Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ PHÁT TRIỂN KINH tế HÀNG hóa với vấn đề bảo đảm KINH tế CHO QUỐC PHÒNG TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.7 KB, 110 trang )

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Lý luận về sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới chủ
nghĩa xã hội là một trong những vấn đề đã và đang được tranh luận sôi nổi
trong giới khoa học và cả nhà lãnh đạo chính trị- xã hội ở tất cả các nước
xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, vấn đề này đã được Đảng ta đặt ra nghiên cứu, từng bước
nâng cao nhận thức để chỉ đạo thực hiện quá trình đổi mới về kinh tế- xã
hội. Đặc biệt là từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) quan điểm của Đảng về
vai trò của sản xuất hàng hoá trong thời kỳ quá độ đã có sự phát triển mới.
Nó có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đảng ta nhận định:
"Quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển
hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng
hoá"[159]. Đồng thời với quá trình đó Đảng ta đã chủ trương đổi mới cơ
chế quản lý, "Nhà nước, phải xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, sử dụng công cụ kế hoạch hoá và thông tin cùng với luật
pháp và các chính sách đòn bẩy để kiểm soát, hướng dẫn và điều tiết hoạt
động của các thành phần kinh tế" [106].
Những nhận thức và quan điểm mới đó đã góp phần chỉ đạo thực tiễn
hoạt động kinh tế ở nước ta. Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
nền kinh tế nước ta đã có sự khởi sắc đáng mừng: Thị trường sống động,
hàng hoá phong phú, đa dạng, việc mua bán thuận lợi, giá cả tương đối
bình ổn đã tạo được điều kiện để từng bước kiềm chế nạn lạm phát.
Trong những năm vừa qua, bên cạnh những mặt tích cực, việc xây
dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã làm nảy sinh nhiều hiện
tượng tiêu cực mới, lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bằng bất kể giá nào,
hiệu tượng vi phạm pháp luật tăng lên, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn


lậu, trốn thuế, xâm phạm nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và công


dân, nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn của nhau, thương mại hoá tràn lan,
kỷ luật, kỷ cương và pháp luật không nghiêm, bất công xã hội tăng lên…
Thực tiễn cho thấy công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng
xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có tăng cường tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự
giác, chủ động và sáng tạo, giảm bớt được sai lầm và những bước đi quanh
co, phức tạp. Việc tiếp tục nghiên cứu lý luận và thực tiễn sản xuất hàng
hoá dưới chủ nghĩa xã hội mong góp thêm tiếng nói nhằm thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi đường lối: "Tiếp tục xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế" [160] mà Đại hội
lần thứ VIII đã đề ra.
Sự chuyển hướng của nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp, tự
túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và thực hiện cơ chế thị
trươừng có sự quản lý của Nhà nước có tác động đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quốc phòng. Kinh tế hàng hoá phát triển
mọt mặt, làm tăng khả năng bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, mặt khác
cũng làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề cần được giải quyết: cơ chế bảo
đảm kinh tế cho quốc phòng, vấn đề ngân sách quốc phòng, phương thức
bảo đảm, tổ chức bộ máy bảo đảm… vấn đề bộ đội làm kinh tế như thế nào
cho phù hợp với quá trình đổi mới của nền kinh tế và cơ chế kinh tế. Việc
nghiên cứu làm rõ những hướng tác động cơ bản của quá trình đổi mới về
kinh tế đối với việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng. Trên cơ sở đó đề xuất
một số kiến nghị góp phần cải tiến cơ chế bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
trong điều kiện mới, thực hiện tốt việc kết hợp kinh tế với quốc phòng là
cần thiết và cấp bách.
Tình hình nghiên cứu vấn đề


vấn đề quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội đã có nhiều

tác giả nước ngoài và trong nước nghiên cứu [61], [107], [143], [155],
[171], [172], [173].
Những công trình này chủ yếu nghiên cứu quan hệ hàng hoá tiền tệ
dưới góc độ kinh tế- xã hội, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, quá trình đổi mới trong quản lý kinh tế với vấn đề củng
cố quóc phòng, xây dựng quân đội mới chỉ được đề cập ở một số khía cạnh
[94], [117], [149].
Luận án này nghiên cứu về sự vận động và những vấn đề cơ bản nhằm
phát triển nền kinh tế hàng hoá, đồng thời luận giải sự tác động của quá
trình đó đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng ở nước ta, mong đóng góp
một phần tìm ra những giảip pháp hợp lý nhất cho cả kinh tế và quốc
phòng. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và quá
trình đổi mới quản lý kinh tế có ảnh hưởng và tác động đến mọi mặt của sự
nghiệp củng cố quốc phòng. Luận án không có kinh nghiệm đề cập một
cách toàn diện, mà chỉ tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng cơ bản của
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và quá trình đổi mới cơ chế quản lý
đối với vấn đề bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong chặng đầu của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước có hoà bình.
Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: Phân tích sự phát triển của nền kinh tế hàng
hoá, quá trình đổi mới cơ ché kinh tế ở nước ta hiện nay nhằm làm rõ
những tác động của nó đối với việc bảo đảm kinh tế quốc phòng. Từ đó đề
xuất một số kiến nghị để tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác bảo
đảm kinh tế cho quốc phòng trong tình hình m[is với điều kiện hoà bình.
Luận án có nhiệm vụ
1. Trên cơ sở những tư duy kinh tế mới, tác giả luận giải một cách
khoa học tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế hàng hoá ở các


nước xã hội chủ nghĩa nói chung và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều

thành phần trong chặng đầu của thời kỳ quá trình ở nước ta nói riêng, đồng
thời luận chứng một số giải phóng cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế hàng hoá.
2. Luận giải những tác động cơ bản của quá trình chuyển nền kinh tế
kém phát triển, còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc sang kinh tế hàng
hoá và quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối với vấn đề bảo đảm
kinh tế cho quốc phòng, đề xuất một số giải phóng góp phần nâng cao hiệu
quả công tác bảo đảm kinh tế cho quốc phòng- một yêu cầu cấp bách của
thực tiễn hiện nay.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu :
Việc giải quyết các nhiệm vụ của luận án dựa trên cơ sở các luận điẻm
và tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin về kinh tế
chính trị học, học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin về chiến tranh và quân
đội, về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, lý luận kinh tế quân sự.
Các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, đặc biệt là văn kiện đại hội VI,
VIII và các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương của Bộ Chính trị,
các văn kiện của Nhà nước là những tài liệu quan trọng được dùng trong
việc xây dựng các luận đề khoa học. Luận án còn sử dụng một số luận điểm
của một số tác giả trong và ngoài nước đã được công bố trên các sách báo,
tạp chí; các số liệu của Tổng cụ Thống kê, các báo cáo tổng kết của Tổng
Cục Hậu cần; các chỉ thị ocủa Đảng uỷ quân sự Trung ương, Bộ Quốc
Phòng.
Về phương pháp nghiên cứu: luận án sử dụng phương pháp luận Mác
Lênin, và những phương pháp nghiên cứu cơ bản ucả khoa học kinh tế
chính trị m là trừu tượng hoá khoa học kết hợp lô gíc với lịch sử, đồng thời
kết hợp với các phương pháp so sánh, thống kê.v.v.
Những cái mới về mặt khoa học của luận án


- Trên cơ sở tư duy mới, tác giả trình bày một cách tương đố có hệ

thống những yếu tố quyết định sự tồn tại của kinh tế hàng hoá dưới chủ
nghĩa xã hội và vai trò to lớn của nền "kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác giả phân tích, đánh giá một cách khoa học
những ưu điểm và hạn chế của mô hình hình nền kinh tế và cơ chế quản lý
kinh tế trong những năm trước đây, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản
có ý nghĩa phương pháp luận nhằm khắc phục những tồn tại, tháo gỡ những
khó khăn đểt thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển.
- Tác giả luận chứng những tác động cơ bản của quá trình chuyển từ
nền kinh tế kém phát triển, còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc và cơ chế
quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với
vấn đề bảo đảm kinh tế cho quốc phòng và xây dựng quân đội trong chặng
đầu của thời kỳ thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó
tác giả đề xuất những hình thức, biện pháp thiết thực nhằm góp phần thúc
đẩy quá trình đổi mới cơ chế bảo đảm kinh tế cho quốc phòng phù hợp với
nền kinh tế đang có bước chuyển biến căn bản.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
Những kết quả nghiên cứu và những kết luận về mặt lý luận trong luận
án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan Nhà nước, quân đội
trong việc xây dựng cơ chế quản lý kinh tế mới, cải tiến cơ chế bảo đảm
kinh tế cho quốc phòng về xây dựng quân đội trong tình hình mới. Luận án
có thể dùng phục vụ cho công tác giảng dạy môn kinh tế chính trị, kinh tế quân sự trong các học viện và các nhà trường quân đội.
Kết cấu của luận án.
Luận án gồm: phần mở đầu, hai chương, phần kết luận, danh mục các
tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HOÁ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ

LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Mặc dù có tình trạng khủng hoảng và tan rã ở nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn là con đường phát triển tất yếu, hợp quy
luật trong thời đại ngày nay. Đó là con đường đã và đang được nhiều nước,
nhiều dân tộc trên thế giới lựa chọn, trong đó có nước ta. Sự tồn tại và
trưởng thành với thành tựu to lớn về xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã
làm biến đổi bộ mặt của nhiều nước và đã có tác dụng vô cùng to lớn đến
tiến trình phát triển của nhân loại trong nhiều thập kỷ qua kể từ cách mạng
tháng Mười vĩ đại cho đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX. Nhưng, cũng
phải thừa nhận rằng về mặt kinh tế do vận dụng một cách giáo điều lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, nên trong một thời gian dài các nước xã hội chủ
nghĩa đã có những quan niệm, nhận thức không đúng về sản xuất hàng hoá
dẫn đến những sai lầm về đường lối và một số chủ trương, chính sách kinh
tế. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng kìm hãm sự phát triển
của nhiều nước, dẫn tới khủng hoảng kinh tế và sự đổ bể của nhiều nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Một trong những vấn đề đã và đang được tranh luận trong nhiều thập
kỷ qua cho đến nay ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác là lý luận
về sản xuất hàng hoá, về quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội.


Ngày nay, đây vẫn là vấn đề phức tạp và bức thiết cần được làm sáng tỏ về
mặt lý luận và được giải quyết đúng đắn trong thực tiễn xây dựng nền kinh
tế - xã hội. Về vấn đề này, mấy năm nay Đảng ta đã khẳng định: "… phải
đổi mới về nhiều mặt; đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế" [159].
Phạm vi vấn đề mà cuộc sống đặt ra là rất lớn, đòi hỏi sự nghiên cứu và
giải quyết của nhiều nhà khoa học và lãnh đạo trong nhiều công trình
nghiên cứu lý luận, thực tiễn. Trong khuôn khổ của luận án này chỉ đề cập
một số vấn đề cơ bản có liên quan đến việc phát triển nền kinh tế hàng hoá,
kiến giải một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế

hàng hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.1. Phát triển kinh tế hàng hoá - con đường tất yế để đạt mục tiêu
dân giàu, nước mạnh
Từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời cho đến những năm gần đây, không ít
gf cho rằng kinh tế hàng hoá là tàn dư của chủ nghĩa tư bản và cần phải loại
trừ nó. Một thời gian dài kinh tế hàng hoá trở thành điều xa lạ đối với chủ
nghĩa xã hội và nếu ai nhấn mạnh chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá,
thực hiện quan hệ trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, tiền tệ thì bị coi
là đi ngược với chủ nghĩa xã hội, đi theo con đường phát triển chủ nghĩa tư
bản. Nhưng trên thực tế, trong các nước xã hội chủ nghĩa, hàng hoá và tiền
tệ vẫn tồn tại. Ở Liên Xô, từ những năm 1950 trở đi đã thừa nhận trên thực
tế sự tồn tại của các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, nhưng chỉ giới hạn ở các
vật phẩm tiêu dùng, còn các tư liệu sản xuất chủ yếu thì vẫn không được
coi là hàng hoá, không được phép đem trao đổi, mua bắn trên thị trường.
Đó là quan niệm "nửa vời" về sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nó đã chi phối
trong tư tưởng, nhận thức và được áp dụng trong việc hoạch định các chính
sách kinh tế ở hầu khắp các nước xã hội chủ nghĩa trong một thời gian khá
dài. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra sự trì trệ trong
kinh tế và sự khủng hoảng trong những năm gần đây ở nhiều nước xã hội
chủ nghĩa.


Khi xây dựng học thuyết về cách mạng vô sản và về một xã hội cộng
sản tương lai, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách biện chứng
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong xã hội tư
bản, mâu thuẫn đó tất yếu đưa đến cách mạng vô sản. Đồng thời cũng trên
cơ sở đó, hai ông cho rằng khi cách mạng vô sản thắng lợi cần phải thay
thế chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bằng chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất và lao động sẽ mang tính chất lao động xã hội trực tiếp, từ sản xuất
đến tiêu dùng không cần phải thông qua trao đổi. Do đó tính chất hàng hoá

của sản phẩm sẽ mất đi, nền kinh tế hàng hoá sẽ bị diệt vong. Tư tưởng đó
đã được Ph.Ăngghen viết: "một khi xã hội đã nắm quyền sở hữu các tư liệu
sản xuất, thì nền sản xuất hàng hoá cũng bị tiêu diệt và do đó tình trạng sản
phẩm chi phối người sản xuất cũng bị tiêu diệt"[15]. Quan điểm đó của
C.Mác và Ph.Ăngghen được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, phân tích mối
quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản ở
thế kỷ XVIII, XI. Theo lô gíc nghiên cứu phương thức sản xuất này các
ông đã dự kiến rằng, khi mâu thuẫn của xã hội tư bản đến độ chín muồi để
có thể nổ ra cách cách mạng vô sản, có nghĩa là tính chất xã hội hoá và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất rất cao để điều kiện thủ tiêu sản
xuất hàng hoá một khi chế độ công hữu về tư liêuu sản xuất được thiết lập.
Hơn nữa, dự kiến của các ông còn được xây dựng trên cơ sở nhận thức
rằng: cách mạng vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi khi nổ ra ở hầu
khắp các nước tư bản phát triển, những nước đã có nền kinh tế hàng hoá
phát triển rất cao.
V.I.Lênin, người kế tục sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen có
một thời gian cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng đó. Trong tác phẩm
"vấn đề ruộng đất ở Nga" (1908) ông đã viết: "Về chủ nghĩa xã hội thì ai
cũng biết rằng nó nhằm xoá bỏ nền kinh tế hàng hoá"[20].
Sau cách mạng tháng Mười là những năm thử nghiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đồng thời là những năm nội chiến gay gắt, V.I.Lênin đã chủ


trương thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, mà cốt lõi của nó là thực
tiễn chính sách trung thu, trưng mua lương thực thừa. chính sách đó phù
hợp với hoàn cảnh của nước Nga đương thời: nội chiến và sự bao vây của
chủ nghĩa đế quốc. Cuối 1920, đất nước Xô - viết ra khỏi chiến tranh,
chuyển sang xây dựng hoà bình, những biện pháp của chính sách cộng sản
thời chiến: thu toàn bộ lương thực thừa ở nông thôn bằng cách trưng mua;
tập trung công nghiệp và điều hoá toàn bộ đời sống bắng những biện pháp

hành chính thuần tuý.v.v.. lại được tiếp tục đẩy mạnh. Chỉ sau chứng ba
năm thực hiện chính sách đó, hàng loạt vấn đề xuất hiện và làm cho tình
hình kinh tế- xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Hoàn
cảnh đó buộc phải xem xét, đánh giá lại những quan niệm và những nhận
thức lý luận vedè kinh tế xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin đã xem xét lại tình
hình kinh tế xã hội và đã phân tích sâu sắc trên cả bình diện lý luận và thực
tiễn về mô hình kinh tế mới và đã dũng cảm sửa sai bằng cách đề ra chính
sách kinh tế mới. Chính sách kinh tế mới với nội dung chủ yếu là thực hiện
thuế lương thực, cho phép khôi phục và phát triển sản xuất và lưu thông
hàng hoá trong nông nghiệp và trao đổi sản phẩm giữa công nghiệp với
nông nghiệp thông qua thị trường để khơi dậy những khả năng phát triển
sản xuất vốn trước đây bì kìm hãm. V.I.Lênin viết: "… Ngày nay thương
mại là hòn đá thử vàng của sinh hoạt kinh tế của chúng ta …"[36]. Sau khi
chính sách kinh tế mới được thực hiện, tình hình kinh tế - xã hội được cải
thiện nhanh chóng, nước Nga Xô Viết không những đã khắc phục được hậu
quả của chiến tranh và nạn đối mà còn đưa mức sản xuất lên vượt cả mức
trước chiến tranh.
Song, trong khi khẳng định sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng
hoá V.I.Lênin cho rằng, sự thay đổi đó là do nhu cầu quan hệ giữa các
thành phần kinh tế với nhau chứ không phải do chính nguyên nhân nội tại
nằm ngay trong từng thành phàn kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, Người
đã chỉ ra những tư tưởng quan trọng: "Chúng ta không hề coi lý luận của


Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những
người xã hội xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu
họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống"[25].
Do đièu kiện lịch sử hạn chế và do chưa có thực tiễn đầy đủ, những
người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học chưa đưa ra được những quan

niệm hoàn chỉnh về sự cần thiết của sản xuất hàng hoá, của quan hệ hàng
hoá- tiền tệ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, một thời gian dài, đã xây dựng một nền kinh
tế với cơ chế quản lý tập trung và phân phối hiện vật trực tiếp là chủ yếu,
thu hẹp, hạn hoặcế các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Với nền kinh tế và cơ chế
quản lý đó, trong một thời gian các nước xã hội chủ nghĩa cũng đã đạt được
một số thành công nhất định như: xây dựng hàng loạt các xí nghiệp công
nghiệp nặng, nâng cao nhanh chóng tỷ trọng của công nghiệp trong tổng
sản phẩm xã hội, thu hút một số lớn lao động nông thôn ra thành phố, cải
tạo một bước quan trọng bộ mặt nông thôn. Nhưng từ giữa những năm
1950, những nhược điểm, những khuyết tật của nền kinh tế và cơ chế quản
lý kinh tế đó bắt đầu bộc lộ. Nhiều khó khăn nẩy sinh gây ra sự kìm hãm
tốc độ tăng trưởng kinh tế và kéo theo những căng thẳng về mặt xã hội.
Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm 60 của thế kỷ
này, đặc biệt là những năm gần đây ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đã
chứng tỏ rằng việc phủ nhận nền sản xuất hàng hoá và coi nhẹ các quan hệ
hàng hoá - tiền tệ là sai lầm. Nền sản xuất dựa trên những quan hệ phân
phối hiện vật trực tiếp và gắn liền với cơ chế quản lý theo kế hoạch tập
trung một cách cực đoan đã không bảo đảm được sự hình thành các tỷ lệ,
cơ cấu cân đối và tiên tiến trong nền kinh tế quốc dân, không giải quyết
thoả đáng lợi ích kinh tế của người lao động nên không kích thích được
nhiệt tình lao động, tính sáng tạo, các tiềm năng về nhân tài, vật lực của các
cá nhân và tập thể.


Trong khi đó, sự tăng trưởng của kinh tế hàng hoá ở một số nước tư
bản chủ nghĩa phát triển cho phép họ có thể giải quyết được nhiều vấn đề
mà trình độ kinh tế hàng hoá ở cuối thế kỷ XIX chưa thể làm. Trải qua
chặng đường dài tồn tại với bao biến động thăng trầm, đến nay kinh tế hàng
hoá vẫn tiếp tục phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều học giả đã

nhận xét: thời đại ngày nay là thời đại của kinh tế thị trường, của văn minh
ngang giá và lưu thông tự do. Nói như thế, không có nghĩa là chủ nghĩa tư
bản đã thắng chủ nghĩa xã hội mà là để khẳng định kinh tế háng hoá đã
thắng kinh tế tự nhiên và kinh tế hiện vật. Đó là nhận thức hết sức cơ bản
tạo định hướng cho quá trình đổi mới kinh tế hiện nay ở nước ta và các
nước khác.
Ngày nay, với tư duy kinh tế mới, các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang được sử dụng một cách
rộng rãi. Ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi thuận lợi
trong việc phát triển lực lượng sản xuất, mở rộng công lao động và nhiều
mặt khác trong đời sống kinh tế- xã hội.
Rõ ràng là sản xuất và trao đổi hàng hoá tồn tại khách quan khi có
phân công lao động xã hội và sự tồn tại của các hình thức sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất. Nó đã từng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất
khác nhau. Vấn đề khác nhau giữa các phương thức sản xuất ấy là ở chế độ
sở hữu tư liệu sản xuất, mục đích sản xuất của những chế độ kinh tế- xã hội
thống trị đương thời, Cái quyết định mục đích nền sản xuất hàng hoá tư bản
chủ nghĩa là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là nguồn gốc sâu xa của
mọi bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản. Khi quan hệ sản xuất thay
đổi thì mục đích của nền sản xuất hàng hoá cũng thay đổi theo. Vì vậy,
những quan niệm coi sản xuất hàng hoá đối lập với chủ nghĩa xã hội, cần
phải được loại trừ nó ra khỏi đời sống kinh tế xã hội , là những quan niệm
cực đoan duy ý chí, không có cơ sở lịch sử, lý luận và thực tiễn.


Trong các nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn những yếu tố quyết định sự
tồn tại và phát triển sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Hầu
hết các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội có tình trạng phổ biến là lực lượng
sản xuất phát triển thấp, không đồng đều giữa các ngành và các bộ phận
của nền kinh tế. Các chính sách nhằm phát triển sản xuất và cải tạo quan hệ

sản xuất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tuân theo yêu cầu của quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đồng thời có tính toán đầy đủ đến những yếu tố chính
trị, kinh tế- xã hội trong nước và những mối quan hệ kinh tế quốc tế. Do
vậy chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá phù hợp với yêu cầu của quy
luật trên.
Về mặt chế độ sở hữu thì trong quá trình cải tạo và xây dựng nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa, hai hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất
khác nhau ra đời: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Phạm vi và mức độ
chín muồi của tính chất lao động xã hội trực tiếp của hai khu vực sản xuất
thuộc hai hình thức sở hữu này cũng khác nhau, do đó mà hình thức phân
phối sản phẩm giữa chúng cũng không giống nhau. Mối liên hệ kinh tế giữa
các xí nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã được xây dựng trên cơ sở tính
toán đầy đủ lợi ích kinh tế của mỗi bên. Tao đổi hàng hoá một cách ngang
giá là con đường thích hợp nhất để giải quyết thoả đáng vấn đề này. Quan
hệ hàng hoá tiền tệ không chỉ áp dụng để xử lý những mối quan hệ giữa
kinh tế tập thể với kinh tế quốc doanh, giữa các hợp tác xã với nhau mà
ngay giữa các xí nghiệp quốc daonh với nhau cũng cần dựa trên mối quan
hệ này. Bởi vì chúng có sự khác nhau về hình thức, về trình độ kinh doanh
và do đó cũng có những lợi ích kinh tế khác nhau. Lợi ích này chỉ có thể
giải quyết thoả đáng thông qua thị trường.
Quan niệm về sở hữu toàn dân đối với tư liệu sản xuất trong những
năm gần đây đã có sự đổi mới. Sở hữu toàn dân thể hiện bản chất ưu việt
của chủ nghĩa xã hội. Song qua thực tiễn ngày càng có nhận thức rõ hơn sự


khác nhau giữa chế độ sở hữu toàn dân với quyền sử dụng tư liệu sản xuất.
Chế độ sở hữu toàn dân xác định rõ tư liệu sản xuất đó thuộc về toàn dân
mà Nhà nước là người đại diện. Còn quyền sử dụng các tư liệu sản xuất là
để xác định ai là người trực tiếp quản lý và sử dụng tư liệu sản xuất đó để

tạo ra sản phẩm. Nhà nước xã hội chủ nghĩa giao những tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu toàn dân cho tập thể lao động của mỗi xí nghiệp mà đại diện
là giám đốc xí nghiệp trực tiếp quản lý, sử dụng để sản xuất kinh doanh
trên cơ sở kế hoạch hướng dẫn của Nhà nước và yêu cầu của thị trường.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi xí nghiệp quốc doanh
đều chịu sự chi phối và hướng dẫn của kế hoạch vĩ mô, nhưng mỗi xí
nghiệp lại có lợi ích kinh tế khác nhau, tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động
kinh doanh của mình. Do đó mỗi xí nghiệp đều có lợi ích kinh tế tương đối
độc lập và quan hệ giữa các xí nghiệp với nhau phải tuân theo nguyên tắc
trao đổi ngang giá. Đó là nguyên tắc của kinh tế hàng hoá.
Trong thời kỳ quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, ngoài thành phần
kinh tế quốc doanh, còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác với hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Mối liên hệ kinh tế giữa chúng được
thiết lập thông qua quan hệ hàng hoá- tiền tệ trên thị trường thống nhất
trong cả nước. Trên thị trường việc trao đổi hàng hoá giữa các đơn vị kinh
tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, kể cả các đơn vị kinh tế quốc
doanh cũng như giữa người sản xuất với người tiêu dùng đều phải dựa trên
cơ sở giá trị cuả sản phẩm được thể hiện bằng tiền và sự chi phối của quy
luật cung- cầu.
Phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội còn
do yêu cầu khách quan của quan hệ kinh tế quốc tế. Công cuộc xây dựng
nền kinh tế mới đòi hỏi mỗi nước, đặc biệt là các nước chưa qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa cần phải tăng cường mở rộng sự liên doanh, thu
hút sự đầu tư của nước ngoài vào nền kinh tế trong nước và các quan hệ
thương mại, tín dụng quốc tế. Kinh nghiệm thực tế vừa qua của nhiều nước


đã cho thấy rằng: nước nào khép kín nền kinh tế, đóng cửa với bên ngoài
thì nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, sản xuất, kinh
doanh kém hiệu quả. Việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế- kỹ thuật, trao

đổi hàng hoá trên cơ sở bình đẳng, các bên cùng có lợi và tôn trọng chủ
quyền của nhau sẽ giúp cho mỗi nước tận dụng được nguồn vốn và kỹ thuật
tiên tiến từ bên ngoài để thúc đẩy quá trình xây dựng của mỗi nước.
Như vậy, việc phát triển kinh tế hàng hoá không phải là một yếu tố
ngoại lai, mà là một yêu cầu nội tại của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Những quan điểm có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy; sản xuất
và trao đổi hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội hiện nay là một giai đoạn tiếp
tục phát triển trong điều kiện của sản xuất hàng hoá vốn đã có trong các
hình thái kinh tế xã hội trước đó. Nhưng, bản chất và mục đích của sản
xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa có sự khá biệt nhất định so với sản xuất và
trao đổi hàng hoá từ chủ nghĩa tư bản trở về trước. Sự khác biệt này do
quan hệ sản xuất mới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa quyết định.
Nền kinh tế hàng hoá mà nước ta đang xây dựng là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Nền kinh tế hàng hoá phát triển, đồng nghĩa với nền kinh tế thị
trường: đó là một mô hình tổ chức nền kinh tế quốc dân, mà các hoạt động
của nó được hướng về thị trường và tuân theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị
trường đòi hỏi phải lấy sự điều tiết của thị trường làm nguyên tắc kỹ thuật
điều hành cơ bản.
Khác với nền kinh tế thị trường truyền thống, kinh tế thị trường hiện
đại đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước trong việc tham gia điều tiết
có ý thức đối với sự vận động của nền kinh tế. Thực tế cho thấy: hoạt động


của nền kinh tế ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều theo cơ chế
thị trường và có sự tham gia điều tiết của Nhà nước. Sự thật thì từ lâu nhiều
nước tư bản chủ nghĩa đã sử dụng thành công công cụ kế hoạch hoá nhằm

giảm bớt khuyết tật của thị trường và hầu hết các nước tư bản phát triển đã
dùng hình thức kế hoạch hoá phối hợp với các biện pháp khác để tạo ra tiến
độ tăng trưởng kinh tế cao.
Sự can thiệp của nhà nước bằng kế hoạch hoá và các công cụ khác để
giảm bớt khuyết tật của cơ chế thị trường và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế không phải là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa xã hội. Do
vậy, chúng ta cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm tốt về quản lý kinh tế
ngay của các nước tư bản chủ nghĩa. Song, sự can thiệp của Nhà nước vào
quá trình điều tiết có ý thức sự vận động của nền kinh tế giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản có sự khác nhau về căn bản. Nó thể hiện trước hết
ở sự khác nhau về mục đích của hình vi quản lý.Với chủ nghĩa xã hội, đó là
bảo đảm nâng cao không ngừng đời sống nhân dân, công bằng xã hội và
bảo đảm cho sự toàn thắng của chủ nghĩa xã hội, với xã hội tư bản chủ
nghĩa, đó là bảo đảm lợi nhuận tối đa cho các tập đoàn tư bản thống trị.
Dưới chủ nghĩa xã hội những thuộc tính và mối quan hệ giữa các
thuộc tính của hàng hoá đã mang những nội dung mới. Giá trị sử dụng của
hàng hoá không đơn thuần là phương tiện để mang giá trị. Nó đồng thời là
cái thể hiện mục đích của nền sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa, nhằm
thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng
tăng của xã hội. Giá trị hàng hoá là một trong những mục tiêu phấn đấu của
người sản xuất kinh doanh nhằm đặt lợi nhuận cao. Nhưng, đây không còn
là mục tiêu duy nhất, mà giá trị được coi là những phương tiện để tính toán
nhằm tạo ra được nhiều giá trị sử dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu, thị hiếu
của người tiêu dùng. Do đó việc theo đuổi giá trị phải luôn thống nhất với
việc cải tiến mẫu mã, chất lượng, công dụng hàng hoá.


Trong thời đại ngày nay việc phát triển nền kinh tế hàng hoá là một
quy luật phổ biến. Nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa không thể
không trở thành nền kinh tế hàng hoá phát triển. Nhưng do những điều kiện

cụ thể và điểm xuất phát của mỗi nước nên quá trình này vừa mang những
nét chung, vừa có những tính chất đặc thù.
Đối với nước ta, phát triển kinh tế hàng hoá là sự cần thiết tất yếu để
đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội, nước ta bước vào chặng đường đầu của thời kỳ quá độ với xuất phát
điểm là nền kinh tế vẫn ở tình trạng nông nghiệp lạc hậu và mang nặng tính
chất tự cấp, tự túc, lại chịu hậu quả của mấy chục năm chiến tranh. Gắn
liền với nền kinh tế đó là trình độ phân công lao động xã hội chưa phát
triển, trình độ khoa học, kỹ thuật lạc hậu, thị trường vừa khép kín, vừa bị
chia cắt theo địa giới hành chính và quản lý theo cơ chế tập thể trong quan
liêu bao cấp, các mối quan hệ thương mại và giao lưu kinh tế quốc tế rất
hạn hẹp.
Tất cả những cái đó đã dẫn đến kìm hãm lực lượng sản xuất xã hội và
hạn chế khả năng mở rộng phân công lao động xã hội, đưa nước ta lâm vào
một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Những quan niệm không đúng về
kinh tế hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến việc xây dựng mô hình,
cơ chế quản lý nền kinh tế và ban hành những chính sách không thích hợp.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân đã gây ra tình trạng trên.
Đã có những lúc, một số người cho rằng con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là con đường quá độ thẳng, trực tiếp, bỏ qua phát
triển kinh tế hàng hoá. Sự thừa nhận các quan hệ hàng hoá- tiền tệ chỉ là
hình thức.
Kinh nghiệm thực tiễn gần đây trên thế giới, những bài học mới về
phát triển kinh tế ở nước ta mấy năm qua chỉ ra rằng: cần phải xoá bỏ chế


độ quản lý tập trung, quan liêu bao cấp trong sản xuất và trao đổi. Cần phát
triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Vì mỗi thắng lợi của quá trình này đem lại một sức mạnh

mới cho nền kinh tế của đất nước, tạo đà đưa xã hội phát triển đi lên.
Những ảnh hưởng tích cực của nó thể hiện trên những mặt cơ bản sau đây:
Thứ nhất: kinh tế hàng hoá thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực
lượng sản xuất, phân công lao động xã hội trên cơ sở phát huy thế mạnh
của từng người, từng thành phần kinh tế, từng địa phương, từng đơn vị kinh
tế và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế nhằm xoả bỏ tình trạng kinh
tế nông nghiệp lạc hậu mang nặng tính chất tự cấp tự túc hiện nay. Phân
công lao động xã hội là một trong những điều kiện quyết định sự tồn tại và
phát triển của kinh tế hàng hoá. Song, kinh tế hàng hoá càng phát triển sẽ
mở rộng và nâng cao trình độ của sự phân công đó. Thị trường là người
trọng tài nghiêm khắc xác định đúng sai cho người sản xuất kinh doanh
trong việc lưạ chọn ngành nghề, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Nó kích
thích người sản xuất kinh doanh mở rộng ngành nghề, tăng cường liên kết
liên doanh, tạo ra quá trình xã hội hoá sản xuất ngày càng cao. Chủ trương
phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta đã khuyến khích nhiều gia đình, tập
thể, tự mình bỏ vốn hoặc hùn vốn để mua sắm tư liệu sản xuất, mở mang
sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán,
dịch vụ.v.v.. Những đóng góp đó thực tế đã làm cho nền kinh tế nước ta
khởi sắc và sống động hơn.
Thứ hai, kinh tế hàng hoá với những quy luật vận động của nó làm
cho năng suất, hiệu quả lao động tăng lên tạo ra được nhiều hàng hoá hơn,
chất lượng tốt hơn, và giá cả thấp hơn. Đó là những vấn đề có ý nghĩa to
lớn trong sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện và môi trường cho việc áp
dụng khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến.
Quy luật giá trị là quy luật chi phối mọi nền sản xuất hàng hoá. Cùng
với nó sự tác động của quy luật cung cầu làm cho mọi người sản xuất kinh


doanh phải coi năng suất, chất lượng, hiệu quả là vấn đề sống còn của
chính mình. Sự vận động của các quy luật này buộc người sản xuất kinh

doanh phải xoá bỏ thói quen trông chờ, ỷ lại, làm ăn được chăng hay chớ.
Nền kinh tế hàng hoá với cơ chế quản lý dựa trên cơ sở mở rộng
quyền tự chủ trong hạch toán kinh doanh của các đơn vị cơ sở, đòi hỏi mọi
người, từ giám đốc đến công nhân đều phải quan tâm đến sản phẩm cuối
cùng và nâng cao khả năng cạnh tranh của chúng trên thị trường. Sản xuất
kinh doanh có hiệu quả làm cho lợi nhuận thu được của mỗi đơn vị sản
xuất ngày càng tăng lên. Đây là điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng
và cải thiện đời sống mọi người trong các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vấn đề cạnh tranh là
điều tất nhiên. Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế
hàng hoá tạo ra môi trường, động lực cho khoa học kỹ thuật tiên tiến và
công nghệ mới phát triển và ứng dụng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu (khoá VI) đã chỉ rõ:
"Khoa học kỹ thuật chỉ có thể trở thành động lực phát triển kinh tế, xã hội
trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá và khi kết quả nghiên cứu khoa
học kỹ thuật cũng được coi là sản xuất hàng hoá" [106].
Thứ ba: Kinh tế hàng hoá với quan hệ trao đổi ngang giá là điều kiện
để giải phóng hợp lý các quan hệ về lợi ích, tạo động lực cho mọi hoạt
động kinh tế. Trên thị trường sự trao đổi ngang giá mang lại lợi ích thích
đáng cho ai đã đạt được năng lực chất lượng, hiệu quả trong sản xuất kinh
doanh. Đối với những cơ sở sản xuất hoạt động tốt, thu nhập và đời sống
của người lao động được cải thiện cũng là điều công bằng. Ngược lại, đối
với những đơn vị sản xuất hàng hoá kém chất lượng, giá thành cao, tiêu thụ
chậm, dẫn đến sản xuất đình đốn, thu nhập và đời sống của người lao động
gặp khó khăn. Điều đó buộc họ phải tìm cách vươn lên, tìm cách tháo gỡ
khó khăn. Chỉ có như vậy lợi ích mới trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy
sản xuất kinh doanh.


Thứ tư: Kinh tế hàng hoá thúc đẩy quan hệ hợp tác, liên kết, cạnh

tranh giữa các đơn vị kinh tế trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Người
sản xuất kinh đoanh phải tuân theo sự lựa chọn của người tiêu dùng, của
bạn hàng, thay cho sự điều khiển bằng mệnh lệnh hành chính. Vì vậy, kinh
tế hàng hoá góp phần thực hiện quyền dân chủ trong kinh tế, đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế.
Thứ năm: Kinh tế hàng hoá phát triển tạo điều kiện cho nền kinh tế
nước ta gắn với nền kinh tế thế giới, tham gia ngày càng sâu, rộng vào quá
trình phân công của và hợp tác lao động quốc tế, nâng cao các hình thức
kinh tế, đối ngoại.
Những căn cứ lý luận và thực tiễn sôi động ở nước ta trong những
năm gần đây cho thấy việc phát triển kinh tế hàng hoá là con đường tất yếu
để tạo ra động lực kinh tế-xã hội tổng hợp nhằm giải phóng và sử dụng mọi
năng lực sản xuất hiện có của cả nước, mỗi địa phương, mỗi ngành, từng
đơn vị cơ sở và của mỗi người lao động tạo điều kiện từng bước xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Vì nó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển lực lượng sản
xuất và quá trình xã hội hoá nền sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của
Đảng đã và đang tạo ra một sự chuyển hướng chiến lược trong toàn bộ nền
kinh tế. Sau vài năm thực hiện sự chuyển hướng đó, nền kinh tế nước ta đã
có bước phát triển đáng mừng. Trên mặt trận nông nghiệp, số lượng lương
thực tăng khá; năm 1976, sản lượng lương thực cả nước đạt 13,4 triệu tấn,
năm 1980 là 14,4 triệu tấn, năm 1985 là 18,2 triệu tấn, năm 1988 đạt 19,
149 triệu, năm 1989 là 21, 51 triệu tấn, năm 1990 là 21,5 triệu tấn [124].
Từ một nước luôn thiếu lương thực, với sản lượng tăng chưa nhiều nhưng
với sự tác động của cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hoá, sự phát triển của
thị trường đã đưa nước ta trở thành một nước không những tự cung cấp đủ
nhu cầu lương thực trong nước, mà còn tiến hành xuất khẩu lương thực.



Trên thị trường nông sản hàng hoá phong phú, việc trao đổi, mua bán thuận
lợi. Sau khó khăn ban đầu thực hiện cơ chế mới, sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, đến nay, đã từng bước thích ứng và đứng vững trong cơ
chế thị trường có quản lý của Nhà nước. Tình hình lạm phát, tốc độ lên
xuống thất thường của giá cả đã từng bước được giảm bớt, tạo ra được sự
ổn định và lòng tin trong nhân dân.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường dưới sự quản lý của Nhà nước bằng các chính sách, các đòn bảy
kinh tế, bằng pháp luật và kế hoạch ở nước ta trong chặng đường đầu của
thời kỳ qúa độ đang phát huy tác dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Ngày nay chúng ta không thể chấp nhận được những quan điểm, chủ
trương, biện pháp nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, muốn xoá bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, xây dựng sự độc tôn, độc
quyền các cơ sở kinh tế quốc doanh và hạn chế thị trường, Đó là sự phủ
nhận quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng ta đã nói rõ: "Chính sách kinh tế
nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất
nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện thuần dân chủ về kinh tế bảo đảm
cho mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp"[106].
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là nhằm khai thác mọi khả
năng về tư liệu sản xuất, vốn, tay nghề của mọi thành viên trong xã hội làm
tăng trưởng kinh tế kinh tế có lợi cho sự nghiệp xây dựng đất nước, có lợi
cho chủ nghĩa xã hội. Việc khai thác, sử dụng khả năng của các thành phần
kinh tế trong nước và tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại hướng vào thực
hiện các mục tiêu đã đề ra có ý nghĩa vô cùng to lớn, như V.I.Lênin đã viết:
"Chỉ khi nào những người cộng sản biết dùng bàn tay của người khác để
xây dựng nền kinh tế ấy và bản thân mình học tập giai cấp tư sản ấy và
hướng giai cấp ấy theo con đường mình muốn, khi đó chúng ta mới lãnh
đạo được nền kinh tế"[37].



Chủ trương của Đảng ta về phát triển nền sản xuất hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa khác về bản chất đối với quá
trình tư nhân hoá nền kinh tế đang được thực hiện ở một số nước trên thế
giới.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta không
phải là sự đập phá những thành tựu đó nhiều thế hệ đã phải đổi bằng
xương, máu, mồ hôi và công sức tạo dựng lên. Tính chất định hướng xã hội
của việc phát triển kinh tế thể hiện mục tiêu và con đường mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Mục đích sản xuất, kinh doanh của các
thành phần kinh tế tuy có khác nhau, nhưng đều phải phục vụ cho mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh. Đảng đã khẳng
định: "Phải giữa vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi
mới…" [160].
Các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền tự chủ sản xuất
kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh
tự nguyện. Nhưng, hoạt động của mọi doanh nghiệp đều phải đặt dưới sự
quản lý của Nhà nước, thông qua việc thực hiện các luật pháp, các chính
sách đã ban hành. Điều đó hạn chế được những tiêu cực do cơ chế thị
trường đẻ ra, giải phóng và phát huy được các tiềm nang trong xã hội, kiên
định mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ: "Để hạn chế và khắc
phục những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng
và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện
tốt vai trò quản lý về kinh tế- xã hội…"[160].
Chiều hướng xã hội chủ nghĩa của việc phát triển nền kinh tế phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sức mạnh của thành phần kinh tế quốc
doanh giữ vai trò quyết định. Nắm vững những ngành, những cơ sở và
những khâu then chốt của nền sản xuất xã hội, kinh tế quốc doanh phải tạo
được những hình mẫu về hiệu quả kinh doanh, về năng suất lao động và
thực hiện được vai trò chủ đạo trên thực tế. Nhà nước sử dụng thành phần



kinh tế này như một công cụ kinh tế góp phần điều tiết thị trường, giá cả và
hoạt động của các thành phần kinh tế khác theo kế hoạch vĩ mô đã được
vạch ra. Nhà nước vừa là người quản lý toàn bộ mọi quá trình hoạt động
của xã hội, vừa là người chủ sở hữu của cơ sở kinh tế quốc doanh. Cũng
như mọi người chủ sở hữu của các thành phần kinh tế khác, nhà nước có
trách nhiệm chăm lo đối với các đơn vị sản xuất thuộc quyền quản lý của
mình. Do đó, Nhà nước không thể loại trừ một chính sách có tác dụng hỗ
trợ nhằm củng cố và phát triển kinh tế quốc doanh. Nếu không có sự quan
tâm đúng mức của Nhà nước đối với kinh tế quốc doanh, suy cho cùng sẽ
làm suy yếu nền tảng kinh tế xã hội chủ nghĩa, sẽ làm mất đi một động lực
định hướng phát triển nền kinh tế của đất nước. Mặt khác, kinh tế quốc
doanh được củng cố và phát triển, thông qua việc cung ứng năng lượng,
nhiên liệu, thiết bị và những vật tư kỹ thuật quan trọng nó sẽ trở thành chỗ
dựa vững chắc cho các thành phần kinh tế khác phát triển mạnh mẽ hơn.
Nhưng, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế quốc doanh không được
làm cho đất nước trở lại chế độ bao cấp. Khi bàn về vai trò của kinh tế
quốc doanh. V.I.Lênin viết: "Kinh nghiệm sẽ chứng minh rằng tăng được
sản xuất và tăng được số lượng sản phẩm mà các xí nghiệp lớn xã hội chủ
nghĩa giao nộp cho Nhà nước thì chúng ta sẽ thúc đẩy sự trao đổi mới trên
đến mức nào, rằng sẽ khuyến khích và phát triển tiểu công nghiệp địa
phương đến mức nào, rằng hợp tác xã và thương nghiệp tư doanh, các chủ
xí nghiệp và các nhà tư bản chịu sự kiểm soát của Nhà nước, có tác dụng
như thế nào…"[34]. Đảng ta đã chủ trương, "kinh tế quốc doanh được củng
cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những
doanh nghiệp trọng yếu, đảm đương những hoạt động mà các thành phần
kinh tế khác không có điều kiện đầu tư kinh doanh… thực hiện vai trò chủ
đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước"[160].
Trong chặng đầu của thời kỳ quá độ, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần ở nước ta tập trung nỗ lực phát triển những ngành, nghề nhằm thực


hiện thắng lợi ba chương trình kinh tế lớn đã được Đảng ta đề ra: Lương
thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các đơn vị sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế có thể độc lập, hoặc liên kết, liên
doanh để tổ chức việc sản xuất, kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Nhà
nước thực hiện những chính sách nhằm khuyến khích các cơ sở sản xuất có
đóng góp tích cực và hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu đó như:
chính sách giá đối với nông sản, chính sách thuế đối với các cơ sở sản xuất
hàng xuất khẩu.v.v. Thông qua hàng loạt các chính sách và biện pháp kinh
tế phù hợp, Nhà nước có thể hướng dẫn các thành phần kinh tế chủ động,
tích cực tham gia thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội đã đặt ra.
Đối với nước ta, một nước đi lên xã hội chủ nghĩa từ một nền kinh tế
kém phát triển, còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc, thì việc phát triển
nền kinh tế hàng hoá có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Đó là con đường tốt nhất để
phát triển lực lượng sản xuất, mở rộng phân công lao động xã hội, nâng cao
khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ
thuật cần thiết của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa tương lai và từng
bước cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Như vậy, có
thể nói rằng phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một vấn đề hợp
quy luật để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, từng bước tạo điều kiện xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
I.2. Một số vấn đề cơ bản cần giải phóng để đổi mới sự phát triển
kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay
Việc mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hoá ở nước ta phụ thuộc
vào việc giải quyết một cách tổng hợp, đồng bộ hàng loạt các vấn đề kinh
tế- xã hội nhằm khai thác tốt nhất mọi nguồn lao động, tiềm năng, tài
nguyên của đất nước và thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến
của nước ngoài. Những nỗ lực chủ yếu trong giai đoạn trước mắt cũng như

lâu dài cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau đây:


a) Đẩy mạnh quá trình phân công lao động xã hội nhằm sử dụng có
hiệu quả mọi năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế.
Để phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
vấn đề mang tính chất giải pháp đầu tiên là tăng cường phân công lao động
xã hội, mở mang ngành nghề nhằm giải quyết công ăn việc làm, phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phân công lao động xã hội là biểu hiện trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội càng phát triển, có nghĩa
là sự phát triển ngày càng nhiều các ngành, các nghề và sự chuyên môn hóa
sản xuất ngày càng cao. Đó cũng là quá trình phát triển về sự hiệp tác và
trao đổi lên nhau giữa những ngành, những cơ sở và những người sản xuất
khác nhau trong xã hội.
Phân công lao động xã hội là cơ sở của sản xuất hàng hoá. Nhưng mặt
khác, kinh tế hàng hoá phát triển sẽ đưa đến chỗ làm tăng thêm số lượng
các ngành công nghiệp riêng biệt, xu hướng của sự nghiệp phát triển này là
nhằm biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng mà cả việc sản
xuất từng bộ phân riêng của sản phẩm và không những việc sản xuất sản
phẩm mà thậm chí cả từng thao tác trong việc chế biến sản phẩm thành sản
phẩm tiêu dùng, thành một ngành công nghiệp riêng biệt. Điều đó có nghĩa
là kinh tế hàng hoá phát triển làm cho phân công lao động xã hội ngày càng
phát triển sâu, rộng hơn.
Trong mọi nền sản xuất hàng hoá, phân công lao động xã hội thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển và làm cho năng xuất lao động xã hội
tăng lên. Phân công lao động xã hội có mối quan hệ nhân quả với sự phát
triển của công cụ sản xuất và lực lượng sản xuất nói chung. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất quyết định sự phát triển của phân công lao động xã
hội và sự phát triển của lao động chuyên môn hoá, có nghĩa là ở mỗi một



giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất thì điều có sự phát
triển tương ứng của phân công lao động xã hội.
Ngược lại, sự phân công lao động xã hội phát triển, sự chia nhỏ quá
trình sản xuất một sản phẩm thành những công đoạn chuyên môn hoá khác
nhau, tạo điều kiện cho việc chuyên môn hoá lao động, thúc đẩy việc chế
tạo ra các máy móc chuyên dùng và ứng dụng chúng vào sản phẩm. Điều
đó lại tiếp tục làm cho lực lượng sản xuất phát triển lên một bước mới cao
hơn. C.Mác viết: "Bất cứ một sự phát sinh nào cũng đều đưa đến một sự
phân công lớn hơn, và đến lượt nó nổi lên phân công tăng lên lại đưa đến
những phát sinh mới về máy móc"[3].
Bước vào chặng đường của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, nền đại công nghiệp cơ khí chưa phát triển, lao động thủ công còn
phổ biến. Việc phát triển kinh tế hàng hoá, giải quyết công ăn, việc làm,
tăng năng suất lao động phải trên cơ sở mở rộng và tăng cường phân công
lao động, tận dụng mọi khả năng về nhân lực, tài nguyên trong phạm vi
toàn xã hội cũng như trong từng cơ sở sản xuất. Đây còn là một trong
những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ về mặt kỹ thuật. V.I.Lênin
viết: "Trong nền sản xuất dựa trên cơ sở lao động thủ công, kỹ thuật chỉ có
thể tiến bộ được dưới hình thức sự phân công thôi"[17].
Phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế được mở rộng sẽ thúc
đẩy việc cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất làm cho
nền kinh tế hàng hoá ở nước ta phát triển ngày càng phong phú và đa dạng.
Phân công lao động xã hội có quan hệ hữu cơ với quan hệ sản xuất.
Phân công lao động xã hội vừa là thước đo phản ánh tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, vừa là động lực thúc đẩy quá trình phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chịu sự quyết định của lực
lượng sản xuất, theo ý nghĩa đó phân công lao động xã hội góp phần củng
cố, phát triển quan hệ sản xuất.



×