lận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng lối sống mới cho sinh viên.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài: là phương pháp biện chứng
duy vật với sự vận dụng các nguyên tắc của lôgíc biện chứng như:
3
Nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thực tiễn…
để xem xét giải quyết vấn đề trên cơ sở các tài liệu khoa học và thông tin
mới nhất.
6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần: Làm rõ vai trò thế
giới quan, nhân sinh quan cách mạng đối với việc định hướng hệ giá trị
mới nhằm xây dựng lối sống mới. Là tài liệu tham khảo cho những ai
quan tâm đến vấn đề này. Là những gợi ý đóng góp cho việc giáo dục và
xây dựng lối sống mới cho sinh viên. Nắm được thực trạng và nêu lên
một số giải pháp nhằm góp phần vào việc xây dựng lối sống mới cho sinh
viên đạt hiệu quả hơn nữa.
7. Kết cấu của khoá luận
Khóa luận ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, Khóa luận gồm hai chương (4 tiết).
Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
1.1.
Khái niệm cá nhân và xã hội
1.1.1. Khái niệm cá nhân
Cá nhân và xã hội là một trong những vấn đề quan trọng có quan
hệ đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và là đối tượng của cuộc đấu
tranh giữa hệ tư tưởng Mác - Lênin và hệ tư tưởng tư sản.
- Quan điểm của các nhà tư sản
Các nhà tư tưởng tư sản hình dung xã hội như một tổng số máy
móc những con người riêng lẻ và coi cá nhân là những con người trừu
tượng, tách khỏi những quan hệ xã hội lịch sử - cụ thể vốn có của nó. Do
đó, họ tuyệt đối hoá những nét đặc thù của mỗi cá nhân và phủ nhận tính
giai cấp phổ biến của mỗi con người trong xã hội có giai cấp.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
4
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rằng: Cá nhân là cá thể người với tư
cách là sản phẩm và là chủ thể của sự phát triển lịch sử xã hội. Là chủ thể
lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức, là một con người
hoàn chỉnh trong sự thống nhất giữa những khái niệm riêng của nó của
người đó với chức năng xã hội do người đó thực hiện. Người ta không
bao giờ sống tách rời, cô lập với nhau trong quá trình sản xuất và tiêu
dùng, bao giờ cũng có quan hệ với nhau. Hoạt động của con người trong
xã hội quy định ảnh hưởng lẫn nhau. Chính trong sự tác động lẫn nhau đó
mà con ngưòi hợp thành xã hội.
Cá nhân - một phần tử đơn nhất của cộng đồng xã hội, một hiện
tượng có tính lịch sử
C.Mác viết: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn
có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà tất cả những quan hệ xã hội” [24, 492]. Cá nhân không
phải là cái gì một lần hình thành rồi không biến đổi. Cá nhân là một hiện
tượng có tính lịch sử. Mỗi thời đại sinh ra một kiểu cá nhân với tính đặc
thù của nó.
Con người với những phẩm chất được quy định về mặt xã hội và
được biểu lộ ở mỗi cá nhân: trí tuệ, tình cảm, ý chí. Quan niệm khoa học
về cá nhân dựa vào định nghĩa của chủ nghĩa Mác về bản chất con người
như đã nêu trên. Xuất phát từ đó, người ta rút ra kết luận là các đặc tính
vốn có của cá nhân không thể bẩm sinh, mà suy cho cùng là bởi quy định
bởi chế độ xã hội hình thành trong lịch sử. Mỗi xã hội được xây dựng trên
cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất sẽ cản trở và làm sai lệch sự phát
triển của cá nhân. Việc thủ tiêu chủ nghĩa tư bản mở ra một con đường
phát triển toàn diện, hoàn chỉnh của cá nhân [32, 57].
Cá nhân là sản phẩm của xã hội. Mỗi cá nhân là một cái đơn nhất
mang những đặc điểm riêng biệt với các cá nhân khác không chỉ về mặt
sinh học mà chủ yếu về mặt những quan hệ xã hội, những quan hệ này vô
5
cùng phức tạp, rất cụ thể, có tính lịch sử. Mỗi cá nhân có đời sống riêng,
có những “quan hệ xã hội” của riêng mình không hoàn toàn giống quan
hệ xã hội của các cá nhân khác, các quan hệ xã hội là tấm gương soi cho
mỗi cá nhân. Tuy nhiên các cá nhân trong một xã hội nhất định dù khác
nhau đến đâu, đều mang cái chung; họ đều là thành viên của xã hội,
không thể sống ngoài xã hội. Không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là
chủ thể của sự phát triển xã hội, của hoạt động xã hội khác. Các cá nhân
chủ động lựa chọn sự tác động của xã hội đối với bản thân mình. Với tư
cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng lẻ mà với
tư cách là một bộ phận của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc,
nhân dân).
- Biểu hiện của cá nhân
Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã
hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau: Thứ nhất: Cá nhân là phương
thức tồn tại của giống loài “người”. Thứ hai: Cá nhân là cá thể người
riêng rẽ, là phần tử đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội. Thứ ba: Cá nhân
là là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách. Thứ tư: Cá nhân được hình
thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội.
- Nhân cách - bản sắc độc đáo của con người thể hiện ở mỗi cá
nhân
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể
với giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá
nhân khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố
bên trong riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này
với cá nhân khác. Cá nhân khác với xã hội bởi tính hiện thực cụ thể của
nó, còn mỗi cá nhân khác nhau bởi nhân cách của mình.
Như vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang tính cá biệt,
vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội
và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và thực hiện chức
6
năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội.
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một
chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp
lại, khác biệt với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
1.1.2. Khái niệm xã hội
Khái niệm xã hội được xác định trên bình diện rộng hẹp khác nhau.
Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó cộng đồng tập thể gia đình, cơ quan,
đơn vị… và lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc gia, dân tộc… và rộng lớn
nhất là cộng đồng nhân loại. Theo nghĩa rộng, khái niệm xã hội không chỉ
dành riêng cho con người mà còn cho mọi tổ chức của sinh vật có tương
quan lệ thuộc lẫn nhau. Nói một cách cụ thể, xã hội là tập hợp những sinh
vật có tổ chức, có phân công lao động tồn tại qua thời gian, sống trên một
lãnh thổ hay một cộng đồng nhất định, cùng nhau chia sẻ những mục đích
và lợi ích chung, cùng nhau thực hiện những nhu cầu chủ yếu của đời
sống.
Chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm xã hội và khái
niệm dân cư. Khái niệm dân cư không hàm ý một tổ chức xã hội, trong
khi khái niệm xã hội nhấn mạnh những mối quan hệ hỗ tương giữa các
thành viên trong xã hội. Đồng thời xã hội cũng không đồng nghĩa với
quốc gia, mặc dù trong xã hội hiện đại, khái niệm xã hội dùng để chỉ một
quốc gia, một nhà nước. Xã hội con người cũng khác hẳn xã hội loài vật.
Bởi lẽ con người là động vật có tư duy, có văn hoá và biết tổ chức xã hội.
Con người có khả năng thay đổi hình thức và chức năng xã hội để thích
ứng với hoàn cảnh.
Xã hội là một tập thể hay một nhóm những người được phân biệt
với các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ
cùng một thể và có cùng văn hoá. Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân tạo
nên. Những cá nhân này sống và hoạt động trong các nhóm, cộng đồng và
7
tập đoàn xã hội khác nhau, do điều kiện lịch sử cụ thể quy định. Mỗi con
người đều tồn tại trong mối quan hệ lệ thuộc, tác động lẫn nhau và sự tác
động này không chỉ mang tính cá nhân mà còn mang tính cộng đồng.
Cộng đồng xã hội là một bộ phận người có chung một số dấu hiệu,
nguyên tắc.
- Các cấp độ tổ chức xã hội
+ Nhóm xã hội: Nhóm xã hội là khái niệm rất rộng, đi từ gia đình
đến giai cấp, giới tính, lứa tuổi… tức là nhóm từ hai người đến hàng ngàn
người. Mỗi cá nhân có ý thức về sự gắn bó của họ với nhóm thể hiện qua
việc tiếp nhận đặc trưng như lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực giá trị…
+ Tổ chức xã hội: Theo nghĩa rộng, tổ chức xã hội chỉ bất kỳ tổ
chức nào hiện tồn trong xã hội. Còn nghĩa hẹp, tổ chức xã hội chính là
một tiểu hệ thống xã hội trong một tổ chức xã hội nào đó. Tổ chức xã hội
là một hiện tượng xã hội phổ biến. Tóm lại, tổ chức xã hội rất đa dạng và
phong phú, chúng thường thay đổi cùng với những thay đổi khách quan
của hoàn cảnh xã hội và những thay đổi chủ quan của con người.
- Cơ cấu xã hội
Khái niệm cơ cấu xã hội phản ánh đến sự xếp đặt những yếu tố,
những thành phần, những đơn vị trong mối quan hệ xã hội. Những thành
phần, những yếu tố, những đơn vị đó được đặt ra trong mối quan hệ
tương quan theo một trật tự và lệ thuộc nhau. Cơ cấu xã hội là tất cả
những cộng đồng người và toàn bộ các quan hệ xã hội do sự tác động lẫn
nhau của các cộng đồng ấy tạo nên.
Như vậy, xã hội là một kiểu, một hệ thống xã hội cụ thể trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa
người với người trong mối quan hệ biện chứng theo một tổ chức nhất
định.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội
8
Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và
tập thể cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng xã hội nói
chung chính là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã
hội. Mỗi cá nhân với tư cách là một con người, không bao giờ có thể tách
rời khỏi những cộng đồng xã hội nhất định, đồng thời mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội là hiện tượng có tính lịch sử.
Là một hiện tượng có tính lịch sử, quan hệ cá nhân - xã hội luôn
luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ
diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội. Trong bất cứ xã hội
nào, cá nhân cũng không tách rời xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa cá
nhân và xã hội khác nhau trong những thời kỳ khác nhau. C.Mác viết:
“Bản thân xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì nó cũng sản xuất
ra xã hội như thế” [22, 130].
Trong xã hội nguyên thuỷ, vì công cụ lao động còn thô sơ, muốn
sinh tồn, con người phải tiến hành lao động tập thể trên cơ sở chế độ sở
hữu tập thể cộng đồng nguyên thuỷ. Ở đây, mọi thành viên trong xã hội
đều hoàn toàn bình đẳng. Mặt khác, do mỗi người chưa chế tạo được
công cụ riêng, phân công lao động chưa phát triển nên chưa có cơ sở để
phân biệt giữa người này với người khác. Vì vậy, cá nhân đã hoà vào tập
thể. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội không có đối kháng. Đến khi xã hội
phát triển sang giai đoạn mới cao hơn, xã hội phân chia thành các giai cấp
đối kháng, xuất hiện hình thái mới trong quan hệ cá nhân - xã hội. Đó là
xã hội chiếm hữu nô lệ, những người nô lệ bị coi là những “công cụ biết
nói” của bọn địa chủ quý tộc. Giữa cá nhân và xã hội vừa có tính thống
nhất vừa có mâu thuẫn sâu sắc. Trong xã hội phong kiến, những người
nông nô bị coi là những kẻ “tôi đòi” của bọn địa chủ quý tộc.Đến xã hội
tư bản thì giai cấp tư sản luôn luôn nêu lên vấn đề cá nhân, cá tính, tự do
cá nhân… cho tất cả mọi người, coi quyền tự do cá nhân là quyền “thiêng
liêng bất khả xâm phạm” để lừa bịp quần chúng lao động. Nhưng thực
9
chất đó chỉ là tự do cá nhân của giai cấp tư sản, còn giai cấp công nhân,
quần chúng lao động thực ra chỉ có một quyền tự do duy nhất là tự do bán
sức lao động, biến thành những kẻ nô lệ làm thuê cho nhà tư bản.
Chỉ dưới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, những điều kiện
“cần” và “đủ” để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
mới xuất hiện và phát huy tác dụng. Chủ nghĩa xã hội không cho phép
tách rời lợi ích cá nhân trên lợi ích xã hội. Nhưng chúng ta cũng phê phán
quan niệm sai lầm cho rằng dưới chủ nghĩa xã hội, chỉ cần nói đến xã hội
mà không nói đến cá nhân; hoặc những luận điệu xuyên tạc của các nhà
tư tưởng tư sản cho rằng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản thủ tiêu
quyền lợi của cá nhân và nhân cách cá nhân. Trái lại, chỉ có dưới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, mới có điều kiện để bảo đảm chăm
sóc và phát triển những nhu cầu và năng lực rất phong phú, đa dạng của
mỗi cá nhân. Sự phát triển của cá nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với sự
phát triển của xã hội, ngược lại, theo lời của C.Mác và Ph.Ăngghen
“Thay cho xã hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của
nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[25, 111].
Để xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta rất
quan tâm đến vấn đề quan hệ giữa cá nhân và xã hội, coi đó là một nội
dung quan trọng, bởi vì mục tiêu cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta
là đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho cả cộng đồng và mỗi thành viên
của cộng đồng với tư cách cá nhân. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
động viên toàn thể cộng đồng phấn đấu vì lợi ích chung, đồng thời quan
tâm thích đáng những lợi ích cá nhân chân chính. Trong mỗi bước đi của
cách mạng, chỉ có kết hợp hài hoà lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mới
phát huy được tính tích cực sáng tạo của mỗi cá nhân. Do đó, quan hệ
giữa cá nhân và xã hội đã hoàn toàn thay đổi, đó là mối quan hệ gắn bó
10
giữa những người làm chủ tập thể xã hội mà lợi ích cơ bản của cá nhân và
tập thể thống nhất với nhau.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng tác động nhau, trong đó xã hội
giữ vai trò quyết định, mà nền tảng của mối quan hệ này là quan hệ lợi
ích. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân
được thực hiện. Mỗi cá nhân được tiếp nhận ngày càng nhiều những giá
trị vật chất, tinh thần. Mặt khác, mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển
thì càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Vì vậy, thỏa mãn ngày
càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và
động lực liên kết nọi thành viên xã hội và là mục đích của sự liên kết đó,
thúc đẩy sự phát triển xã hội. Để giải quyết đúng dắn mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội cần phải tránh hai thái độ cực đoan: Một là, chỉ thấy cá
nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội. Hai là, chỉ
thấy xã hội mà không thấy cá nhân.
Chương 2
VẬN DỤNG BIỆN CHỨNG GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI TRONG
XÂY DỰNG LỐI SỐNG MỚI CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay trên cơ sở
nguyên tắc biện chứng giữa cá nhân và xã hội
2.1.1. Thực trạng lối sống sinh viên hiện nay
Trong xã hội năng động hiện nay, có thể nhận thấy rằng tầng lớp sinh
viên là tầng lớp đại diện cho bộ mặt xã hội bởi đó là tầng lớp năng động,
nhiệt huyết và có nhiều cơ hội tiếp cận nhiều tri thức tiên tiến khoa học.
Bên cạnh đó sinh viên là nguồn nhân lực nòng cốt tương lai của đất nước,
do đó lối sống của sinh viên cần phải được quan tâm... Lối sống của sinh
viên Việt Nam nhìn chung cực kỳ đa dạng và phong phú. Tuy nhiên
11
chúng ta có thể phân chia lối sống của sinh viên theo hai hướng: tích cực
và tiêu cực.
- Lối sống sinh viên với những biểu hiện tích cực
Thứ nhất, điểm nổi bật khi chúng ta nghĩ về sinh viên đó là những
con người năng động và sáng tạo. Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý tưởng
độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các cơ hội đó thành
hiện thực. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh sáng chế,
được biến thành sản phẩm hữu ích trong thực tiễn. Sinh viên còn tiếp thu
những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật:
tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện, đạp xe vì môi trường,
ủng hộ và vận động tất cả mọi người ủng hộ cho đồng bào gặp lũ lụt, giúp
đỡ trẻ em mồ côi, những người khuyết tật,… Thứ hai, chính vì năng động
và sáng tạo nên sinh viên Việt Nam luôn thể hiện mình là những con
người táo bạo và tự tin. Sinh viên dám nghĩ, dám làm, dám đối mặt với
thử thách. Tự tin nhưng không kiêu. Táo bạo song sinh viên không hề
liều lĩnh.. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, họ dám nhìn thẳng vào
thất bại và vượt qua nó. Thứ ba, phong cách tự lập trong cuộc sống cũng
như trong học tập cũng góp phần xây dựng một hình tượng đẹp về sinh
viên Việt Nam, một bộ phận sinh viên ngày nay đã biết thân tự lập không
còn trông chờ ỷ lại vào gia đình. Không chỉ riêng việc học tập, mà mọi
vấn đề khác trong cuộc sống đều được sinh viên giải quyết trong sự chủ
động. Thứ tư, sinh viên Việt Nam còn được thừa hưởng một truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, đó là truyền thống hiếu học. Sinh viên Việt Nam mọi
thời đại luôn khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri thức. Thủa xưa học
trò nghèo không có tiền mời thầy dạy, đứng ngoài lớp học nghe trộm lời
thầy giảng bên trong, đều vì lòng ham học, ham kiến thức. Ngày nay tuy
điều kiện học đã tốt hơn cha ông nhưng có những người dù bị tật nguyền
vẫn đi học như bao bạn bè cùng trang lứa khác, họ tàn mà không phế
không những vậy mà còn trở thành những sinh viên giỏi. Có những người
12
dù gia đình gặp nhiều khó khăn, bất hạnh, không được học hành đến nơi
đến chốn vẫn mang trong mình khát vọng được chiếm lĩnh tri thức nhân
loại; và khi có cơ hội họ lại đi học trở lại, với niềm hạnh phúc lớn lao.
Thứ năm, siêng năng cần cù, chịu thương, chịu khó của sinh viên Việt
Nam cũng là một đức tính cần được nói đến. Nhiều sinh viên sinh ra ở
những miền đất còn nghèo khó của đất nước nhưng họ biết khắc phục
những khó khăn ấy để học tốt. Còn phải kể đến những sinh viên Việt
Nam đi du học ở nước ngoài. Bạn bè quốc tế luôn nói về đức tính siêng
năng cần cù của sinh viên Việt Nam với sự khen ngợi và khâm phục chân
thành.
Thêm vào đó, một biểu hiện tích cực nữa trong lối sống của sinh viên
Việt Nam là phong cách tự khẳng định mình. Không chỉ sinh viên mà
giới trẻ ngày nay nói chung đều thích tự khẳng định mình. Họ đã chứng
minh cho chúng ta thấy được sức mạnh, vai trò to lớn của họ trong công
cuộc xây dựng đất nước và phát triển xã hội.
Đây là những đức tính mà mỗi sinh viên Việt Nam cần phải có được
và phát huy hết mình trong thời đại hội nhập quốc tế, hội nhập tri thức
như hiện nay. Như vậy, ta có thể nói lối sống của sinh viên Việt Nam
hiện nay có rất nhiều biểu hiện tích cực. Nhìn chung, những biểu hiện ấy
khá rõ rệt trong đa số sinh viên, và đáng được ngợi khen.
Nguyên nhân của những biểu hiện tích cực trong lối sống của sinh
viên hiện nay là do những yếu tố sau:
- Thông qua việc hội nhập kinh tế, giao lưu văn hoá, khoa học, công
nghệ,v.v.. Có thể nói đây là điều kiện thuận lợi cho việc làm phong phú
và hiện đại hoá tư duy, lối thao tác, lối sống của sinh viên Việt Nam hiện
nay. Do Việt Nam có truyền thống từ xưa tới nay là siêng năng, cần cù,
ham học hỏi và ham hiểu biết, bởi vậy những giá trị tích cực ấy đã ăn sâu
vào bản chất của người Việt. Nhà trường cùng với các tổ chức đoàn thể
như Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên đã chú trọng đến công tác giáo dục
13
chính trị tư tưởng, phẩm chất, lối sống, hoài bão cho sinh viên. Các tổ
chức như Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên đã thực hiện tốt chức năng của
mình trong việc tập hợp sinh viên tham gia các hoạt động nhằm rèn luyện
nhân cách và năng lực toàn diện cho sinh viên. Ngoài ra, ở bản thân mỗi
sinh viên là những người có trình độ, có tri thức khoa học, có năng lực
nhận thức nhanh nhạy, tiếp thu những cái mới cái tích cực tốt, có hiểu
biết, tri thức khoa học đúng đắn sẽ giúp cho sinh viên có được sự tự tin ở
chính mình.
- Lối sống sinh viên với những biểu hiện tiêu cực
Thứ nhất, tư tưởng là vấn đề đầu tiên và cũng là vấn đề lớn nhất cần
bàn đến. Tư tưởng của một bộ phận sinh viên còn lệch lạc.. Nhiều sinh
viên đã đánh mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, lối sống thực
dụng trong sinh viên. Nhiều thanh niên lấy đồng tiền là thước đo giá trị
trong cuộc sống, sống không có lý tưởng hoặc lý tưởng chính là những
yếu tố thực dụng như tiền bạc, danh vọng và địa vị. Coi trọng giá trị vật
chất, xem thường giá trị tinh thần, ít nghĩ tới lợi ích chung nên họ quên đi
những tình cảm thiêng liêng xung quanh mình, quên đi những mối quan
hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Thứ ba, chủ nghĩa cá nhân có xu hướng
tăng trong giới trẻ ngày nay. Trào lưu dân chủ hóa, làn sóng công nghệ
thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ,
đặc biệt rõ trong những người trẻ có học vấn là sinh viên. Họ tự ý thức
cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân mà quên đi lợi ích
tập thể. Thứ tư, sinh viên - một lối sống tha hóa, dễ dãi không coi trọng
giá trị đạo đức truyền thống, phong tục tập quán. Có nhiều sinh viên với
lối sống quá dễ dãi, chạy theo trào lưu (ví dụ như “sống thử”). Thứ năm,
lối chơi thời thượng. Sùng bái hàng ngoại trở thành một cách nghĩ, cách
sống của một bộ phận sinh viên, tạo ra một lối sống xa lạ với truyền
thống dân tộc. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới những tệ nạn
xã hội; ma tuý, trộm cắp, bài bạc, ăn chơi trác táng… Thứ sáu, lối sống
14
lạnh lùng, kiểu tiền trao cháo múc của xã hội tư sản tràn vào xã hội ta dần
đến tư tưởng xem thường thuần phong mỹ tục. Lối ăn chơi sa đoạ, lười
lao động, lười học tập. Chỉ biết hưởng thụ và sống phụ thuộc vào người
khác. Thứ bảy, lối sống kiểu chạy theo “mốt”, có nhiều sinh viên phung
phí tiền bạc chỉ vì thích thay đổi “mốt” cho hợp thời trang, cho bằng bạn
bằng bè, biểu hiện lối sống không lành mạnh, không còn phù hợp với lối
sống truyền thống của dân tộc ta.
Thêm vào đó, một số bộ phận có lối sống không đẹp cần đáng lên án.
Lối sống không đẹp thể hiện ngay từ những điều chúng ta tưởng như là
những điều nhỏ nhặt nhất như: xả rác ra đường, không nhường chỗ cho
người già và phụ nữ mang thai khi trên xe buýt, thờ ơ trước những số
phận kém may mắn…Cờ bạc, lô đề, cá độ tỷ số bóng đá sinh viên uống
rượu không phải là hiện tượng mới lạ gì trong giới sinh viên. đã trở thành
chuyện thường ngày đối với nhiều người. Qua đây ta có đưa ra lời nhắc
nhở đối với những ai đang có quan điểm sai lầm “Hãy sống lại, sống theo
một cách đúng nghĩa của nó, đừng để mọi chuyện đi qua rồi ngoảnh đầu
tiếc nuối”. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những lối sống khác nhau
của sinh viên. Sau đây là một số nguyên nhân dẫn đến lối sống tiêu cực
của sinh viên Việt Nam:
- Nguyên nhân khách quan:
+ Nguyên nhân từ gia đình: Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong xã
hội ngày nay khá lỏng lẻo do cha mẹ không có nhiều thời gian quan tâm
chăm sóc con cái. Nhiều cha mẹ bận lo công việc, các bạn không được
trang bị những kỹ năng tối thiểu cũng như cách ứng xử trong cuộc sống.
+ Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài tác động đến sinh viên: Phần
đông sinh viên phải đi học xa nhà, không có ai quản, thiếu sự quan tâm,
chăm sóc của bố mẹ. Bước vào một môi trường mới có nhiều cám dỗ
không lường trước được, dễ sa ngã, học đòi bạn bè xấu. Một số sinh ra
15
cách sống đơn độc, nhút nhát, khó gần; số khác sẽ tụ tập với những người
có cùng hoàn cảnh, tâm trạng với mình
+ Nguyên nhân từ nhà trường: Việc giáo dục đạo đức trong nhà
trường thường chú trọng tới đề cao việc trang bị kiến thức, nề nếp kỷ
cương với nội quy, không chú ý đến hành vi ứng xử thực tế. Lối sống tha
hóa đạo đức của một bộ phận không nhỏ của giới trẻ trong xã hội ta có
một nguyên nhân cần nhấn mạnh là do ảnh hưởng của những gì đang diễn
ra trong cuộc sống hiện nay.
+ Nguyên nhân từ xã hội: Đây là nguyên nhân chúng ta khó có thể
kiểm soát và điều chỉnh nhất. Lối sống tha hóa đạo đức đó là do ảnh
hưởng của cuộc sống hiện đại. Có người đã nói: cuộc sống càng hiện đại
bao nhiêu thì giới trẻ ngày càng hư hỏng bấy nhiêu. Và cuộc sống càng
văn minh hiện đại bao nhiêu thì hình như con người càng làm nô lệ cho
nhiều thứ chán nản, thất vọng. Khi đó họ tìm đến rượu bia, xì ke, ma túy,
thuốc lắc, ăn chơi trác táng.
- Nguyên nhân chủ quan (từ phía bản thân):
Do lối sống thiếu ý thức, sống buông thả, đua đòi; đặc biệt là các bạn
lạm dụng tự do để làm những chuyện phi đạo đức. Và các bạn đã hiểu sai
cái tự do đó, tự do không phải làm những gì mình thích, tự do phải là một
giá trị để đảm bảo hạnh phúc của mình và người khác. Cũng có nhiều
sinh viên có ý nghĩ thi đỗ đại học bước sang một trang mới không cần
phải phấn đấu nữa, mà phải ăn chơi cho thỏa những ngày học tập vất vả
nên sa đà vào những trò vui không rút chân ra được.
2.1.2. Thực chất của quan hệ lợi ích giữa cá nhân - xã hội trong
lối sống của sinh viên hiện nay
- Quan hệ lợi ích cá nhân sinh viên với nhau
Bước vào một bước ngoặt mới của cuộc đời mỗi sinh viên, đó là môi
trường mới hoàn toàn,và rất lạ lẫm; đầy khó khăn, và cũng vô cùng thích
thú. Bởi họ sẽ được tiếp xúc với một vùng đất khác biệt về cả lối sống và
16
nền văn hoá của vùng đất mà mình đã sinh ra, được gặp gỡ với bao nhiêu
bạn bè, thầy cô mới với những giọng nói đặc trưng từng vùng khác nhau
của đất nước ta..
Tuy nhiên, sinh viên có những cách phân nhóm để chơi thật là phong
phú. Sau một thời gian ngắn tìm hiểu bằng cách hỏi thăm quê quán ở đâu
các sinh viên hầu hết đều có xu hướng cùng tỉnh nhà sẽ chơi với nhau.
Dường như như vậy các bạn mới có thể vơi đi cái tâm trạng trống vắng
khi sống cảnh xa nhà. Có nhiều nhóm thân nhau chỉ đơn giản bắt đầu từ
hai chữ “ngẫu nhiên”. Ngẫu nhiên ngồi cạnh nhau khi học chính trị đầu
năm, cùng làm thuyết trình, tập văn nghệ... Chỉ như vậy thôi mà tình bạn
trong sáng bắt đầu. Càng chơi chung họ tìm thầy ở nhau sự chân thành,
sự đùm bọc và quan tâm. Chơi cùng nhau các bạn sẽ biết thêm những
điều thú vị về những phong tục tập quán, những thói quen vùng này có
mà vùng kia không có. Điều đó thật sự có ích cho chúng ta. Trong một bộ
phận sinh viên có những đôi bạn đã chuyển từ tình bạn thành tình yêu. Do
nam nữ chơi với nhau trong một thời gian dài họ cảm thấy quý mến nhau
và dẫn đến tình yêu lúc nào không hay.
Xa gia đình, vừa mới nhập học, nên các sinh viên thường hay suy
nghĩ về các mối quan hệ mới, nhất là “tình bạn”. Tình bạn là tình cảm mà
bất cứ ai cũng cần có, bởi con người sinh ra và lớn lên trong tổng hòa các
mối quan hệ gia đình, bạn bè, xã hội… Mối quan hệ lợi ích giữa những
sinh viên với nhau cũng nằm trong các mối quan hệ cần thiết và quan
trọng đối với mỗi sinh viên. Tuy nhiên, có nhiều suy nghĩ và quan điểm
trái chiều của sinh viên thời nay về tình bạn.
+ Tình bạn dựa trên công việc
Bước chân vào môi trường đại học, cao đẳng tức là mỗi bạn sinh viên
đang dần trưởng thành trong cách sống, cách chia sẻ và làm việc theo một
trình độ nhất định. Môi trường ấy quy định tính cách, lối sống và quan
điểm của mỗi bạn. Đặc biệt, sinh viên không thể tách biệt các mối quan
17
hệ bạn bè, bởi trong môi trường đại học, cao đẳng không cho phép bạn
sống đơn độc, bạn sẽ không tránh được những buổi họp nhóm, thảo luận,
thuyết trình hay giao lưu bạn bè ở các khoa...
Mối quan hệ lợi ích giữa sinh viên với nhau được thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác nhau: Đối với bậc đàn anh, đàn chị của những khoá trước
thì các bạn ấy tìm thấy các anh, các chị những phương pháp, kinh nghiệm
trong cuộc sống cũng như trong học tập. Đây cũng là một trong những
phương pháp giúp các bạn gặt hái thành công trong cuộc sống và học tập
nếu chúng ta biết mở rộng mối quan hệ này hơn nữa. Đối với những sinh
viên cũng khoá, cùng lớp. Các bạn có chung nhiều điểm như: điểm xuất
phát ngang nhau, mức độ khó dễ của chương trình học đều được lĩnh hội
như nhau, do vậy họ sẽ rất dễ tiếp xúc, gần gũi, chia sẻ, dễ thông cảm với
nhau hơn. Tuy nhiên, mỗi người tìm cho mình những phương pháp khác
nhau để đi đến đích. Vì vậy, các bạn sẽ có một môi trường học tập đa
dạng và phong phú, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Tuy nhiên chúng ta
cũng cần biết chọn lọc những điểm tích cực và loại bỏ những tiêu cực để
tự hoàn thiện bản thân mình, rút ngắn con đường đi đến thành công một
cách nhanh nhất.
Sinh viên quan niệm rất khác nhau về mối quan hệ này. Có người thì
cho rằng đây là cơ sở, nền tảng cho họ tìm thấy niềm vui trong cuộc sống
và học tập, nhưng cũng có bạn cho rằng quan hệ này không quan trọng
bởi họ không có ảnh hưởng gì đến hiện tại và tương lai của mình nên cho
rằng chỉ dừng lại ở mức độ xã giao. Có nhiều bạn sinh viên cho rằng
“sinh viên là phải kết bạn rộng rãi” bởi nó rất có ích cho việc học tập hay
các hoạt động ở trường học. Để học tốt, mỗi sinh viên cần tìm cho mình
những người bạn cùng gu để cùng chơi, cùng học. Có những vấn đề ở đại
học cần thảo luận, làm việc theo nhóm.
- Quan hệ lợi ích cá nhân sinh viên với tập thể : lớp, trường,…
18
Quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau, được xem xét ở trên hai
chiều: vai trò tác động của tập thể, lớp, trường đối với lối sống mỗi cá
nhân sinh viên và sự tác động trở lại của sinh viên đối với nhà trường với
tập thể lớp:
Môi trường đại học, cao đẳng đem lại cho sinh viên một môi trường
học tập lý tưởng, được tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy hết năng
lực của mình cũng như được hỗ trợ tốt nhất về mặt cơ sở vật chất và được
đầu tư về trang thiết bị học tập, nghiên cứu. Hơn nữa sự tương tác với
sinh viên các trường thông qua các chương trình trao đổi, giao lưu văn
hóa và hội thảo, diễn đàn quốc tế tại trường đã đem lại nhiều kiến thức
mới và trải nghiệm thú vị. Chính môi trường học tập tích cực và thân
thiện đã nuôi dưỡng một niềm đam mê và nhiệt huyết tuổi trẻ, mở đường
cho những thành công phía trước. Các hoạt động đoàn thể, tình nguyện và
sinh hoạt các câu lạc bộ, tình nguyện thực sự là một phần không thể thiếu
của cuộc sống sinh viên bên cạnh những giờ học căng thẳng trên lớp, sinh
viên học hỏi được nhiều điều từ bạn bè và cuộc sống, thấy mình trưởng
thành hơn từng ngày, vững vàng và bản lĩnh hơn trên con đường còn
nhiều khó khăn phía trước.
Sinh viên cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới tập thể và trường
học. Mỗi một khoá học sinh viên ra trường và tiếp tục có những thế hệ
mới bước vào. Các thế hệ sinh viên đều là những con người trẻ tuổi, đầy
nhiệt huyết, năng động và sáng tạo. Cũng chính họ là những người nảy
sinh những ý tưởng mới mẻ được mọi người công nhận. Các bạn sinh
viên còn tạo ra những hoạt động vui chơi hết sức mới mẻ và bổ ích cho
tất cả mọi người.
Để nâng cao mối quan hệ này tốt đẹp hơn thì cần phải có sự kết hợp
đồng bộ giữa nhà trường, tập thể và cá nhân mỗi sinh viên. Đối với nhà
trường: Phối hợp với chính quyền và các tổ chức, đoàn thể ở địa phương
trong công tác giáo dục sinh viên nhằm tạo môi trường giáo dục lành
19
mạnh; giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, pháp luật, kỹ năng
cho sinh viên. Đối với sinh viên cần phải có ý thức trách nhiệm đối
trường, lớp nơi mà mình đang học tập: Là những sinh viên cấu thành nên
một tập thể, thì các bạn phải sống vì tập thể, học tập và sinh hoạt phấn
đấu để xây dựng ngôi trường của các bạn trở thành một môi trường học
tập lành mạnh.
- Quan hệ lợi ích cá nhân sinh viên - xã hội
+ Sự tác động của xã hội hiện nay đối với sinh viên:
Mỗi sinh viên ngoài những mối quan hệ cơ bản như với bạn bè,
trường lớp, thầy cô, gia đình, thì bên cạnh đó còn có mối quan hệ với xã
hội. Sinh viên là những người thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh
chóng của xã hội hiện đại, nên sự phát triển với tốc độ ngày cao của xã
hội với xu hướng toàn cầu hoá hiện nay đã tác động không nhỏ tới đối
tượng này. Nhìn chung, sự tác động này mang tính hai mặt: tích cực và
tiêu cực.
Một trong những tác động tích cực nổi bật nhất là đề cao tính cá nhân,
là việc soi chiếu các giá trị đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá
nhân. Với đặc điểm cơ bản là trẻ, có tri thức và dễ tiếp thu cái mới, lại
được trang bị ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông
tin hiện đại và việc mở rộng, đa dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế sinh
viên ngày nay đã hoà kịp vào dòng chảy mới trong quá trình hội nhập.
Điều đó tạo ra sự xích lại gần nhau các giá trị đạo đức trong một tinh thần
cảm thông và cởi mở.
Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện thực dụng trong quan niệm
đạo đức và hành vi ứng xử ở một bộ phận không nhỏ sinh viên hôm nay.
Trào lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân
trí đã làm ý thức cá nhân được tăng lên, đặc biệt là sinh viên, tuy nhiên
cái cá nhân nhiều khi lấn át cái cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân quan
trọng hơn tất cả. Đang hình thành một thái độ bàng quan đối với những
20
người xung quanh, hình thành tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, chịu
tác động của tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, trong nhiều sinh viên, xuất hiện
thái độ đòi hỏi hơn là sự hy sinh, ước muốn hưởng thụ nhiều hơn đóng
góp, ít chú ý đến nghĩa vụ và trách nhiệm công dân...
Như vậy, sinh viên Việt Nam là một trong những đối tượng chịu ảnh
hưởng khá mạnh của xu thế toàn cầu hóa. Vì vậy, việc phát huy tính tích
cực và điều chỉnh những hành vi lệch lạc trong ý thức đạo đức của sinh
viên, có tác dụng vô cùng to lớn trong việc phát triển và sử dụng nguồn
lực quý này.
+ Sự tác động trở lại của sinh viên đối với xã hội:
Một bộ phận sinh viên ngay tư khi bước vào cổng trường đại học họ
đã thích nghi nhanh chóng với môi trường học tập và ở nơi cư trú. Họ
mạnh dạn tham gia các hoạt động mang tính xã hội như tình nguyện mùa
hè xanh, đạp xe ngày vì môi trường, hiến máu nhân đạo, giúp đỡ trẻ em
mồ côi tật nguyền, người già không nơi nương tựa… Chính những hoạt
động xã hội ấy đã giúp mỗi sinh viên thể hiện năng lực và phát huy khả
năng vốn có của bản thân, giúp sinh viên tự tin hơn trong cuộc sống, sinh
viên có cơ hội học hỏi giao lưu với tất cả mọi người, hình thành những kỹ
năng và kinh nghiệm sống cho bản thân. Giúp họ ý thức được trách
nhiệm và nghĩa vụ đối với xã hội. Một số khác sống không động chạm
đến ai, nhưng cũng không quan tâm đến ai họ thu mình lại như những con
ốc, sống khép kín. Họ ít trò chuyện, đi chơi cùng bạn bè. Chỉ cần biết đến
mình, còn người khác thì mặc kể kiểu “đèn nhà ai nấy rạng”. Dường như
có sự đề cao lợi ích cá nhân hơn nghĩa vụ cá nhân.
Như vậy kết hợp hài hoà các lợi ích trong các mối quan hệ: giữa cá
nhân sinh viên với nhau; giữa cá nhân sinh viên với tập thể, trường, lớp;
giữa cá nhân sinh viên với xã hội sẽ là động lực cho sinh viên sống tốt
hơn.
21
2.2. Một số kiến nghị về giải pháp nhằm xây dựng lối sống mới
cho sinh viên hiện nay
- Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong sinh viên,
trang bị thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh cho sinh viên.
Thông qua việc tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị đầu khóa, nhằm
nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết xã hội của sinh viên; giúp họ tin
tưởng vào con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; tránh được âm mưu lôi
kéo của kẻ thù; hình thành nhân cách, hoài bão tốt đẹp. Việc học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp cho
sinh viên nắm vững những quan điểm khoa học, cách mạng, nhân văn,
hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan
cách mạng. Cần phải nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học bộ môn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
Gắn việc nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh với thực tiễn đổi mới đất nước, với quá trình tự giáo dục, tu dưỡng,
rèn luyện để từng bước hoàn thiện mình. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về
Đảng và Bác Hồ. Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống các loại hình
tổ chức giáo dục truyền thống cho sinh viên phải đa dạng, phù hợp với
tâm lý tuổi trẻ. Đẩy mạnh các hoạt động hướng về cội nguồn bằng hình
thức cho sinh viên tham quan các di tích lịch sử, nhà bảo tàng, đặc biệt là
những địa danh gắn liền với quá trình hoạt động cứu nước của Hồ Chí
Minh.
- Giáo dục lối sống văn hóa, cho sinh viên thông qua việc giáo dục lý
tưởng, đạo đức cách mạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần phong
phú lành mạnh.
Trước hết, phải bài trừ các tệ nạn xã hội, làm trong sạch học đường.
Tổ chức các buổi hội thảo, tuyên truyền về phòng chống các tệ nạn xã
hội. Tích cực đấu tranh chống các hình thức mê tín dị đoan, sử dụng văn
22
hóa phẩm độc hại trong sinh viên. Bằng cách tổ chức, cổ vũ sinh viên
tham gia thực hiện cuộc vận động “Tuổi trẻ sống đẹp”, “Sống và làm việc
theo pháp luật”. Tiếp tục thực hiện một cách có hiệu quả cuộc vận động:
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Chú trọng giáo
dục truyền thống văn hoá, ý chí tự lực tự cường, có ý thức kế thừa và phát
huy những giá trị đạo đức truyền thống, lối sống lành mạnh, văn minh;
chống lối sống ích kỷ, thực dụng. Đẩy mạnh các hoạt động giao lưu thể
thao, văn hóa văn nghệ, kết nghĩa với các đơn vị bên ngoài. Mở rộng các
loại hình văn hóa văn nghệ mang tính quần chúng, thành lập các câu lạc
bộ theo sở thích.
- Giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên thông qua việc đẩy mạnh
chương trình học tập, nâng cao tri thức khoa học và phát triển tài năng
trẻ.
Việc đẩy mạnh chương trình học tập, nâng cao tri thức khoa học cho
sinh viên là một nhiệm vụ cơ bản của nhà trường để đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội, phục vụ vào sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đối với sinh viên việc học tập, nghiên cứu
khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất. Qua đó, rèn
luyện cho sinh viên một tác phong làm việc khoa học, một phong cách
hiện đại và một lối sống lành mạnh.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó đòi hỏi cần có những biện pháp cụ
thể: Nhà trường phải tạo môi trường và điều kiện cho sinh viên học tập.
Tuyên truyền, giáo dục xây dựng thái độ học tập đúng đắn cho sinh viên;
giúp sinh viên có tinh thần trách nhiệm, tự giác trong học tập. Kêu gọi,
các nhà tài trợ hỗ trợ cho sinh viên học tập thông qua việc xây dựng “Quỹ
học bổng vì bạn nghèo”. Đẩy mạnh phong trào học tập, động viên khuyến
khích sinh viên tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học thông qua các
phong trào của Đoàn, Hội như “học tập vì ngày mai lập nghiệp”, “mùa thi
nghiêm túc chất lượng”. Tổ chức, vận động sinh viên tham gia các hội
23
nghị khoa học mang tính chất chuyên ngành; phát huy tính chủ động, tính
tự học và tự nghiên cứu của sinh viên trong học tập.
- Xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên thông qua các hoạt động
xã hội từ thiện.
Hoạt động từ thiện xã hội của sinh viên cần tập trung vào việc giúp
đỡ gia đình thương binh liệt sĩ, những người tàn tật, ủng hộ đồng bào lũ
lụt và tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội; qua đó giáo dục truyền
thống cách mạng, lòng nhân ái, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, ý thức
chung sống trong cộng đồng của người sinh viên. Tổ chức chiến dịch
“Xóa nạn mù chữ”, “Mùa hè xanh”, các đợt lao động tình nguyện ở các
địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa. Ra ngoài xã hội, lớp trẻ mà cụ thể
ở đây là sinh viên cần được quan tâm nhiều hơn nữa từ các ban ngành,
đoàn thể mà cụ thể trước nhất là Đoàn thanh niên.
Khi chúng ta mở cửa giao lưu với thế giới thì những luồng văn hóa,
những giá trị khác lạ chắc chắn cũng sẽ tràn vào. Vấn đề ở đây là không
phải và cũng không thể ngăn chặn các luồng văn hóa ấy, mà phải tạo cho
từng thành viên trong xã hội, nhất là giới trẻ, sức đề kháng trước các
luồng văn hóa, lối sống ấy. Muốn vậy hãy cùng chung tay tạo sức đề
kháng cho thế hệ trẻ để tránh những cạm bẫy của xã hội, sống tốt hơn để
góp sức mình trong công cuộc xây dựng đất nước.
KẾT LUẬN
Xây dựng lối sống mới, lối sống văn hoá cho sinh viên hiện nay là
vấn đề cần quan tâm của Đảng, Nhà nước, của nhà trường, của gia đình
và xã hội, của tất cả mọi người… Đương thời việc giáo dục đạo đức và
chăm lo việc rèn luyện đạo đức, lối sống mới của sinh viên được Chủ tịch
Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Vấn đề lối sống của sinh viên hiện
nay là một vấn đề dược nhiều người quan tâm. Làm thế nào để phát huy
tiềm năng nhân lực quý giá này để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới công
24
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Để trả lời câu hỏi này, nhất
thiết chúng ta phải đi từ từ lối sống cách suy nghĩ của họ để từ đó loại bỏ
những nhược điểm, phát huy những ưu điểm sinh viên Việt Nam trở
thành những công dân tốt, người chủ của đất nước. Nghĩa là chúng ta
phải ra sức khuyến khích những điểm tích cực của tuổi trẻ đồng thời loại
bỏ, diệt trừ những điểm tiêu cực. Sinh viên là những người chủ tương lai
của xã hội, vì thế tất cả những sinh viên như chúng ta hãy tự hào rằng
mình là một phần quan trọng không thể thiếu của xã hội và do vậy mà
chúng ta cần phải thể hiện như thế nào để xứng đáng với niềm tin của mọi
người?
Để xây dựng lối sống mới của sinh viên một cách có hiệu quả thì đòi
hỏi phải được tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, mỗi giải pháp có vị trí,
vai trò và tác động đến mỗi khía cạnh khác nhau. Song tất cả các giải
pháp có mối quan hệ thống nhất với nhau cùng tác động đến mỗi sinh
viên, giúp họ phấn đấu vươn lên, tự điều chỉnh lối sống của bản thân
mình trở thành những con người tiến bộ.
Thời gian tới, đất nước ta tiếp tục đứng trước những thời cơ và thử
thách lớn lao, hơn bao giờ hết, vai trò và trách nhiệm của thanh niên, sinh
viên học sinh lại càng vinh dự và nặng nề. Tương lai của đất nước, của
dân tộc đang nằm trong tay thế hệ trẻ. Chúng ta có thể sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không? Chúng ta có thể đi tắt, đón đầu
thời đại được hay không? Chúng ta có thể vượt ra khỏi đói nghèo, tụt hậu
để trở thành một quốc gia giàu có, vững mạnh, phát triển về mọi mặt
được hay không? Tất cả đang trông chờ vào ý chí, nghị lực và bản lĩnh
của tuổi trẻ; tất cả đang được quyết định bởi những việc làm, những hành
động cụ thể của tuổi trẻ hôm nay.
Nghiên cứu biện chứng cá nhân - xã hội trong lối sống của sinh viên
hiện nay vừa là vấn đề lý luận, vừa là vấn đề thực tiễn cấp thiết; đồng
thời, đây là yêu cầu khách quan của quá trình giáo dục, xây dựng lối sống
25