CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
GIẢI PHÁP HỮU ÍCH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 1 ĐỌC TỐT HƠN
1. Họ và tên : Vũ Thị Hương
2. Chức vụ :Giáo viên
3. Đơn vị công tác: Trường PTDTBTTH Tân Thanh 2
I. Lý do chọn giải pháp hữu ích “ Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 1 đọc tốt hơn”
Bước vào lớp 1 – một sự khởi đầu mới mẻ không những cho
các em học sinh mà cả phụ huynh, vì các em chính thức bước vào một môi
trường mới, ở đây các em bắt đầu được học đọc, học viết. Đọc là một kĩ
năng quan trọng. Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh
một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp .Nếu kỹ năng
viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ
năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn
Tiếng Việt ở bậc tiểu học, đọc tốt các em có điều kiện học tốt các môn học
học khác có trong chương trình, nó còn giúp các em phát triển tư duy, cảm
nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu ,
đoạn văn , bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các
môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc
đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt
hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập
của các em đạt khá - giỏi.
Từ thực trạng và trăn trở nêu trên chính là lí do tôi áp dụng giải pháp hữu ích
“ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 đọc tốt hơn”.
II. Nội dung đề tài, sáng kiến, giải pháp hữu ích:
1. Thuận lợi
- Lớp có 20 học sinh
- Hầu hết các em đều 6 tuổi , độ tuổi của học sinh lớp 1( sinh năm
2009). Chỉ có một em sinh năm 2008. Các em đa số còn rất ngoan, biết vâng
lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động
viên khen thưởng.
- Có được sự quan tâm của một số phụ huynh về việc học tập của con
em mình. Có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường cho giáo
viên, và cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn
bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện
tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
- Ban đầu các em đã biết ghép và đọc được các tiếng đơn giản theo
chương trình sách Tiếng việt 1_CGD
2. Khó khăn
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp
một số khó khăn sau:
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em
phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ
hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học
trước quên sau, chậm tiến.
Ví dụ: Trong bài nguyên âm/ phụ âm các em đọc bài, viết bài trong vở
em tập viết, sang việc 4 các em còn phải viết chính tả luôn, nhiều em chưa
viết được “ a, bà, ba ạ”
- Do đặc trưng vùng miền nên các em chủ yếu phát âm sai l / n ; r/d ;
ch/tr, ang/an, at/ac…
- Còn một số phụ huynh trong lớp chưa quan tâm đúng mức đến việc
học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em học bài,
đọc bài ở nhà.
Kĩ năng đọc có một vị trí quan trọng như vậy, và còn vướng mắc một
số khó khăn nêu trên, nên ngay khi được nhận lớp, tôi áp dụng nhiều biện
pháp để giúp các em học chắc môn tiếng việt, và khoảng đầu tháng 9 tôi tiến
hành khảo sát, kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu
Giáo và kết quả điều tra năm thu được như sau:
Sĩ số lớp 1C
: 20 học sinh
Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
+ Học sinh không biết chữ cái nào
: 0 em
+ Biết 6 – 10 chữ cái
: 10 em
+ Nhận biết hết bảng chữ cái
:
10 em
+ Nhận biết âm hai chữ cái
:
2 em
Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng
chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lý
do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học
tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng
đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học
cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui
tươi và các em sẽ thích học.
3. Phạm vi áp dụng
Học sinh lớp 1C năm học 2015 - 2016
4. Thời gian áp dụng
Từ tháng 9 năm học 2015 – 2016
III. Giải pháp thực hiện
Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những
biện pháp cụ thể sau :
1. Biệp pháp tác động giáo dục
Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm
học:
-
Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần
thiết phục vụ cho môn học.
-
Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài, đọc bài ở
nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc,
các phát âm chữ cái, cách đánh phân tích theo cơ chế tách đôi của chương
trình Tiếng việt 1_CGD …để phụ huynh nắm rõ cách hỗ trợ giáo viên kèm
cặp con em mình ở nhà.
- Tự sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động.
Đồng thời tăng cường vận dụng Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học , qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em
hưng phấn trong luyện đọc .
- Xây dựng đôi bạn cùng tiến.
-
Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ
đầu năm , giáo viên nắm rõ trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức
độ. Đối với các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái
đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng
này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ
bản.
2. Phần học các nét cơ bản:
Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ
bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu
tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học
sinh dễ nhận biết và so sánh.Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân
biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi:
Nét sổ thẳng
Nét ngang
Nhóm 1: Nét xiên
\ Nét xiên phải
/ Nét xiên trái
Nhóm 2: Nét móc
Nét móc trên
Nét móc dưới
Nét móc hai đầu
Nhóm 3: Nét cong
Nét cong hở phải
Nét cong hở trái
Nét cong kín
Nhóm 4: Nét khuyết
Nét khuyết trên
Nét khuyết dưới
Nét thắt
Trong thời gian học các nét cơ bản, các em được học bài các vị trí:
trên/dưới, trong/ngoài,trái/phải, bài tiếng...giáo viên nên cho các em mạnh
dạn chơi các trò chơi luyện tập các kĩ năng, giúp các em học tập tốt hơn khi
học sang phần âm, vần.
3.Phần học âm:
Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ
bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì
mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng,
ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu.
Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng
chữ ghi âm và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in
khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ ghi âm a, chữ ghi âm g thì tôi
phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ ghi âm a hay chữ
ghi âm g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách trẻ dễ hiểu, dễ đọc
không bị lúng túng. Chương trình Tiếng việt 1_CGD, từ khi học chữ cái đầu
tiên trong bài “Nguyên âm – phụ âm” các em đã được đọc cả câu, các bài
sau thì đọc cả bài, vậy nên giáo viên cho các em luyện đọc nhiều theo cặp
theo tổ, đọc theo 4 mức độ, để việc đọc của các em tốt hơn.
Hướng dãn kĩ cho các em về cấu tạo của các chữ ghi âm, từ việc học
kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp trẻ phân biệt
được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi.
VD:
+ Âm d
:
gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên
phải. Đọc là : “ dờ”
+ Âm b :
gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở
bên trái. Đọc là : “bờ”.
Sang phần âm ghép. Sau khi học mỗi âm tôi viết âm đó vào bảng phụ và sắp
xếp cho các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống
nhau và khác nhau của các âm đó.
VD:
+ Các âm ghép:
ch
-
c
nh -
n
th
-
t
kh
-
k
gh
-
g
ph -
p
ngh -
ng
+ Còn lại tôi cho học kỹ về cấu tạo
+ Phân từng cặp :
ch - tr ,
ng - ngh,
c-k,
g – gh để học sinh phát
âm chính xác và viết chính tả. Đặc biệt với cặp c-k, g-gh, ng-ngh các em
được học luật chính tả nên mỗi lần gặp tiếng nào rơi vào trường hợp đặc biệt
đó tôi cho các em nhắc lại luật chính tả để các em đọc, phát âm đúng và ghi
nhớ cho việc viết chính tả sau đó.
- Các âm ghép đa số học sinh chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của
những âm này nên trong các bài ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc , ghép ,
viết, nhiều giúp các em ghi nhớ tên âm .
Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát
hiện sự tiến bộ của các em thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ…..
từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh.
4.Phần học vần
Sang giai đoạn học vần (tập 2, sách Tiếng việt 1_CGD) học sinh đã
nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa ở dòng
cuối cùng của mỗi trang, cả chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh
nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen:nhận diện,
phân tích cấu tạo của vần, nêu đúng các thành phần của mỗi vần, nhận biết
vị trí các âm trong vần để các em học vững.
VD:
Học vần an :
1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo và tên gọi thành phần vần an :
vần an gồm 2 âm, âm chính a và âm cuối n.
2/ Phân tích vần an :
• /an/ - /a/ - /n/ -/an/
• Đọc trơn: an
Trong mỗi bài các em được tìm tiếng mới bằng cách thay âm đầu và
thêm dấu thanh, giáo viên cho từng em nêu tiếng mới và cả lớp phân tích, để
các em biết thêm nhiều tiếng mới.
Ví dụ : Các em thêm âm đầu vào mô hình vần /ăn/ để được tiếng mới
- Các em tìm được tiếng mới: Lăn, nhăn, văn, khăn,hăn...
Với cách dạy phân tích, nhận diện và tìm tiếng mới nếu được áp dụng
thường xuyên như thế cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ
năng phân tích, nhận diện,đọc trơn được nhiều tiếng hơn một cách dễ dàng,
giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài daỵ, ở tập 2, sách
giáo khoa tiếng việt 1_CGD có các từ để phân biệt chính tả, bài tập đọc dài
để học sinh luyện đọc.Muốn cho học sinh đọc tốt giáo viên cho học sinh
nắm chắc các vần sau đó cho các em gạch chân các tiếng có chứa vần vừa
học để các em đọc.
Trước khi vào việc 1 nhắc mẫu vần đang học, cho các em thay âm để
được vần mới bằng cách vẽ mô hình vần đã học, cho các em tự thay để được
vần mới
VD: Dạy vần ăn cho học sinh vẽ mô hình bài trước (mô hình vần /an/). Hỏi
các em thay âm chính a bằng âm chính ă, được vần gì?
Sau khi học sinh nắm vững vần /ăn/ đọc được vần /ăn/ một cách chắc
chắn. Giáo viên tiếp tục cho các em thêm âm đầu để được tiếng mới, giáo
viên ghi bảng và các em phân tích từng tiengs khi bạn đọc lên.
5.Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học
chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng. Học sinh đạt chuẩn kiến thức kĩ năng đã
vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài tập đọc là các em
đọc được ngay tiếng, các tiếng đơn giản các em đọc khá nhanh vì khả năng
nhận biết tốt. Còn học sinh chưa đạt chuẩn các em nhận biết còn chậm, chưa
nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ
chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần
tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các
em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng
vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại
thụ động của học sinh. Cho học sinh phân tích theo cơ chế thách đôi tiếng,
vần, xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó đến tiếng kế tiếp lại
đọc trơn tiếng vừa phân tích rồi đọc lại từng cụm từ.
VD: Khi học sinh đọc bài tập đoc trong vần /uy/ bài ‘mụ phù thủy’ :
Học sinh chưa đọc được tiếng ‘thủy’, giáo viên nên cho các em che dấu và
đọc tiếng có thanh ngang trước, nếu các em chưa đọc được lại cho các em
phân tích vần /uy/ sau đó ghép lại với phụ âm đầu.
/uy/-/u/-/y-/uy/
/thuy-/th/-/uy/-/thuy/
-Phân công cho các em đọc theo cặp để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Khi mới giao nhiệm vụ tôi sẽ đi từng nhóm để kiểm tra kết quả, xem em đạt
chuẩn đã đọc lưu loát trôi chảy chưa, rồi chỉnh sửa cho các em, từ đó để em
giúp đỡ bạn. Và cho các nhóm thi đua với nhau để có kết quả tốt hơn
6. Kết quả
Qua kết quả của đợt kiểm tra vừa qua tôi thấy các em đã nắm được cơ
bản các âm vần đã học. Kết quả như sau:
-Học hết phần âm, chỉ còn một em chưa nắm vững các âm ghép. Còn
lại đã đọc được các tiếng. Các em không còn phát âm sai l/n, tr/ch nữa. Sang
phần vần các em nắm các vần tốt.
Điểm đọc: Giỏi: 6 học sinh
Khá: 10 học sinh
TB : 4 học sinh
VI. Bài học kinh nghiệm
Với kết quả đạt được như trên, tôi nhận thấy muốn học sinh lớp 1 đọc
tốt cần kết hợp nhiều biện pháp khác nhau: cần kết hợp giữa gia đình và nhà
trường để bám sát việc học của các em.
Ngay từ đầu cần bám sát và nắm chắc tình hình học tập của từng em
để định hướng các phương pháp dạy phù hợp. Lập nhóm đôi bạn cùng tiến
để các em thi đua học tập.
Khâu quan trọng nữa là GV phải hướng dẫn các em từ những nét cơ
bản đến âm, vần, quan tâm tận tình và giúp đỡ những em chưa đạt chuẩn để
các em tiến bộ, tự tin học tập cùng bạn bè.
V. Kết luận sư phạm
Qua một thời gian thực hiện giải pháp trên tôi muốn học sinh đọc tốt
hơn, đặc biệt là các em chưa đạt chuẩn thì việc quan tâm của giáo viên đến
các em, và việc theo sát để giảng dạy theo từng đối tượng, kịp thời uốn nắn,
đáp ứng đúng những điều các em còn chưa nắm vững về kiến thức kĩ năng,
sẽ giúp các em tiến bộ và nâng cao chất lượng đọc. Nhưng sự tiến bộ chung
của toàn lớp là nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu, nên người giáo viên vẫn phải
lấy trình độ chung của lớp để làm chuẩn mực để đưa chất lượng đọc của lớp
đi lên.
Tân Thanh, ngày 02 tháng 12 năm 2015
Ý kiến của lãnh đạo Đơn vị
Người thực hiện
Vũ Thị Hương
XÉT DUYỆT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN - GPHI
* Kết quả sơ duyệt của tổ tư vấn:
- Tổng điểm: ……………
- Kết quả: ……………….
Lâm Hà, ngày
tháng
năm 2014
TRƯỞNG PHÒNG
Nguyễn Văn Sinh