Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

tóm tắt luận văn chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.64 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn xem triết học, cũng như các bộ môn của
khoa học tự nhiên (KHTN) là những hình thái đặc thù của sự nhận thức của
con người về thế giới. Sự ra đời, phát triển của triết học, nhất là sự ra đời và
phát triển của triết học duy vật luôn gắn bó khăng khít với sự ra đời, phát
triển của KHTN và ngược lại. Ngay từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, giữa
triết học duy vật và KHTN đã hình thành nên một liên minh vững chắc: liên
minh triết học duy vật - khoa học tự nhiên.
Trong liên minh ấy, triết học duy vật được KHTN cung cấp cho
những tài liệu nhận thức về tự nhiên. Còn KHTN thì ngay từ đầu đã được
xây dựng trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của triết học, đặc
biệt là triết học duy vật. Như vậy liên minh triết học duy vật - khoa học tự
nhiên thì có tính tự nhiên, tất yếu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Triết
học Mác-Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XIX đã là “sản phẩm”
của mối quan hệ mật thiết giữa triết học duy vật với KHTN lúc bấy giờ.
Trong nhiều tác phẩm của mình, cả C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh
nhiều lần rằng một trong những tiền đề để hai ông xây dựng nên hệ thống lý
luận của mình chính là những phát minh khoa học vĩ đại trong KHTN ở thế
kỉ XIX. Ngược lại, kể từ khi ra đời cho đến nay, triết học Mác-Lênin đã luôn
là “kim chỉ nam” cho toàn bộ nền KHTN, trong đó có vật lý học hiện đại.
Ngày nay, KHTN đã và đang lớn mạnh theo nhịp phát triển của triết học duy
vật biện chứng (DVBC).
Trong quá trình lớn lên của mình, KHTN không thể tránh khỏi những
cuộc ốm đau và bệnh tật ngắn ngủi. Đó không phải là một lời cảnh báo
suông của những nhà tương lai học bi quan. Hãy nhìn vào quá khứ của
ngành vật lý học thì sẽ rõ về mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Vào cuối thế
1


kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, vật lý học đã phải chứng kiến một cuộc “khủng


hoảng” về thế giới quan bởi sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa duy tâm “vật
lý học”. Cuộc “khủng hoảng” đó được Lênin coi như một bước giật lùi, một
“trận ốm” ngắn ngủi trong sự trưởng thành của ngành vật lý học. Song, nếu
nó không được nhanh chóng dập tắt thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng, vì cuộc
khủng hoảng đó không chỉ có tác hại xấu đến sự tiến triển của bản thân
ngành vật lý học nói riêng, KHTN nói chung mà còn có nguy cơ làm sụp đổ
cả hệ thống triết học duy vật, trong đó có cả triết học DVBC của Mác. Vì
vậy, đẩy lùi cuộc khủng hoảng đó là một nhiệm vụ mang tính cấp thiết trong
thời điểm lịch sử bấy giờ. Để đẩy lùi cuộc khủng hoảng thế giới quan của
những nhà vật lý học lúc đó Lênin đã viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Tác phẩm này được Lênin viết năm
1908, xuất bản lần đầu ở Nga năm 1909. Do ra đời trong một hoàn cảnh đặc
biệt như vậy cho nên tác phẩm này có đầy đủ tính chất của một tác phẩm
luận chiến kinh điển trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về tính chất mẫu mực
trong việc bảo vệ và phát triển triết học Mác lẫn KHTN trên hai phương
diện: nội dung và phương pháp.
Ngày nay, khi nhân loại đã bước vào một thiên niên kỉ mới (thiên niên
kỉ thứ III) với một nền văn minh mới (nền “văn minh trí tuệ”, “văn minh tri
thức”) thì KHTN càng có điều kiện để phát triển một cách vũ bão với tốc độ
“một ngày bằng hai mươi năm” hoặc lớn hơn nữa. Cùng với đó là sự trỗi dậy
mạnh mẽ của những kẻ thù “cũ” của chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng đang ra
sức hoạt động rốt ráo và tấn công vào thành lũy lý luận của Chủ nghĩa Cộng
sản, tức là chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ hiện thực đó, một cuộc “khủng hoảng”
về thế giới quan như đã từng xảy ra trong ngành vật lý học trong thời kì của
Lênin thì hoàn toàn có cơ hội để quay trở lại.

2


Mặt khác, hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,

đất nước ta đang kiên định với con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, mà trước
mắt là phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh”, muốn vậy chúng ta càng cần phải hiểu đúng và nắm vững
chủ nghĩa Mác-Lênin hơn gấp nhiều lần trước đây. Khi sinh thời Bác Hồ vẫn
thường nhắc nhở: “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử
trí mọi việc,.. là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin
để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta…”[21;
292]. Đến đây chúng ta chợt nhớ lời người xưa: “Ôn cố, tri tân”, nghĩa là:
học mới nhưng phải ôn cũ. Thiết nghĩ học chủ nghĩa Mác-Lênin là học cái
tinh thần xử trí mọi việc một cách sáng tạo, song muốn sáng tạo cái mới thì
phải biết cách của người xưa đã làm ra “cái cũ” để mà rút ra những kinh
nghiệm cho bản thân. Trên tinh thần “ôn cố tri tân” và sự cảm phục Lênin
một cách sâu sắc, tác giả đã ôm ấp ước vọng muốn học được cái tinh thần
“xử trí” và “xử lý” công việc của Người nên đã chọn đề tài: “Lênin đã đẩy
lùi cuộc khủng hoảng về thế giới quan của các nhà khoa học vật lý học như
thế nào qua tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học của mình. Đây chưa hẳn là
một đề tài quá cấp bách hiện nay, song theo tác giả thì việc nghiên cứu đề tài
này vẫn có nhiều giá trị thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề:
Đã có không ít bài viết và công trình nghiên cứu bàn đến tác phẩm
này trên nhiều bình diện và góc độ khác nhau, trong đó phải kể đến một số
bài viết và công trình tiêu biểu như: C.Mác, F.Engen, V.I.Lênin: Về mối
quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, Nxb KHXH, HN, 1973; E.Cônman: Lênin và vật lý học hiện đại, Nxb ST, HN, 1960; PGS.TS Doãn Chính,
PGS.TS Đinh Ngọc Thạch: Vấn đề triết học trong tác phẩm của C.Mác 3


Ph.Ăng-ghen - Lênin, Nxb CTQG, HN, 2008; GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn,
PTS Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên): Sức sống của một tác phẩm triết học,
Nxb CTQG, HN, 2000. Trong đó, quyển sách “C.Mác, F.Engen, V.I.Lênin:

Về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên” là quyển sách trích dẫn
lại những đoạn văn hay có liên quan đến từng chủ đề của triết học và KHTN
nên đã giúp tác giả khóa luận tiết kiệm nhiều thời gian trong việc tìm kiếm
các văn bản gốc trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin có
liên quan tới đề tài. Còn cuốn sách của E.côn-man cũng là quyển sách có
nhiều giá trị sử dụng, vì qua đó có thể tìm thấy một tầm nhìn khái quát về
mối quan hệ của từng luận điểm triết học mà Lênin đã trình bày trong tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” với những
luận cứ và luận chứng đến từ những thành tựu của vật lý học hiện đại.
PGS.TS Doãn Chính và PGS.TS Đinh Ngọc Thạch trong phần bàn về tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” đã phân tích
cuộc khủng hoảng thế giới quan trong vật lý học và khả năng khắc phục
cuộc khủng hoảng đó. Song đặc biệt nhất vẫn là tác phẩm “Sức sống của
một tác phẩm triết học” do GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn và PTS Đặng Hữu
Toàn đồng chủ biên, vì toàn bộ những vấn đề của tác phẩm “Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” đều có thể tìm thấy ở đây. Trong
tác phẩm lớn này, tác giả khóa luận đặc biệt chú ý tới bài viết của PTS
Nguyễn Cảnh Hồ với tựa đề “V.I.Lênin và cuộc khủng hoảng của vật lý học
cuối thế kỉ XIX”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận:
-

Mục tiêu của khóa luận là xác định đúng thực chất và nguyên

nhân gây nên cuộc khủng hoảng trong ngành vật lý học đầu thế kỉ XX và
con đường, cách thức mà Lênin đã sử dụng để đẩy lùi cuộc khủng hoảng đó.
Từ đó đi đến kết luận: Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn
4



xứng đáng là triết học tiên phong, là đỉnh cao tinh thần của thời đại, là công
cụ nhận thức vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân loại. Đồng thời thông
qua đó góp phần khẳng định công lao của Lênin đối với sự phát triển của
triết học Mác và KHTN.
-

Nhiệm vụ của khóa luận là đi vào phân tích các mặt của cuộc

khủng hoảng trong ngành vật lý học và cuộc đấu tranh mà Lênin đã tiến
hành nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng đó.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận:
Khóa luận này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, đặc biệt là các tác phẩm kinh điển của Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin, trong đó phải kể đến “Biện chứng của tự nhiên” và “Chống Đuyrinh” của Ph.Ăngghen và “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán” của Lênin. Mặt khác, khóa luận này cũng là kết quả của sự khái quát
nhiều kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan.
Để hoàn thành những mục tiêu và nhiệm vụ tự đặt ra cho bản thân, thì
trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng một tổ hợp các phương pháp
như: phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu, lôgich - lịch sử, thống kê,…
Những phương pháp đó luôn được sử dụng trên nền tảng của một thế giới
quan và nhận thức luận duy vật triệt để.
5. Ý nghĩa của khóa luận:
Đề tài này được tác giả lựa chọn theo đúng sở thích của bản thân với
một mong muốn nhỏ là góp phần nào công sức của mình nhằm làm rõ một
vấn đề đã đi vào lịch sử của ngành vật lý học - cuộc khủng hoảng về thế giới
quan của các nhà vật lý học hồi đầu thế kỉ XX. Mặc dù cuộc khủng hoảng đó
đã lùi vào lịch sử khá xa, song theo nhận định của tác giả thì nó hoàn toàn có
cơ hội để lại bùng phát trong tương lai và lần này có thể là với một cường độ
còn lớn hơn trước nhiều lần. Vì vậy, tác giả rất muốn nắm vững cách thức
5



mà những nhà kinh điển của triết học mác-xít đã tiến hành để đẩy lùi nó
trong lịch sử, để từ đó rút ra những kinh nghiệm quý báu cho bản thân trong
việc nhìn nhận, đánh giá các thành tựu mới nhất của ngành vật lý học hiện
đại nói riêng và KHTN ngày nay nói chung.
Mặc dù đây không phải là lần đầu tác giả thực hiện một công trình
nghiên cứu khoa học, song đây là một đề tài không dễ vì mang tính lý luận
cao và có liên quan nhiều tới kiến thức của các ngành KHTN, đặc biệt là
khoa học vật lý học. Hơn nữa việc đi sâu nghiên cứu một tác phẩm kinh điển
luôn luôn là một vấn đề khó vì nó luôn đòi hỏi tính tích cực, cần cù, chăm
chỉ, sáng tạo và một thời gian đủ dài để đọc và hiểu tác phẩm, cho nên dù đã
cố gắng hết sức song chắc chắn khóa luận này không tránh khỏi những sai
sót và hạn chế. Với sự cầu tiến cao nhất để ngày càng hoàn thiện đề tài này,
bản thân tác giả mong nhận được từ quý thầy cô và các bạn những sự cảm
thông và nhiều sự góp ý, giúp đỡ. Tác giả xin chân thành cảm ơn.
6. Kết cấu của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh
mục các từ viết tắt, khóa luận này gồm có 2 chương và 5 tiết.

NỘI DUNG
Chương 1: VÀI NÉT VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG THẾ GIỚI
6


QUAN TRONG VẬT LÝ HỌC CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1 Bối cảnh lịch sử
1.1.1 Sơ lược quá trình phát triển của vật lý học và các cơ sở triết
học của nó trước khi cuộc khủng hoảng về thế giới quan bùng nổ:
Giữa vật lý học và triết học có mối quan hệ rất mật thiết mặc dù mỗi

ngành có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Nếu chỉ bàn riêng về vấn đề
của ngành vật lý học thì chúng ta đều đồng ý rằng những tri thức vật lý học
của con người không phải tự nhiên mà có, nó đã trải qua một quá trình hình
thành, phát triển lâu dài, đi lên từng bước một. Lịch sử vật lý học chia ra làm
03 thời kì lớn, và trong mỗi thời kì như vậy lại bao gồm một số giai đoạn
khác nhau:
- Thời kì hình thành khoa học vật lý: Kéo dài suốt từ thời cổ Hy Lạp
đến gần cuối thế kỉ XVII, khi xuất hiện các công trình của Newtơn.
- Thời kì vật lý cổ điển: Kéo dài từ cuối thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ
XIX.
- Thời kì vật lý học hiện đại: Bắt đầu từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX cho đến nay.
Nhưng dù trong giai đoạn nào đi chăng nữa thì vật lý học vẫn phải
luôn “sánh bước” cùng triết học. Song mối quan hệ giữa triết học và vật lý
học không phải là bất biến, ngược lại nó luôn biến đổi trong quá trình phát
triển của mỗi ngành. Cụ thể:
Ở thời kì Cổ đại, những tư tưởng về vật lý học chỉ tồn tại ở dạng mầm
mống, vì trong nền “triết học tự nhiên” tri thức triết học sẽ chiếm ưu thế chứ
không phải là tri thức của vật lý học hay của bất kì một bộ môn khoa học
nào khác. Trong thời kì này cũng đã xuất hiện một số luận điểm cơ bản làm
nền tảng cho sự phát triển về sau của ngành vật lý, trong đó tiêu biểu nhất là
những luận điểm của Đêmôcrit với học thuyết nguyên tử luận.
7


Sang thời Trung cổ - một thời kì đen tối nhất trong lịch sử phương
Tây - khi mà những tư tưởng của Platôn và sau đó là của Arixtôt được xem
như những giáo điều bất khả xâm phạm, thì những tác phẩm của Đêmôcrit
và của các nhà duy vật khác bị cấm ngặt, bị đốt bỏ hoặc chôn vùi trong các
thư viện và ngay cả những tư tưởng ủng hộ thuyết nguyên tử luận hay một

điều gì đó tương tự đều bị thẳng tay trừng trị. Trong thời kì này, KHTN chỉ
còn là một cái xác không hồn, cho nên trải qua 2000 năm trong đêm trường
Trung cổ mà vật lý học chẳng tiến được là bao nhiêu.
Mãi cho đến thế kỉ XV-XVI, nhờ có Côpecnic, rồi Brunô, Galilê,
trước đó nữa là Lêôna Đơ Vinci,…mà những xiềng xích của triết học kinh
viện áp đặt lên KHTN mới bắt đầu được tháo tung để báo hiệu cho một sự
trỗi dậy không gì có thể ngăn cản nổi của khoa học. Trong giai đoạn này,
chúng ta thấy nổi lên vai trò đặc biệt của nhà bác học Galilê, ông đã đánh đổ
Arixtốt ở dưới đất bằng thí nghiệm Pida, và ở trên trời bằng kính thiên văn.
Tới thế kỉ XVII vật lý học nói riêng và KHTN nói chung mới thực sự
tách khỏi triết học thông qua một cuộc cách mạng chưa từng có, nhất là ở hai
ngành: thiên văn học và cơ học. Sự lớn mạnh nhanh chóng của KHTN trong
hai thế kỉ này đi liền với sự xuất hiện và trưởng thành của giai cấp tư sản
đang lên. Đặc biệt, ảnh hưởng của nhà bác học vật lý Newtơn trong giai
đoạn này là quá lớn, cái bóng của ông trùm lên mọi lĩnh vực của khoa học và
trở thành khuôn mẫu cho ngành vật lý học cổ điển (kéo dài gần 300 năm cho
mãi đến cuối thế kỉ XIX). Cuối thời kì này nhiều nhà khoa học vật lý chỉ còn
là những “tiến sĩ nhai lại”, họ không dám vượt qua cái bóng của những
người đi trước, vì tư duy của họ đã bị cái phương pháp siêu hình, máy móc
làm cho tê liệt.
Tới thế kỉ XVIII, tương ứng với trình độ của KHTN lúc này là một
hình thức triết học mới – CNDV Pháp (những nhà nghiên cứu KHTN của
8


Pháp cuối thế kỉ XVIII đều là những người duy vật và vô thần, đồng thời họ
cũng tin vào khả năng vô hạn của con người có thể nhận thức tự nhiên, do
đó họ không công nhận chủ nghĩa bất khả tri). Song hình thức triết học mới
này vẫn tự coi mình là môn khoa học duy nhất nắm được chân lý tuyệt đối,
có quyền nói lên tiếng nói cuối cùng về chân lý khoa học, do đó nó tự nhận

mình là “khoa học của mọi khoa học”.
Sang nửa đầu thế kỉ XIX, những thành tựu mới nhất của vật lý học,
hóa học, sinh vật học,…đã chứng minh cho một quá trình phát triển biện
chứng của thế giới. Thế là CNDV Pháp mất dần ảnh hưởng, thay vào đó là
triết học cổ điển Đức. Song ảnh hưởng của thứ triết học đó đối với vật lý học
ở đầu thế kỉ XIX là khá mâu thuẫn, trong đó nó đem lại kết quả xấu thì nhiều
hơn. Phải chờ đến Mác và Ăngghen thì phép biện chứng mới phát huy được
tính tích cực của nó. Song do một số nguyên nhân khách quan mà từ khi ra
đời cho đến cuối thế kỉ XIX, triết học DVBC vẫn chưa được phổ biến sâu
rộng trong đông đảo các nhà KHTN, hơn nữa trong thời kì này vật lý học cơ
giới vẫn còn gặt hái được nhiều thắng lợi nên đây vẫn là thời kì mà tư duy
siêu hình vẫn còn chiếm ưu thế trong vật lý học. Do chỉ nhìn thấy cây mà
chẳng thấy rừng, nên vật lý học vào cuối thế kỉ XIX đã tự coi mình là hình
thức “hoàn bị” cuối cùng. Sự ngạo mạn đó đã được thể hiện đầy đủ trong lời
nói của nhà vật lý học lão thành Kenvin.
Mặc dù trong lịch sử đã qua không phải không có những lần giữa triết
học và vật lý học nổ ra những cuộc tranh cãi với nhau, song đó chẳng qua
chỉ là sự phủ định thuộc về sự phát triển của sự vật. Còn xét một cách tổng
thể thì mỗi giai đoạn phát triển của ngành vật lý học đều bị chi phối mạnh
mẽ bởi một hình thức triết học tương ứng. Cho nên mới nói, tóm tắt lịch sử
của ngành vật lý học cũng đồng nghĩa với việc tóm tắt toàn bộ lịch sử của
triết học là như vậy.
9


1.1.2. Cuộc khủng hoảng thế giới quan trong vật lý học bùng nổ:
Bắt đầu từ những năm cuối cùng của thế kỉ XIX và những năm đầu
thế kỉ XX cho đến nay, đối tượng nghiên cứu của ngành vật lý đã có nhiều
thay đổi, nó đã chuyển hướng nghiên cứu sang các đối tượng thuộc thế giới
vi mô, tức là từ nguyên tử trở xuống, người ta gọi nó là nền vật lý học hiện

đại.
Vào năm 1895 nhà bác học Đức Rơn-ghen đã tình cờ tìm ra tia X (hay
còn gọi là tia Rơn-ghen). Chính phát hiện này đã gợi ý rằng nguyên tử thì
không phải là cái gì đó giản đơn như người ta thường nghĩ, phát hiện này
còn cho phép một sự suy luận lôgich về sự tồn tại của một thế giới có kích
thước với không gian và thời gian vô cùng nhỏ bé, song nó vẫn có khối
lượng, điện tích và vận tốc có thể xác định được.
Một năm sau phát hiện của Rơnghen, nhà bác học Pháp Béccơren đã
khám phá ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Uranium. Phát minh này có
ý nghĩa to lớn về mặt triết học vì nó đã chứng minh được nguyên tố hóa học
không phải là bất biến và tồn tại vĩnh viễn như người ta vẫn nghĩ mà nó có
thể chuyển hóa lẫn nhau, nghĩa là nguyên tử của nguyên tố này hoàn toàn có
thể biến đổi thành nguyên tử của các nguyên tố khác.
Năm 1897, những nghi ngờ về sự tồn tại của một thế giới hạt vi mô
phong phú và đa dạng đã được chứng minh một cách chắc chắn bằng phát
hiện của nhà vật lý học người Anh tên là Tôm-xơn khi ông phát hiện ra điện
tử và chứng minh được điện tử đúng là một trong những thành phần cấu tạo
nên nguyên tử. Điều đó đã hoàn toàn xác nhận rằng nguyên tử thì có thể bị
phân chia chứ không phải là một khối vững chắc “bé nhất, không phân chia,
không xuyên thấu, không bị phá vỡ”. Nguyên tử giờ đây không còn là “viên
gạch cuối cùng” của tòa lâu đài vật chất, dưới nguyên tử vẫn còn có những
hạt bé hơn nữa.
10


Bẵng đi một thời gian cực kì ngắn ngủi, ngành vật lý học lại rung
chuyển với phát minh của nhà vật lý học Đức Kaufman vào năm 1901. Với
phát minh của mình, ông đã chứng minh được khối lượng của điện tử không
phải là bất biến mà nó cũng biến đổi tùy theo vận tốc chuyển động của điện
tử, rằng trong quá trình vận động của điện tử thì khối lượng của điện tử sẽ

tăng lên khi vận tốc chuyển động tăng lên. Phát kiến này đã bác bỏ quan
điểm siêu hình coi khối lượng là bất biến và đồng nhất với vật chất.
Đến năm 1905, Anh-xtanh đề ra thuyết tương đối hẹp, trong đó có
công thức nổi tiếng “E= mc2”, từ đó chứng tỏ khối lượng và năng lượng
không phải là hai thực thể tách biệt nhau hoàn toàn mà khối lượng cũng là
năng lượng, ngược lại, năng lượng cũng là khối lượng. Một hệ quả quan
trọng nữa được rút ra từ thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh là: không gian
và thời gian không phải là những hình thức tuyệt đối và tách rời nhau, mà
không gian và thời gian chỉ là tương đối, nó phụ thuộc vào vận động, trong
vận động của các vật thể thì chúng luôn gắn chặt với nhau tạo nên một
không - thời gian thống nhất 4 chiều.
Tất cả những phát minh ấy đã đưa lại cho con người những hiểu biết
mới sâu sắc hơn về cấu trúc bên trong của nguyên tử, rằng nguyên tử thì vô
cùng phức tạp, nó chưa phải là đơn vị nhỏ nhất như những gì người ta đã
“tưởng tượng” về nó trong hàng ngàn năm đã qua, nó hoàn toàn có thể bị
phân rã và chuyển hóa. Điều đó đã làm cho nhiều nhà bác học “giỏi khoa
học nhưng kém cỏi về triết học” rơi vào sự hụt hẫng về thế giới quan. Sự
mất phương hướng về thế giới quan của các nhà vật lý học trong việc sử
dụng các thành quả của vật lý học hiện đại để phân tích bản chất của thế giới
hiện thực sẽ là ngòi nổ của một cuộc “khủng hoảng” về thế giới quan trong
ngành vật lý.

11


Bàn về bối cảnh lịch sử mà cuộc khủng hoảng thế giới quan của các
nhà vật lý học đã bùng nổ, chúng ta còn phải lưu ý tới cả hoàn cảnh chính trị
- xã hội vô cùng phức tạp và nhạy cảm hồi đầu thế kỉ XX. Trên thế giới thì
chủ nghĩa tư bản đã chuyển mình trở thành chủ nghĩa đế quốc với bộ mặt
cực kì phản động. Không gắn cuộc khủng hoảng vật lý học cuối thế kỉ XIX

đầu thế kỉ XX với những biến động dữ dội về chính trị - xã hội lúc ấy thì
không thể hiểu trọn vẹn thực chất và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng ấy
là gì.
1.2. Thực chất và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng thế giới
quan trong vật lý học
1.2.1. Thực chất của cuộc khủng hoảng:
Những ai quan tâm đến cuộc khủng hoảng của ngành vật lý đã từng
xảy ra ở đầu thế kỉ XX thì luôn tự đặt câu hỏi: cái gì là sự thật ẩn giấu đằng
sau cuộc khủng hoảng ấy? Phải chăng nó đúng như lời của những học giả
“giỏi khoa học nhưng kém cỏi về triết học” đã hô hoán lên rằng “vật chất
tiêu tan”, “chủ nghĩa duy vật sụp đổ”? Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin chỉ rõ “thực chất của cuộc
khủng hoảng của vật lý học hiện đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ
và của những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài
ý thức, tức là ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa bất khả tri. “Vật chất đã tiêu tan mất”,- người ta có thể dùng câu nói
đó để diễn đạt cái khó khăn cơ bản và điển hình đối với nhiều vấn đề riêng
biệt, khó khăn đã gây ra cuộc khủng hoảng ấy”[13; 259].
Quan điểm đó của Lênin đã vạch rõ thực chất của cuộc khủng hoảng
từ cả hai phía: vật lý học và triết học. Như vậy về hình thức thì cuộc khủng
hoảng đó là một cuộc khủng hoảng “kép”. Cụ thể:
a. Thực chất của cuộc khủng hoảng xét về mặt vật lý học:
12


Nếu xét riêng các sự biến của bản thân ngành vật lý học thì rõ ràng lúc
ấy trong ngành này đang diễn ra những “sự đảo lộn của những quy luật cũ và
những nguyên lý cơ bản”. Thêm vào đó, các quan niệm cũ về cấu tạo
nguyên tử như “là cái bé nhất, là đơn vị cuối cùng không thể phân chia, là
bản nguyên đại diện cho thế giới” cũng đã tan tành theo mây khói, “khối

lượng tiêu tan mất. Nền tảng của cơ học sụp đổ. Nguyên lý Niu-tơn về sự
ngang bằng giữa tác động và phản tác động,…cũng sụp đổ nốt”[13; 254].
Sự thật là cho mãi đến cuối thế kỉ XIX, các nhà vật lý học vẫn còn tin
tưởng tuyệt đối vào những quy luật và nguyên lý của cơ học cổ điển và
khẳng định một cách chắc chắn rằng thế giới vật chất này đã bị đóng khuôn
trong những quy luật đó mà không cần có thêm bất kì một quy luật nào nữa.
Cho nên một khi các nhà vật lý được tiếp xúc với hàng loạt các phát minh
mới và thấy chúng cứ “bướng bỉnh” không chịu ăn khớp với những gì có sẵn
từ trước thì họ hết sức hoang mang từ đó có sự xáo động lớn về tư tưởng,
vốn dĩ họ là những người duy vật - mặc dù là duy vật siêu hình - thì nay họ
sẵn sàng chấp nhận CNDT và bất khả tri như một sự cứu cánh. Họ không
hiểu vật lý học cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đang trải qua một “bước
trưởng thành”, một “cuộc cách mạng” chứ không phải là một cuộc khủng
hoảng như người ta tưởng tượng về nó. Cuộc cách mạng trong vật lý học
cũng chính là sự đảo lộn những qui luật cũ, những khái niệm cũ, những
nguyên lý cơ bản của vật lý học cổ điển, sự đảo lộn đó được thực hiện thông
qua những phát minh vĩ đại trong vật lý học.
Có phải “cuộc cách mạng” của vật lý học đến từ một sự ngẫu nhiên?
Như đã tìm hiểu trong mục 1.1 thì lịch sử vật lý học là một quá trình phát
triển luân phiên giữa những thời kì tiến hóa yên tĩnh và những thời kì biến
đổi cách mạng. Đầu thế kỉ XX, một cuộc cách mạng như vậy đã bùng nổ
trong lòng vật lý học.
13


Như vậy cuộc “khủng hoảng” của vật lý học không phải là cuộc
khủng hoảng do sự phát triển của khoa học đem lại mà chính là do có một số
nhà vật lý học khi lý giải những phát minh mới đã không đứng trên quan
điểm DVBC mà lại rút ra những kết luận sai lầm mang tính duy tâm, đi tới
chỗ gạt bỏ thực tại khách quan tồn tại ngoài ý thức và đi tới chỗ thay thế

CNDV bằng chủ nghĩa bất khả tri.
b. Thực chất cuộc khủng hoảng xét về mặt triết học:
Vì giữa triết học và KHTN có mối quan hệ hỗ tương cho nên trong
cuộc “khủng hoảng” về vật lý học không thể “thiếu” sự tác động đến từ phía
triết học. Để hiểu trọn vẹn vấn đề ta cần gắn cuộc khủng hoảng về thế giới
quan của các nhà vật lý học với cuộc đấu tranh triết học giữa CNDV với
CNDT trong giai đoạn này.
Sự đảo lộn những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản thì đâu phải
là lần đầu mới thấy trong lịch sử vật lý học, cách đó mấy trăm năm Côpecnic
đã làm rồi khi ông đưa ra thuyết nhật tâm để đánh đổ thuyết địa tâm tồn tại
trong hơn hai ngàn năm, song nó đã không đưa lại bất kì một cuộc khủng
hoảng nào về mặt thế giới quan. Vậy sự khác nhau giữa hai thời điểm lịch sử
này là gì? Đó là giờ đây có quá nhiều nhà bác học giỏi chuyên môn nhưng
không phải là những nhà duy vật, rõ ràng hồi đó tuy cũng là lý thuyết mới
đánh đổ lý thuyết cũ nhưng cái thế giới quan và nhận thức luận duy vật
thông qua đó mà được củng cố, đó là quá trình thay thế CNDT bằng CNDV,
còn giờ đây thì sự việc lại diễn biến theo hướng hoàn toàn ngược lại, tức là
CNDV bị thay thế bởi CNDT và chủ nghĩa bất khả tri. Những phần tử phản
động nhất trong triết học đã lợi dụng và đã làm cho cuộc khủng hoảng này
trở nên nghiêm trọng bằng cách “từ cuộc “khủng hoảng của vật lý học hiện
đại”, người ta đã vội rút ra những kết luận hoài nghi luận”[13; 255]. Vậy là
mọi vấn đề có thể coi như được sáng tỏ.
14


Tóm lại, theo Lênin thì thực chất sâu xa hơn của toàn bộ cuộc khủng
hoảng phải nằm ở mặt triết học chứ không phải ở mặt vật lý học; chính mặt
triết học sẽ nói lên bản chất của cuộc khủng hoảng vật lý học, còn mặt vật lý
học chẳng qua chỉ là cái cớ; không thể hiểu được thực chất của cuộc khủng
hoảng từ việc xem xét các phát minh khoa học, mà việc mất phương hướng

về thế giới quan của nhiều nhà vật lý phải bắt đầu khi họ bước sang lĩnh vực
của triết học. Như vậy, mặc dù được gọi là cuộc “khủng hoảng” vật lý học
song thật ra chẳng có một cuộc khủng hoảng nào hết về mặt vật lý mà chỉ có
một cuộc khủng hoảng về mặt thế giới quan và nhận thức luận triết học
trong bản thân các nhà vật lý học.
1.2.2. Nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng:
Một câu hỏi cần làm sáng tỏ ở mục này là: Cái gì đã làm nảy sinh ra
cuộc khủng hoảng trong vật lý học hồi đầu thế kỉ XX?.
Đầu tiên, chúng ta đều đồng ý với Lênin về nguồn gốc sâu xa của
cuộc khủng hoảng thế giới quan trong ngành vật lý nằm ở ngay cách đặt vấn
đề về vật chất như là “viên gạch đầu tiên” của thế giới. Lênin viết: ““Vật
chất đã tiêu tan mất”, - người ta có thể dùng câu nói đó để diễn đạt cái khó
khăn cơ bản và điển hình đối với nhiều vấn đề riêng biệt, khó khăn đã gây ra
cuộc khủng hoảng ấy”[13; 259].
Tiếp theo, trong cùng tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, Lênin cũng đã chỉ rõ: cuộc khủng hoảng của vật lý học
hiện đại mà xét về mặt thế giới quan thì gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa
duy tâm “vật lý học” nên những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của
chủ nghĩa duy tâm “vật lý học” thì cũng chính là các nguyên nhân dẫn đến
cuộc khủng hoảng thế giới quan của các nhà vật lý học. Theo Lênin thì có
hai nguyên nhân chính “đẻ” ra chủ nghĩa duy tâm “vật lý học” :

15


- Nguyên nhân thứ nhất: “Cuộc khủng hoảng của vật lý học là ở chỗ
tinh thần toán học đã chinh phục vật lý học” [13; 311].
Trong vấn đề này, Lênin đặc biệt lưu ý việc toán học đã được ứng
dụng rộng rãi vào trong vật lý học và làm cho vật lý học “lý thuyết” trở
thành vật lý học “toán học”. Lênin nhận định: “Cuộc khủng hoảng của vật lý

học là ở chỗ tinh thần toán học đã chinh phục vật lý học”[13; 311], ““vật
chất tiêu tan mất” chỉ còn lại những phương trình”[13; 312], hay có thể nói
một cách hình tượng đơn giản: Vì các nhà vật lý học mải vùi đầu tính toán
nên đã dần mất đi thói quen suy nghĩ!.
- Nguyên nhân thứ hai: Theo Lênin thì “một nguyên nhân khác sinh ra
chủ nghĩa duy tâm “vật lý” là nguyên lý của chủ nghĩa tương đối, tức là
nguyên lý về tính tương đối của tri thức của chúng ta. Trong thời kì các lý
luận cũ sụp đổ đột ngột, nguyên lý này có một sức mạnh đặc biệt buộc các
nhà vật lý học phải tuân theo, - và trong tình trạng không hiểu biết phép
biện chứng, nguyên lý này, tất nhiên dẫn đến chủ nghĩa duy tâm ”[13; 313]
Ngoài các nguyên nhân nhận thức luận, sự khủng hoảng của vật lý
học còn có nguyên nhân chính trị - xã hội và tín ngưỡng, đây là những
nguyên nhân gián tiếp.
Tóm lại: Chừng nào CNDT, chủ nghĩa kinh nghiệm và phương pháp
tư duy siêu hình còn thống trị trong KHTN thì chừng ấy chưa thể tránh khỏi
việc có những cuộc khủng hoảng bùng nổ trong KHTN nói chung và vật lý
học nói riêng .
Chương 2: LÊNIN ĐẨY LÙI CUỘC KHỦNG HOẢNG VỀ THẾ
GIỚI QUAN CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC VẬT LÝ
2.1. Lênin đấu tranh chống lại các trào lưu triết học phi mac-xit ở
Nga vào năm 1908
16


Như đã phân tích thì cuộc khủng hoảng vật lý học thực ra là một cuộc
khủng hoảng “kép”, nên muốn giải quyết nó triệt để thì phải giải quyết đồng
thời trên cả hai mặt: vật lý học và triết học, song trọng tâm vẫn là trên địa
hạt của triết học. Hơn nữa Lênin ngay từ đầu đã giới hạn công việc của mình
chỉ trong lĩnh vực triết học chứ không có ý định “lấn sân” sang lĩnh vực của
vật lý học.

Như chúng ta đã biết, cuối thế kỉ XIX, về mặt triết học, CNDT đã mở
ra một cuộc đấu tranh mới chống CNDV một cách toàn diện với những “vũ
khí” mới, mà một trong những vũ khí mới được sử dụng lúc này chính là
triết học kinh nghiệm hay chủ nghĩa Makhơ - một thứ triết học về thực chất
là CNDT chủ quan, một biến dạng của chủ nghĩa thực chứng, nhưng ngoài
mặt lại làm ra vẻ như một thứ triết học “tối tân”, “hiện đại” đã khắc phục
được sự phiến diện của cả CNDV lẫn CNDT. Tại Nga, lợi dụng tình hình rối
ren, phái Makhơ ở Nga tiến hành sự xét lại công khai triết học Mác nhằm
khôi phục triết học duy tâm bằng cách làm giả nhận thức luận DVBC một
cách tinh vi thông qua việc dùng các thuật ngữ tựa hồ như là duy vật để che
đậy CNDT, nhưng thực tế là họ đã hoàn toàn rời bỏ CNDV rồi.
Lúc bấy giờ cũng có khá nhiều người thực tâm muốn bảo vệ chủ
nghĩa Mác nên đã đứng ra phê phán chủ nghĩa Makhơ, song vì sự phê phán
không quyết liệt lại phạm phải nhiều sai lầm trong khi trình bày triết học
DVBC nên hiệu quả đạt được thấp và còn gây ra một số tổn hại khác cho
triết học Mác nói chung.
Đứng trước tình hình đó, Lênin đã viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” để tiến hành cuộc đấu tranh toàn diện
chống lại các trào lưu triết học phản động, mà cụ thể ở đây là chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán hay còn được biết dưới cái tên chủ nghĩa Makhơ. Cuộc
đấu tranh này bao gồm hai khía cạnh: nội dung và phương pháp.
17


Về mặt nội dung: Cuộc đấu tranh mà Lênin đã tiến hành có một nội
dung sâu rộng, song trọng tâm của cuộc đấu tranh đó vẫn luôn luôn xoay
quanh vấn đề cơ bản của triết học, nhất là những vấn đề liên quan tới nhận
thức luận, vì đó là vấn đề mấu chốt để phân định giữa một bên là triết học
mác-xít và bên kia là những ý tưởng phi mác-xít của các trường phái duy
tâm và xét lại. Các quan điểm duy vật và biện chứng quan trọng nhất được

Lênin tóm tắt lại trong ba kết luận về nhận thức luận:
“1. Có những vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, độc lập với
cảm giác của chúng ta, ở ngoài chúng ta,…
2. Dứt khoát là không có và không thể có bất kì sự khác nhau nào về
nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã
được nhận thức và cái chưa được nhận thức…
3. Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác
của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định
rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn rồi, mà phải phân
tích xem sự hiểu biết nảy sinh từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết
không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ và chính xác hơn như thế
nào” [13; 91]
Các kết luận này là cơ sở triết học để Lênin phê phán Makhơ,
Avênariút và những người theo phái Makhơ,… Đồng thời nó cũng là căn cứ
triết học vững chắc để Lênin phân tích và vạch ra lối thoát cho cuộc khủng
hoảng của vật lý học.
Về mặt phương pháp: Lênin đã tổng kết thành bốn luận điểm quan
trọng, được coi như bốn phương pháp có tính nguyên tắc chung khi xem xét,
đánh giá, phân tích, phê phán bất kì một trào lưu triết học nào:
Nguyên tắc 1: Một là và trước tiên cần phải so sánh những cơ sở lý
luận của triết học đó với những cơ sở lý luận của CNDVBC.
18


Nguyên tắc 2: Cần phải xem xét vị trí của trường phái triết học đó với
các trào lưu triết học khác để vạch ra được bản chất và giá trị của trường
phái triết học đó.
Nguyên tắc 3: Cần xem xét thái độ của trào lưu triết học đó đối với
các thành tựu của KHTN.
Nguyên tắc 4: Nguyên tắc tính đảng trong triết học.

Tóm lại, từ cuộc đấu tranh của Lênin chống lại các trào lưu triết học
phi mác-xít, chúng ta có thể rút ra một kết luận: Sự phát triển của khoa học
không tách rời thế giới quan và phương pháp luận của triết học. Đây cũng
chính là cơ sở để Lênin tìm ra con đường duy nhất để giải quyết cuộc khủng
hoảng vật lý học đang diễn ra lúc bấy giờ dưới ánh sáng của triết học. Thêm
vào đó tác phẩm còn để lại những nguyên tắc phê phán triết học phi mác-xít
mà cho đến nay ý nghĩa của những nguyên tắc đó vẫn còn nguyên giá trị.
2.2. Một số nguyên tắc cơ bản để giải quyết cuộc khủng hoảng về
thế giới quan của vật lý học
2.2.1. Xây dựng một liên minh triết học duy vật biện chứng và khoa
học tự nhiên vững mạnh:
Sau khi Lênin tiến hành phê phán các trào lưu triết học phi mác-xít thì
khả năng khắc phục cuộc khủng hoảng trong vật lý học đã rõ ràng, khả năng
duy nhất để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng đó chính là phải làm sao để
chiến thắng được tính hạn chế siêu hình và cơ giới trong quá trình nhận thức
thế giới, làm sao để các nhà vật lý học nắm vững thế giới quan và phương
pháp nhận thức DVBC. Sau này, trong tác phẩm “Về tác dụng của chủ
nghĩa duy vật chiến đấu” (được Lênin viết năm 1922 in trong tập 45, Lênin
toàn tập), Lênin một lần nữa chỉ rõ rằng sự liên minh giữa CNDV chiến đấu
và các đại biểu của KHTN là điều kiện đảm bảo cho cả triết học lẫn KHTN
không lâm vào những cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai. Như vậy,
19


để xây dựng thành công liên minh triết học DVBC và KHTN thì cần đồng
thời làm tốt hai việc:
Thứ nhất, về phía các nhà triết học DVBC thì phải thường xuyên theo
dõi sự phát triển của KHTN. Nếu không làm tốt nhiệm vụ này, các nhà triết
học tự xưng mình là “mác-xít” sẽ chỉ còn lại cái “mác” trên danh nghĩa chứ
nội dung lý luận thì vô cùng nhàm chán và trống rỗng. Ăngghen đã từng

nhắc chúng ta: “…Một quan niệm vừa biện chứng vừa duy vật về tự nhiên
đòi hỏi người ta phải thông thạo toán học và khoa học tự nhiên”[19; 196].
V.I.Lênin là một tấm gương mẫu mực trong vấn đề này.
Thứ hai, để góp phần xây dựng một liên minh triết học duy vật biện
chứng - khoa học tự nhiên vững mạnh thì về phía các nhà KHTN nói chung
và các nhà vật lý học nói riêng, họ phải biết vươn lên thành nhà DVBC.
Thường thì các nhà KHTN rất ít quan tâm đến triết học, thậm chí họ
còn khinh miệt triết học, nhất là các nhà vật lý học thì hầu như không muốn
trả lời các câu hỏi của triết học, họ chỉ muốn im lặng giải các bài toán của
mình, bởi vì thực hành khoa học thì dễ dàng hơn là hiểu nó. Song trong quá
trình nghiên cứu và ngay cả trong lúc giải thích các phát minh khoa học ấy
họ không thể không động chạm đến các vấn đề của triết học, nhất là vấn đề
cơ bản. Do vậy yêu cầu đầu tiên bức thiết đối với các nhà KHTN là họ phải
trở thành những người duy vật triệt để, tự giác. Song như vậy vẫn là chưa
đủ, họ còn cần tiến thêm một bước nữa để từ CNDV siêu hình trở thành
CNDVBC.
Sau khi đã xác định thực chất và nguyên nhân gây ra cuộc khủng
hoảng vật lý học, chủ yếu là vì các nhà vật lý học không hiểu được phép
biện chứng, Lênin đã đưa ra phương hướng giải quyết cuộc khủng hoảng
như sau: “Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các
khoa hoc tự nhiên hiện đại sẽ chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng
20


với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế cho chủ
nghĩa duy vật siêu hình”[13; 310]. Lênin yêu cầu nhà KHTN phải phấn đấu
để trở thành “nhà duy vật hiện đại”[14; 35]. Theo Lênin, nếu một nhà vật lý
học không biết trực tiếp và ngay lập tức vươn lên từ CNDV siêu hình để đến
với CNDVBC thì họ sẽ rơi ngay vào chủ nghĩa duy tâm “vật lý học”.
Tóm lại, giữa KHTN và triết học DVBC cần hình thành nên một liên

minh vững chắc để kẻ thù chung của chúng là liên minh CNDT - tôn giáo
không thể chia rẽ, xâm nhập và phá hoại.
2.2.2. Các nhà vật lý học nói riêng và khoa học tự nhiên nói chung
có cần tính đảng không?
Mục này được viết ra như một sự bổ sung cho mục 2.1 và 2.2.1 về
phần tính đảng trong triết học và KHTN.
Đặc trưng dễ nhận biết của các nhà vật lý học là sự tin tưởng tuyệt đối
mang tính “vô thức” của họ vào một thế giới vật chất khách quan, độc lập
với ý thức con người. Nói như A-ben Rây (một nhà thực chứng luận người
Pháp) thì “vật lý học “dùng những vật liệu thực tại và xi-măng thực tại để
xây dựng một tòa lâu đài thực tại. Nhà vật lý học đã nắm lấy những nguyên
tố vật chất, những nguyên nhân và phương thức của sự tác động của chúng,
…”[13; 258-259]. Vì “vô thức và tự phát” theo quan niệm duy vật cho nên
chúng ta có thể gọi những biểu hiện đó là “chủ nghĩa duy vật khoa học tự
nhiên” (đây là cách gọi mà chính Lênin đã dùng).
Vậy là các nhà vật lý có tính đảng duy vật? Chưa phải. Vì như Lênin
đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa duy vật bao hàm tính đảng, nghĩa là bắt buộc chúng ta
mỗi khi đánh giá một sự biến, phải trực tiếp và công khai đứng trên quan
điểm của một tập đoàn xã hội nhất định”. Vậy bản thân KHTN là không có
tính đảng. Song do giữa KHTN, mà cụ thể ở đây là vật lý học và triết học
luôn có mối quan hệ mật thiết cho nên rất tự nhiên cuộc đấu tranh về tính
21


đảng trong triết học đã lan sang cả lĩnh lực vật lý học nói riêng và KHTN nói
chung. E.Cônman đã chỉ rõ: “các nhà vật lý học là những người làm công tác
khoa học, họ phải nghiên cứu nguyên tắc tính đảng của triết học, và phải có
ý thức đứng về phía triết học của giai cấp duy nhất tiến bộ, đó là giai cấp vô
sản” [7; 37].
Tóm lại, nguyên tắc tính đảng đem áp dụng vào KHTN thì được hiểu

cô đọng là: Hoặc là theo CNDV triệt để từ đầu đến cuối, hoặc là nói những
điều dối tra và mơ hồ của CNDT triết học. Một trong các khuyết điểm căn
bản của các nhà vật lý học trước kia cũng như bây giờ là họ đã không kiên
trì lập trường duy vật một cách tự giác. Theo Ăngghen, đến khi họ nhận ra
được ý nghĩa việc làm của mình thì họ sẽ phải đi tìm sự an ủi từ ông
Giuôcđanh của Môlie vì cả đời ông làm văn xuôi mà không biết mình đã làm
văn xuôi, còn họ thì cả đời là người duy vật mà không biết mình là người
duy vật, nhưng dù sao thì thà chậm vẫn hơn không.
2.3. Định nghĩa vật chất của Lênin
Vật chất là “cửa ải” mà tất cả các nhà vật lý học phải đi qua và bất kì
một luận đề nào của vật lý học cũng đều được xây dựng từ đó. Lênin đã
vạch rõ: ““Vật chất đã tiêu tan mất”, - người ta có thể dùng câu nói đó để
diễn đạt cái khó khăn cơ bản và điển hình đối với nhiều vấn đề riêng biệt,
khó khăn đã gây ra cuộc khủng hoảng ấy”[13; 259].
Rõ ràng việc khắc phục cuộc khủng hoảng trong vật lý học đã gắn liền
với việc Lênin đưa ra định nghĩa mới về vật chất, điểm đặc biệt là định nghĩa
vật chất này của Lênin được nêu ra ở chương II và sang tiết 1 chương III thì
có bàn thêm “Vật chất là gì?,…”, còn phần mà Lênin bàn về cuộc khủng
hoảng của vật lý học lại nằm ở chương V của cùng tác phẩm “Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Điều đó đã nói lên lôgich của
vấn đề mà Lênin đã tiến hành là: lấy định nghĩa vật chất đó làm cơ sở quy
22


chiếu cho toàn bộ các vấn đề của cuộc khủng hoảng, nghĩa là thông qua đó
ta có thể tìm thấy thực chất, nguyên nhân và cả lối thoát cho cuộc khủng
hoảng vật lý học lúc đó.
Trên cơ sở phân tích và khái quát những thành tựu mới nhất của
KHTN, kế thừa những di sản lý luận của Mác và Ăngghen về sự đối lập giữa
ý thức và vật chất, về bản chất và tính thống nhất vật chất của thế giới,…

Lênin đã đưa ra được định nghĩa kinh điển về vật chất: “Vật chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.[13; 119]
Trong phạm vi khóa luận này, tác giả sẽ không đi sâu phân tích nội
dung của định nghĩa mà tập trung chỉ ra ý nghĩa của định nghĩa đó đối với
việc giải quyết cuộc khủng hoảng thế giới quan đối với các nhà vật lý học.
Đầu tiên, Lênin đã sử dụng một phương pháp định nghĩa đặc biệt đối
với phạm trù vật chất, nghĩa là Lênin đã không quy khái niệm cần định
nghĩa (vật chất) vào một khái niệm rộng hơn để rồi từ đó chỉ ra đặc điểm
riêng của nó. Lênin viết: “…thử hỏi trong những khái niệm mà lý luận về
nhận thức có thể sử dụng, có những khái niệm nào rộng hơn những khái
niệm: tồn tại và tư duy, vật chất và cảm giác, cái vật lý và cái tâm lý, hay
không? Không có. Đó là những khái niệm rộng đến cùng cực, rộng nhất, cho
đến nay nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được (trừ những thay đổi luôn
luôn có thể có về mặt thuật ngữ)”[13;137]. Như vậy ngay từ đầu, Lênin đã
“hoàn toàn không cho phép lẫn lộn, như những người theo phái Ma-khơ,
những học thuyết về kết cấu nào đó của vật chất với phạm trù nhận thức
luận,…”[13; 119]. Đó là điều mà trong hơn hai ngàn năm đã qua không ai
phát hiện ra.

23


Tiếp đến, từ trong định nghĩa ấy ta có thể rút ra thêm một số kết luận
như:
Một, “vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan”. V.I.Lênin đã vạch rõ sai lầm của chủ nghĩa Makhơ, cũng như của vật
lý học mới là ở chỗ không tính đến luận điểm của CNDVBC về tính chất cơ
bản nhất của vật chất - đặc tính tồn tại khách quan độc lập với ý thức con

người. Lênin viết: “Trong khi phủ nhận tính bất biến của những nguyên tố
và của những đặc tính của vật chất đã được biết cho đến nay, họ đã rơi vào
chỗ phủ nhận vật chất, nghĩa là phủ nhận tính thực tại khác quan của thế giới
vật lý” [Xem 13; 264]
Quan điểm đó của Lênin đã khắc phục được sai lầm cơ bản của
CNDV trước Mác là thường qui “vật chất” về vật thể hay một dạng cụ thể
của vật chất. Định nghĩa đó đã cổ vũ các nhà khoa học đi sâu khám phá bản
chất thế giới vật chất như là một sự vô cùng, vô tận vì Lênin đã không đưa ra
bất kì giá trị nhỏ nhất nào.
Hai, “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Theo Lênin thì “Chủ nghĩa duy vật,
hoàn toàn nhất trí với khoa học tự nhiên, coi vật chất là tính thứ nhất, coi ý
thức, tư duy, cảm giác là tính thứ hai…”[13; 31]. Ý nghĩa của vấn đề nằm ở
chỗ nó chống lại những luận điệu sai lầm của CNDT dưới mọi hình thức khi
chúng cố luận giải và khẳng định tinh thần là cái quyết định mọi sự vật và
hiện tượng trong thế giới xung quanh chúng ta. Việc thừa nhận tính có trước
của vật chất đã hàm chứa các yếu tố lịch sử - tự nhiên, bởi lẽ cách hiểu như
thế có nghĩa là trong lịch sử thì giới tự nhiên tồn tại trước ý thức con người
và cả con người nữa. Song phải chú ý rằng sự đối lập vật chất và ý thức với
tư cách là “cái có trước” và “cái có sau” chỉ được Lênin xét trong một

24


phạm vi hết sức hạn chế, đó là trong phạm vi giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học.
Ba, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép, chụp, phản
ánh. Với nội dung này, Lênin đã chứng minh vật chất tồn tại khách quan
nhưng không phải thần bí như Lơphevơrơ, một kẻ xét lại chủ nghĩa Mác
từng tuyên bố: “Chỉ có thể nói vật chất tồn tại nhưng không thể nói nó như

thế nào”[7; 206]. Nghĩa là ngoài dấu hiệu tồn tại khách quan, vật chất còn có
một dấu hiệu quan trọng nữa là có thể nhận thức được, vì vậy về nguyên tắc
không có đối tượng nào không thể nhận thức, chỉ có những đối tượng chưa
được nhận thức mà thôi. Lênin viết: “…giới tự nhiên là vô tận cũng như các
hạt nhỏ nhất của nó (kể cả điện tử) đều là vô tận, nhưng lý tính cũng đem
chuyển hóa “vật tự nó” thành “vật cho ta” một cách cũng vô tận như thế”
[13; 316]. Ý nghĩa: Nội dung này đã hoàn toàn bác bỏ thuyết không thể biết,
định nghĩa đã khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người là vô
hạn, chống lại bất khả tri luận, giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản
trong triết học dựa trên quan điểm duy vật triệt để.
Tóm lại: Định nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa thế giới quan và
phương pháp luận khoa học sâu sắc trong nhận thức khoa học. Theo nhận
định riêng của tác giả khóa luận thì cái có ý nghĩa nhất trong định nghĩa vật
chất của Lênin nếu xét về tác dụng đối với việc giải quyết cuộc khủng hoảng
vật lý học lúc bấy giờ chính là việc định nghĩa này có một độ “giãn” tuyệt
vời vượt qua cả những giới hạn về không gian và thời gian, nó đã đưa triết
học DVBC tiến lên một bước dài về phía trước, sẵn sàng đáp ứng được mọi
đòi hỏi mới do những phát minh mới nhất của vật lý học đề ra.
KẾT LUẬN

25


×