LỜI NÓI ĐẦU
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước trong những năm qua đã thu được nhiều thành
tựu to lớn, từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đạt tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, đời sống của nhân dân cũng từng bước
được cải thiện, bộ mặt của xã hội đã có những thay đổi. Một trong những tiền đề
để tạo ra sự thành công đó là Đảng, nhà nước đã đánh giá đúng vị trí và vai trò
của việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế tri thức đáp ứng nhu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Hiện nay, Việt Nam là nước có người trong độ tuổi lao động trên tổng dân
số chiếm tỷ lệ 75,2%. Nước ta hiện đang ở giai đoạn dân số vàng, nhưng số lao
động phổ thông không qua đào tạo, không có bằng chuyên môn kỹ thuật chiếm
tỷ lệ 81,6% số người trong độ tuổi lao động( Số liệu tại hội thảo “Đổi mới công
tác đào tạo nhân lực cho các khi công nghiệp, khu chế xuất” diễn ra tại
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/05/2016). Đây là số liệu thực tế do tổ chức phi
chính phủ GIZ cung cấp khác xa với số liệu do các cơ quan chức năng cung cấp.
Qua số liệu trên ta có thể thấy chất lượng nhân lực ở nước ta còn thấp, cơ cấu
lao động bất hợp lý, đang mất dần sức cạnh tranh trên thị trường lao động, cần
sớm có những giải pháp tháo gỡ. Để hiểu và nắm rõ thực trạng về nguồn nhân
lực nước ta và đưa ra những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh cho
người lao động Việt Nam trên thị trường lao động khu vực và quốc tế do vậy em
chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực
lao động phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Lương Sơn Hòa Bình”.
Do thời gian có hạn nên bài làm chưa được sâu sắc, còn hạn chế rất mong
được sự đóng góp của thầy, cô giáo và các bạn đọc để bài tiểu luận hoàn thiện.
1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CNH – HĐH VÀ NGUỒN NHÂN LỰC
1. Các khái niệm về CNH – HĐH và nguồn nhân lực
1.1. Khái niệm CNH – HĐH
CNH - HĐH là một quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế từ sử dụng sức lao động là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến
bộ khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động cao.
Như vậy, quan điểm trên cho ta thấy quá trình CNH – HĐH ở nước ta kết
hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình phát
triển. Quá trình ấy không đơn thuần là chuyển từ lao động thủ công thành lao
động cơ khí như trước đây mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng
ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và
công nghệ hiện đại.
Đảng ta xác định công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa. Sở dĩ như
vậy là vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại. Một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển sang nền kinh tế tri thức.
1.2.Vai trò của quá trình CNH – HĐH đối với nền kinh tế nước ta.
Từ thế kỷ XX Đảng ta đã đề ra đường lối công nghiệp hóa và coi công
nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm xuyên xuất trong quá trình quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Từ những kinh nghiệm phát triển kinh tế và định hướng thực tế
thu được trong thời kỳ đổi mới đất nước chúng ta thấy được vai trò và ý nghĩa
quan trọng và trung tâm của quá trình công nghiệp hóa đi đôi với hiện đại hóa.
- Công nghiệp hóa tạo sự thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng
suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng
và phát triển kinh tế, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nâng cao đời
sống nhân dân.
2
- Công nghiệp hóa tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường
vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và
phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước đảm bảo và đầu tư nhiều hơn cho an sinh xã hội, nâng cao thu nhập cho
người lao động, giúp cho sự phát triển của con người được toàn diện hơn trong
mọi hoạt động kinh tế - xã hội.
- Công nghiệp hóa tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát
triển nhanh, đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Công nghiệp hóa làm tăng cường lực
lượng vật chất, kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh, đảm bảo đời sống người lao
động, kinh tế phát triển ổn định, chính trị - xã hội ngày càng phát triển hoàn
thiện hơn, tạo điểu kiện cho nền kinh tế độc lập, tự chủ đủ sức thực hiện sự
phân công và hợp tác quốc tế.
Thành công của sự công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân
là nhân tố quyết định sự thắng lợi của Đảng, nhà nước trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế
được coi là nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong suốt quá trình quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
1.3. Khái niệm nguồn nhân lực
Hiện nay khái niệm nguồn nhân lực có rất nhiều quan điểm và hiểu theo
nhiều khái niệm khác nhau:
- Theo Liên hiệp quốc: “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ với sự
phát triển mỗi cá nhân và của đất nước”.
- Theo tổ chức lao động quốc tế thì: “Nguồn nhân lực của một quốc gia
là toàn bộ những người trong độ có khả năng tham gia lao động”. Theo quan
điểm này thì nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho
sự phát triển kinh tế xã hội bao gồm các nhóm người trong độ tuổi lao động
tham gia vào quá trình lao động, sản xuất xã hội.
3
- Dưới góc độ của kinh tế chính trị thì nguồn nhân lực ở đây có thể được
hiểu theo nghĩa sau: “Nguồn nhân lực là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại
trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh
truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử để
được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ cho hiện
tại và tương lai của đất nước.” Theo góc độ của kinh tế chính trị thì nguồn nhân
lực ở đây được hiểu phản ánh ba vấn đề chính: Thứ nhất, xem xét nguồn nhân
lực dưới góc độ con người – yếu tố quyết định cho sự phát triển xã hội. Thứ hai,
nguồn nhân lực bao gồm số lượng và chất lượng. Thứ ba, nghiên cứu về nguồn
nhân lực và phát triển nguồn nhân lực gắn liền với chính trị, xã hội của đất
nước.
Từ những quan điểm và khái niệm ở trên ta có thể thấy phát triển nguồn
nhân lực chính là sự biến đổi về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực trên các
mặt như: thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo
ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Tóm lại chúng ta có thể
hiểu một cách khái quát sự phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập
và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ của kinh tế - xã hội.
1.3. Vai trò của chất lượng nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH - HĐH
Hiện nay nước ta đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước nhà, để đạt được những tiêu chí đề ra
chúng ta biết khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả tất cả các nguồn lực. Trong
tất cả các nguồn lực thì không thể phủ nhận vai trò quyết định, quan trọng đảm
bảo tăng trưởng phát triển, bền vững đó là nguồn lực con người, đặc biệt là
nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các cơ sở để khẳng định quan điểm đó được
thể hiện qua những vấn đề sau:
Thứ nhất, các nguồn lực khác (ngoại trừ nguồn nhân lực), xét về mặt số
lượng và trữ lượng, có thể là rất phong phú, đông đảo nhưng nếu khai thác và sử
dụng không hợp lý thì đến một lúc nào đó chúng sẽ mất cân đối và dần trở nên
4
cạn kiệt. Khi ấy, nền kinh tế vốn cơ bản dựa vào nguồn lực này sẽ gặp khó khăn,
nếu không nói là bị đe doạ. Trái lại, nguồn lực con người với tiềm năng trí tuệ,
chất xám thì luôn sinh sôi và phát triển không ngừng. Xét trên bình diện xã hội,
có thể khẳng định nguồn lực con người là vô tận, là nguồn lực cơ bản của sự
phát triển bền vững. Đây là một ưu điểm nổi trội của nguồn nhân lực so với các
nguồn lực khác trong hệ thống nguồn lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, nếu trước đây, một trong những nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc
độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước là do tình trạng nghèo nàn về cơ
sở vật chất, sự thiếu hụt về nguồn vốn… thì ngày nay, trở ngại chủ yếu nhất được
xác định chính là sự hạn chế về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người.
Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo sự phát triển
mạnh mẽ và nhanh chóng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; cùng với
đó là quá trình toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các nước
đang phát triển có thể khắc phục sự yếu kém về trình độ khoa học – kỹ thuật của
mình thông qua con đường hợp tác, có thể giải quyết các vấn đề khó khăn như
thiếu hụt nguồn vốn dựa trên quan hệ đầu tư, vay vốn và bằng nhiều hình thức
khác. Nhưng, có một vấn đề đặc biệt quan trọng mà để đảm bảo sự phát triển
bền vững, các nước phải nhanh chóng giải quyết một cách có hiệu quả, đó là
xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Có thể nói,
việc xây dựng và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ và
sức sáng tạo của con người, trước hết và chủ yếu là nỗ lực tự thân thông qua
nhiều biện pháp khác nhau của từng quốc gia
5
II. Thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta
Hiện nay hàng năm nước ta có khoảng 1,2 - 1,3 triệu người bước vào độ
tuổi lao động tuy nhiên theo số liệu thống kê của Tổng cục dạy nghề thì số
người được đào tạo nghề năm sau tăng so với năm trước nhưng chủ yếu là được
đào tạo ngắn hạn, thiếu bài bản và chưa sát thực tế do vậy số lượng lao động có
trình độ tay nghề cao, công nhân kỹ thuật bậc cao. Với số người bước vào tuổi
lao động hàng năm như trên là nguồn tuyển sinh rất lớn cho các cơ sở đào tạo
dạy nghề, các trường trung cấp, cao đẳng nghề nhưng trong thực tế số người
theo học tại các cơ sở dạy nghề rất ít, chất lượng đào tạo không tốt, nhiều ngành
nghề không đáp ứng yêu cầu xã hội, đào tạo chủ yếu là lý thuyết không bám sát
vào ngành nghề công việc thực tế xã hội cần do vậy gây ra sự lãng phí về sự đầu
tư của người dân và xã hội, làm mất cơ hội nâng cao chất lượng và hiệu quả sử
dụng nguồn nhân lực. Đây thực sự là vấn đề rất đáng báo động về chất lượng
nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập
quốc tế. Lực lượng lao động ở nước ta vẫn trong tình trạng thiếu các kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, yếu kém về tin học,
ngoại ngữ, thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo đức nghề nghiệp chưa cao, thiếu
tinh thần và ý thức trách nhiệm trong công việc, tự do, tùy tiện, chậm thích nghi
với môi trường làm việc mới,… Năng lực đổi mới và sáng tạo khoa học và công
nghệ của lực lượng lao động có trình độ cao còn nhiều yếu kém.
Nhiều năm qua, chúng ta đã cảnh báo về tình trạng sinh viên tốt nghiệp ở
các trường đại học, cao đẳng rất yếu cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp, dẫn đến tình trạng thất nghiệp nhiều, năng suất lao động thấp nhưng
chưa có biện pháp tháo gỡ. Cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo và cơ cấu vùng
miền trong các lĩnh vực kinh tế ngày càng mất cân đối nghiêm trọng. Hiện nay,
quan niệm về chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực trong các khu vực kinh tế ở
nước ta đã lạc hậu so với quan niệm của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam
6
vẫn chỉ coi trọng bằng cấp, coi lao động có bằng cấp cao là chất lượng cao. Tất
cả những yếu kém nêu trên đã nhiều lần được cảnh báo nhưng chưa có giải pháp
khắc phục.
Qua các báo cáo cho thấy, đa số lao động tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất trẻ, tuổi đời từ 18 – 25; khoảng 80% người lao động trong khu công
nghiệp, khu chế xuất là lao động học hết THCS, THPT không có chuyên môn
kỹ thuật, nhiều doanh nghiệp có tới 60% đến 70% là lao động nữ. Điều này cho
thấy số lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ quá thấp; tỷ lệ nữ làm công nhân ở các
khu công nghiệp, khu chế xuất quá cao. Sự mất cân đối về giới ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất là quá lớn đã kéo theo nhiều hệ lụy không tốt trong các
khu công nghiệp, khu chế xuất. Có ý kiến cho rằng, sau một số năm, nhiều công
nhân, nhất là lao động nữ bị doanh nghiệp sa thải do chất lượng và năng suất lao
động thấp và không có chuyên môn kỹ thuật; một số khác do áp lực công việc
cũng tự xin nghỉ việc. Đây là những vấn đề bức xúc cần nghiêm túc khảo sát và
đánh giá việc sử dụng lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất để có
chính sách sử dụng người lao động cho hợp lý, đồng thời nhanh chóng khắc
phục tình trạng đa số công nhân làm việc với tay nghề thấp và mất bình đẳng
giới nghiêm trọng trong lực lượng lao động tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất, từ đó đề phòng hậu quả gây bất ổn xã hội do công nhân lớn tuổi bị sa thải
không tìm được việc làm.
Một nghịch lý đang diễn ra đó là, mặc dù các khu công nghiệp, khu chế
xuất luôn thiếu lao động, nhất là lao động có chuyên môn kỹ thuật, nhưng do
chất lượng lao động qua đào tạo thấp kém, nên nhiều doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không muốn nhận sinh viên, học sinh
học nghề, làm cho tỷ lệ người lao động qua đào tạo, nhất là lao động có trình độ
từ cử nhân trở lên không có việc làm, hoặc phải làm trái với nghề được đào tạo
ngày càng cao. Những năm gần đây, khoảng 80% cử nhân mới ra trường không
làm đúng nghề đào tạo, hàng trăm nghìn cử nhân phải xin làm công việc phổ
7
thông; 60-70% sinh viên tốt nghiệp không kiếm được việc làm ngay sau khi tốt
nghiệp, số lao động có trình độ cử nhân trở lên thất nghiệp tăng lên hàng năm.
Những tỷ lệ này không có chiều hướng suy giảm.
Có thể nói, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta ngày càng tụt hậu so
với nhiều nước trong khu vực, mất cân đối nghiêm trọng về trình độ đào tạo, cơ
cấu và giới; tình trạng thất nghiệp của lao động có bằng cấp cao ngày càng
nhiều. Dự báo trong những năm tới, nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, nhiều hợp tác song phương và đa phương sẽ được ký kết, sự di chuyển lao
động giữa các quốc gia sẽ diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh trong thị trường lao
động càng trở nên gay gắt, trong khi nhân lực của nước ta đang mất dần sức
cạnh tranh trên thị trường lao động trong khu vực và quốc tế, đây là thách thức
lớn đối với nước ta. Trước yêu cầu của thời kỳ hội nhập, nếu không có những
giải pháp tích cực thì những khó khăn của đất nước sẽ ngày càng nặng nề hơn,
nhất là khi nước ta phải thực hiện nhiều cam kết với các quốc gia, các tổ chức
quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế sẽ tạo sức ép và đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi
nước ta phải quyết liệt đổi mới căn bản nhiều mặt, mà trước hết là nhanh chóng
đổi mới công tác đào tạo nhân lực, nâng cao chất lượng của lao động theo tiêu
chuẩn quốc tế, nếu không muốn nước ta tụt hậu.
2.1. Những ưu nhược điểm của nguồn nhân lực nước ta hiện nay:
a. Ưu điểm:
Việt Nam có nguồn nhân lực trẻ và dồi dào. Do còn trẻ nên nguồn nhân
lực này dễ dàng tiếp thu kiến thức, khoa học kỹ thuật nhằm đáp ứng quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Con người Việt Nam ta vốn có tính
hiếu học, thông minh, cần cù, chịu khó và khéo tay, khả năng nắm bắt các kỹ
năng lao động, đặc biệt là các kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương
đối nhanh….Vì vậy nguồn nhân lực của nước ta nếu được đào tạo bài bản, đào
tạo tốt sẽ phát huy tác dụng để phục vụ tốt cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển nền kinh tế nước nhà. Trong thời gian qua chất lượng nguồn
nhân lực được thể hiện trên các mặt thể lực và trí lực cũng được cải thiện đáng
8
kể. Trình độ giáo dục của lao động Việt Nam đã được nâng cao hơn, tỉ lệ mù
chữ ngày càng giảm. Số lượng nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày
càng nhiều. Đội ngũ khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển.
b. Nhược điểm:
- Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo
vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu
sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
- Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu
so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất
là để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam
trong chuỗi giá trị đó.
- Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ
chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng
lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp;
vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
- Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng
ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế.
Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá
thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam.
- Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công
dân, ý thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể
người lao động chưa cao.
- Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế
giới. Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng
tăng chậm hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc,
Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
Trong công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế chuyển mình thành nước
công nghiệp thì nguồn nhân lực của nước ta phải đủ về số lượng, đạt về chất
9
lượng và phân bổ một cách hợp lý giữa các vùng miền, các thành phần kinh tế
để đáp ứng được quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
2. Thực trạng nguồn nhân lực của khu vực Tây Bắc.
a. Về quy mô:
Tây Bắc là vùng có quy mô nhân lực nhỏ, dân số chủ yếu tập trung tại
vùng nông thôn. Tính đến 1-4-2013, dân số vùng là 11.483.603 người, trong đó
dân số nông thôn chiếm đến 82,9%. Dân cư thưa thớt, mật độ thấp hơn so với
các khu vực (121 người/km2).
Cơ cấu dân số trẻ, số người thuộc nhóm dưới 15 tuổi là 3.082.271
(26,84%). Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động năm 2013 chiếm có
62,2% dân số (nam 15-60 tuổi, nữ 15-55 tuổi).
Những năm gần đây, quy mô nhân lực vùng Tây Bắc có xu hướng gia
tăng cả về số lượng và tỷ trọng trong cơ cấu lực lượng lao động cả nước. Năm
2013, 6 tỉnh Hoà Bình, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái và Lai Châu có
2.749,1 nghìn lao động, chiếm 5,16% lao động cả nước. Mặc dù tỷ trọng lao
động của vùng so với cả nước là nhỏ, song đã có sự gia tăng qua các năm từ
2005 đến nay. Đáng lưu ý là, tỷ trọng này cao hơn mức trung bình cả nước.
b. Về chất lượng:
Chất lượng nhân lực là một sự tổng hoà của nhiều chỉ số thành phần, có
thể đại diện bằng các chỉ tiêu như: tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ
thông, trung học cơ sở, đại học, cao đẳng, trường nghề trên quy mô dân số...
Trong những năm gần đây, đối với vùng Tây Bắc, các chỉ tiêu này có những
thay đổi tích cực ban đầu, song, vẫn bộc lộ rõ những khoảng cách lớn so với các
vùng khác trong toàn quốc.
Lực lượng lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo của vùng
Tây Bắc thấp hơn so với mức trung bình cả nước và không đồng đều giữa các
tỉnh. Ngoài Điện Biên và Hoà Bình có sự gia tăng đáng kể lực lượng lao động
10
đã qua đào tạo, các tỉnh còn lại gồm Sơn La, Lào Cai, Yên Bái và Lai Châu, tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo thấp hơn rõ rệt.
Nguồn nhân lực mỏng và ít được đào tạo. Năm 2013, mỗi tỉnh có khoảng
300- 700 nghìn lao động trên địa bàn. Với diện tích lớn và giàu tiềm năng kinh
tế, nguồn nhân lực như vậy chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.
Trình độ lao động chưa cao: năm 2013, tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên đã
qua đào tạo của Sơn La là 12%, Lào Cai là 16,2%, Yên Bái là 13,7%, Lai Châu
là 11,8% (cả nước là 17,9%). Hoà Bình có tín hiệu tốt hơn là 17,9% và Điện
Biên là 18,9%. Tỷ lệ này thể hiện phần nào chất lượng nhân lực vùng Tây Bắc,
có ảnh hưởng quan trọng đến các chính sách, mục tiêu phát triển của vùng. Tỷ
lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của các tỉnh vùng Tây Bắc thấp nhất trong
toàn quốc. Nếu như, tỷ lệ dân số biết chữ của cả nước là 94,8%, thì tỷ lệ này ở
vùng Tây Bắc chưa đạt được mức 90%.
Hoà Bình có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết lớn hơn mức
trung bình cả nước, các tỉnh còn lại tỷ lệ này đều thấp. Trong đó, Lai Châu có tỷ
lệ người biết chữ thuộc nhóm thấp nhất cả nước. Bên cạnh đó, những khó khăn
về phong tục, cách thức làm ăn truyền thống, ngôn ngữ, tập quán văn hoá đa
dạng,... là rào cản không nhỏ với sự phát triển nhân lực Tây Bắc.
Thực tế giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ nhân lực tại các tỉnh thuộc địa
bàn Tây Bắc gặp rất nhiều khó khăn; trình độ lao động lại có sự chênh lệch giữa
các tỉnh và biến động khó kiểm soát.
Ở bậc học phổ thông, nhìn chung, số lượng học sinh theo học của vùng
Tây Bắc có gia tăng qua các năm, song, hầu hết tập trung tại bậc tiểu học, số
học sinh theo học trung học cơ sở và trung học phổ thông ít. Học sinh tiểu học
chiếm hơn 50% trong số lượng học sinh của vùng. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học
phổ thông của các tỉnh Tây Bắc thuộc nhóm thấp nhất trong cả nước và có xu
hướng giảm.
11
Ở các cấp học cao hơn như đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề, số
lượng sinh viên theo học tại vùng Tây Bắc là rất ít và hầu hết theo học tại các
trường công lập. Đây là thực trạng chung của các vùng khó khăn và có sự cách
trở về địa lý như Tây Bắc.
3. Thực trạng nguồn nhân lực trên địa bàn Tỉnh Hòa Bình
Do đặc điểm vị trí địa lý Hòa Bình là một tỉnh miền núi Tây Bắc nên
cũng không tránh khỏi những tình trạng chung của khu vực. Tuy là một huyện
cửa ngõ của tỉnh Hòa Bình có địa giới hành chính tiếp giáp với Hà Nội nhưng là
địa bàn có nhiều dân tộc sinh sống do vậy tư duy, phong tục, tập quán của mỗi
dân tộc ảnh hưởng đến tác phong công nghiệp, trình độ văn hóa, chất lượng tay
nghề chưa cao chủ yếu là lao động phổ thông không qua đào tạo tay nghề trước
khi được tuyển dụng. Mặt khác do mật độ dân cư thưa thớt lại tập trung chủ yếu
sống ở nông thôn ngoài khu vực thị trấn và một số xã phụ cận thị trấn có giao
thông thuận lợi vẫn còn một số xã giao thông thi lại khó khăn, vẫn còn tình
trạng đường đất, mưa lũ có thể cô lập một số làng, xã ảnh hưởng đến quá trình
đi học văn hóa cũng như tham gia các lớp đào tạo tay nghề. Trên địa bàn tỉnh
hiện nay ngoài Trung tâm dạy nghề thuộc sự quản lý của các UBND huyện,
trường Cao đẳng nghề Sông Đà thì không có một cơ sở khác đào tạo tay nghề
cao, tri thức cao cho nguồn nhân lực địa phương trong khi trên địa bàn có khu
công nghiệp mới với rất nhiều công ty có 100% vốn nước ngoài và các doanh
nghiệp lớn nên rất cần nhân lực chất lượng cao, tay nghề tốt có trình độ chuyên
môn cao và thành thạo ngoại ngữ. Do tiếp giáp với Hà Nội nên một số lao động
có trình độ chuyên môn, tay nghề, nhân lực có chất lượng cao thường có xu
hướng làm việc tại Hà Nội với mức thu nhập cao hơn dẫn đến thiếu hụt nhân lực
chất lượng cao cho địa phương.
Theo Sở Lao động Thương binh và Xã hội, tỷ lệ lao động qua đào tạo trên
địa bàn tỉnh tăng từ 29,1% năm 2011 lên 45% năm 2015. Trong 5 năm, đã mở
415 lớp cho 33.507 lượt học viên được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ; 359 cán
bộ, công chức, viên chức được cử đi tu nghiệp, bồi dưỡng trong và ngoài nước.
12
Bên cạnh đó, tỉnh ta đã tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các hoạt động dạy
và học tại các nhà trường; rà soát các trường tiểu học và THCS có quy mô nhỏ
để kiện toàn, sắp xếp lại cho phù hợp, tinh gọn, hoạt động hiệu quả. Cùng với
đó, mạng lưới cơ sở dạy nghề được đầu tư mở rộng. Đến nay toàn tỉnh có 40
đơn vị dạy nghề; cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng và phong phú theo nhu
cầu của xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực trong tỉnh được xây dựng theo
hướng toàn diện về đạo đức, trí tuệ, trẻ hóa có khả năng thích ứng với môi
trường lao động. 100% cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh đạt chuẩn theo
quy định. Trong đó, cán bộ công chức có trình độ chuyên môn đại học và trên
đại học chiếm tỷ lệ 74,3%, cao đẳng, trung cấp chiếm 23,41%; trình độ lý luận
chính trị cao cấp, cử nhân chiếm 14%; trung cấp chiếm 6,15%. Đội ngũ doanh
nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp có đủ trình độ ngày càng phát triển đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, an ninh- quốc phòng của địa phương và
năng lực cạnh tranh hội nhập ngày càng sâu rộng.
Những năm qua, nhờ sự quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực đã
góp phần thúc đẩy nền kinh tế trên địa bàn tỉnh tăng trưởng khá nhanh. Theo đó,
giai đoạn 2010- 2015, tăng trưởng kinh tế (tính theo GDP, không tính thủy điện
Hòa Bình) đạt 7,2%/năm; tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, các
ngành kinh tế đều tăng trưởng khá và ổn định. Trong đó: công nghiệp- xây dựng
chiếm 40,2%, dịch vụ chiếm 34,5%, nông nghiệp chiếm 25,3%. Thu nhập bình
quân đầu người năm 2015 ước đạt 32,2 triệu đồng/năm; cao gấp 2,5 lần so với
năm 2010, cao hơn trung bình khu vực miền núi phía Bắc khoảng 6,2 triệu
đồng; góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo trong tỉnh giảm từ 31,5% đầu năm 2011
xuống còn 13,7% (năm 2015)... Những kết quả có được là nhờ sự quan tâm vào
cuộc của cả hệ thống chính trị, bên cạnh đó là sự tham gia tích cực, có hiệu quả
của các cấp, ngành và toàn xã hội
III. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
1. Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ra
13
Một là, đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực
Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển
nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả
hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan
chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực
trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển
kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển nhân lực
(bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập,
bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư,
chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài). Cải
tiến và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia
phát triển nhân lực.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia
đến năm 2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng
trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân
sách nhà nước theo hướng tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm
vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ
đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa, cho các đối tượng là người
dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên cứu đổi mới cơ chế phân bổ
và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ hỗ trợ cho các đơn
vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm công
bằng giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát
triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của
người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực
tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể
thao; Góp vốn, mua công trái, hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực.
Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo
14
điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi
dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ sở
giáo dục, đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học, cao đẳng,
hỗ trợ người lao động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài
cho phát triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước
ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước
ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào
tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Ba là, đổi mới giáo dục và đào tạo
Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt
Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Cần quán triệt
và triển khai quyết liệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của Hội nghị
Trung ương 8 khoá XI và Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09-6-2014 của Chính
phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số
29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trước mắt, cần tập trung vào một số nội
dung sau đây:
Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân
tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ
chức lại mạng lưới giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở
quy mô đào tạo, cơ cấu ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
cả nước, vùng, miền và địa phương. Thực hiện phân tầng giáo dục đại học.
Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình
đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng
15
tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào
những nội dung, kỹ năng người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên
thông giữa các bậc học, cấp học, giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Đa dạng hoá các phương thức đào tạo. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử
dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và
đánh giá năng lực người học.
Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách
mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào
tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định,
đánh giá theo kết quả đầu ra của giáo dục và đào tạo.
Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao
chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào
tạo. Đặc biệt chú trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách
đối với các trường sư phạm trên phạm vi cả nước.
Bốn là, chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn
nhân lực Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không
trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký
kết, cam kết thực hiện.
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây
dựng nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định
hướng phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên
thông chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của
Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận lẫn nhau chương trình đào tạo giữa
các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế giới; thỏa thuận về việc
công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các nước.
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào
16
tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ
giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa
học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài
tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công
nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động
các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường
đại học, cao đẳng và dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học,
dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.
Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế
giới, kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, làm cho cán bộ, công chức của toàn bộ hệ thông chính trị các cấp, các
tầng lớp nhân dân, các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và
trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi
thế để phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế
17
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh
Hòa Binh
Về cơ bản, nguồn nhân lực Tây Bắc đã có nhiều cải thiện trong những
năm vừa qua. Điều đó chứng minh cho sự đầu tư đúng đắn của Đảng và Nhà
nước vào phát triển kinh tế của một vùng mang nhiều ý nghĩa trên các lĩnh vực
như Tây Bắc. Song, với các đặc trưng riêng biệt, công tác phát triển nhân lực
vùng Tây Bắc nói chung và tỉnh Hòa Bình nói riêng vẫn gặp không ít khó
khăn.
Thời gian tới, tỉnh Hòa Bình sẽ tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thực hiện tốt công tác dạy nghề cho lao
động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ
tướng Chính phủ. Tập trung dạy nghề chất lượng cao, đột phá vào các ngành
kinh tế mũi nhọn, các lĩnh vực trọng tâm của tỉnh như: vận tải, sản xuất điện, du
lịch. Tiếp tục huy động các nhà khoa học, nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, thợ bậc
cao tại các doanh nghiệp tham gia hướng dẫn, đào tạo nghề. Gắn đào tạo nghề
với nhu cầu sản xuất và tạo việc làm cho người lao động. Bên cạnh việc thực
hiện chính sách thu hút nhân tà, ưu tiên tuyển dụng các sinh viên tốt nghiệp đại
học loại khá, giỏi về công tác tại tỉnh, và đưa đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước
và nước ngoài. Đồng thời xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ,
đặc biệt là đội ngũ chuyên gia đầu ngành có khả năng tư vấn hoạch định, tổ
chức triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án phát
triển ở các ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội trọng yếu của tỉnh.
Mục tiêu cụ thể sẽ là tạo sự chuyển biến căn bản và toàn diện về chất
lượng nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, vùng thủ đô
và yêu cầu của hội nhập quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, nâng tỷ lệ lao động
qua đào tạo trên địa bàn tỉnh đạt 65%; trên 40% giảng viên cao đẳng tại các cơ
sở đào tạo có trình độ từ thạc sỹ trở lên; tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo; phấn
đấu đạt 150 sinh viên đại học, cao đẳng/10.000 dân. Trên 90% sinh viên, học
18
viên sau khi tôt nghiệp có đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ đáp ứng yêu
cầu công việc. Cán bộ lãnh đạo cấp xã có trình độ trung cấp trở lên ở vùng I,
vùng II đạt 90%; vùng III đạt 70%; đến năm 2020 tỷ lệ cán bộ lãnh đạo xã có
trình độ đại học, cao đẳng vùng I, vùng II đạt 20% trở lên; 80% cán bộ lãnh đạo
các xã vùng III có trình độ trung cấp chuyên môn, nghiệp vụ. Trong số cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở trên bảo đảm cơ cấu có từ 20 đến 30% cán bộ giữ chức danh
lãnh đạo là nữ… Từ nay đến năm 2020, tỉnh Hòa Bình dự kiến huy động kinh
phí 709 tỷ đồng cho bồi dưỡng phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Với những giải pháp đồng bộ nêu trên, tỉnh ta đang từng bước
tạo đột phá trong phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tếxã hội và hội nhập quốc tế
19
KẾT LUẬN
Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, với những thách
thức chưa từng có. Vì vậy, Đảng ta đã xác định: “Con người là vốn quý nhất,
chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của nước ta, coi
việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi quyết định đến sự nghiệp công nghiệp,
hiện đại hóa, phát triển bền vững nền kinh tế nước nhà”.
Qua bài tiểu luận trên chúng ta có thể khẳng định rằng: bước sang thời kỳ
phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước theo định
hướng XHCN chúng ta phải phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng
kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện
tiến bộ công bằng xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải vì sự phát triển của con người Việt
Nam toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự
nghiệp đầy khó khăn, phức tạp nhưng tất yếu này.
20