Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Thị xã quảng yên từ 1883 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.74 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thị xã Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh) đã từng có vai trò là trung tâm của
một vùng lãnh thổ biên ải rộng lớn ở Đông Bắc Tổ quốc và là vùng đất có
truyền thống văn hóa - lịch sử lâu đời. Tiếp đó, thời Pháp thuộc, quá trình cai
trị cuả thực dân Pháp đã làm cho Quảng Yên biến đổi dần từ một đô thị cổ
phong kiến thành một đô thị thuộc địa.
Với một bề dày truyền thống và vai trò quan trọng trong lịch sử như vậy,
nhưng trong suốt một thời gian dài kể từ sau giải phóng, do sự dịch chuyển
trung tâm chính trị - văn hóa - xã hội của tỉnh Quảng Ninh mà trong suốt một
thời gian dài, Quảng Yên hầu như đã bị lu mờ trong bức tranh phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nói
chung. Nhưng trong những năm gần đây, Quảng Yên đã có bước tăng trưởng
khá tương xứng với tiềm năng và có sự hoà nhập về định hướng phát triển
không gian đô thị, kinh tế, xã hội, văn hoá với Hạ Long và thành phố Hải
Phòng.
Cho đến nay vẫn còn những khoảng trống chưa được nghiên cứu và cả
những vấn đề cần được nghiên cứu, đánh giá lại đối với đô thị Quảng Yên. Do
đó, chúng tôi đã chọn đề tài “Thị xã Quảng Yên từ năm 1883 đến nay” làm luận
án tiến sĩ chuyên ngành Việt Nam học.

1


2. Mục đích nghiên cứu
Luận án tiếp cận đối tượng nghiên cứu là đô thị Quảng Yên theo định
hướng khu vực học để làm rõ một Quảng Yên đặc thù: một không gian lịch sử
- văn hóa với bề dày của một đô thị cổ và những đặc trưng lịch sử, văn hóa
riêng biệt. Căn cứ các tư liệu lịch sử và các nguồn tài liệu khác được nghiên
cứu từ thực địa, luận án sẽ trình bày một cách hệ thống về quá trình hình thành
và phát triển của thị xã Quảng Yên từ 1883 đến nay nhằm phác họa bức tranh


toàn cảnh về các phương diện hành chính, kinh tế, văn hóa và xã hội của
Quảng Yên trong hơn một thế kỉ qua;
Nghiên cứu của luận án nhằm góp phần làm rõ hơn vai trò của Quảng
Yên trong lịch sử; đánh giá vị trí, vai trò quan trọng của Quảng Yên trong phát
triển kinh tế xã hội của vành đai kinh tế biển và tam giác kinh tế phía bắc Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Thị xã Quảng Yên được nghiên cứu một cách
toàn diện đặt trong bối cảnh tổng thể với các khu vực phụ cận. Ý thức được
đầy đủ sứ mệnh của một đô thị nằm ở vị trí trung tâm của trục kinh tế động lực
ven biển Hải Phòng - Quảng Yên - Hạ Long trước nhu cầu Đổi mới và Hội
nhập quốc tế, trong bối cảnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và Toàn cầu hóa
sẽ giúp xây dựng một chiến lược tổng thể đưa Quảng Yên vươn lên một tầm
cao mới, xứng tầm với vị thế tương lai trong chiến lược phát triển chung của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và của đất nước.
Hiện nay vấn đề đô thị, đô thị hóa và quản lý đô thị ở Quảng Yên đang
đặt ra những bài toán cần được giải đáp. Quảng Yên cần được nhìn nhận và
tiếp cận là một hệ sinh thái nhân văn, một đô thị được quy hoạch dựa trên
những chức năng sinh thái và định hướng phát triển bền vững. Nghiên cứu cụ
thể về chính sách quản lý và hoạt động quy hoạch đô thị của Quảng Yên để từ
đó có những đánh giá khách quan, khoa học góp phần giúp cho các nhà quản lý
đô thị rút ra được những bài học cần thiết và bổ ích, xây dựng một đô thị
Quảng Yên hiện đại, phát triển bền vững.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình phát triển với tư cách là
một không gian lịch sử - văn hóa của thị xã Quảng Yên từ năm 1883 đến nay
(theo các phương diện chủ yếu như: thể chế; xây dựng đô thị; hoạt động kinh
tế, xã hội, văn hóa).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Không gian nghiên cứu của luận án là không gian lịch
sử - văn hóa Quảng Yên với trung tâm là thị xã Quảng Yên hiện nay.

+ Về thời gian: từ năm 1883 (từ khi Pháp chiếm thành tỉnh Quảng Yên)
cho đến nay (năm 2015). Tuy nhiên, để đảm bảo tính liên tục cũng như cái nhìn
2


tổng thể, đối sánh, thời gian nghiên cứu của luận án sẽ được mở rộng cả về thời
kì trước đó, hoặc kéo dài về sau (phần định hướng phát triển).
4. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu thứ nhất, là các thư tịch cổ, các tài liệu viết về Quảng Yên
trong thời kì phong kiến, gồm các bộ chính sử như: Đại Việt sử kí toàn thư,
Đại Nam thực lục…; sách địa chí như Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Đại Nam
nhất thống chí (tỉnh Quảng Yên), Đồng Khánh địa dư chí lược (tỉnh Quảng
Yên)...; các địa bạ lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.
Nguồn tư liệu thứ hai, là các ghi chép bằng tiếng Pháp của người Pháp về
Quảng Yên. Nguồn tư liệu này hiện được lưu trữ tại các trung tâm lưu trữ, các
thư viện trung ương và địa phương. Đây là nguồn tư liệu đa dạng, phong phú,
nhưng cũng chưa được giới nghiên cứu khai thác nhiều.
Nguồn tư liệu thứ ba, là các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh có
liên quan đến các vấn đề phát triển đô thị, kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó là các
văn bản, báo cáo, các tài liệu thống kê của địa phương qua các năm. Nguồn tư
liệu này cung cấp cho luận án các thông tin, số liệu thực tế của Quảng Yên qua
các năm, đồng thời cho thấy vị thế của Quảng Yên trong góc độ quan tâm của
chính quyền tỉnh Quảng Ninh tại các thời kì, các giai đoạn phát triển.
Nguồn tư liệu thứ tư là các tài liệu thu thập được trong quá trình điền dã
tại địa phương, bao gồm cả tài liệu chữ viết, tài liệu truyền miệng và tài liệu vật
chất.
Tất cả các tài liệu trên đều được so sánh, đối chiếu bằng các phương pháp
của sử liệu học và kiểm chứng trên thực tế; đồng thời có sự tham vấn của các
chuyên gia cả ở trung ương và địa phương.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp liên ngành: lý giải các sự kiện của khu vực trên nền tảng
tri thức tổng hợp về khu vực đó, trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội và hoàn cảnh lịch sử cũng như trong sự so sánh với các khu
vực khác.
- Phương pháp điền dã: Các hoạt động chính trong khi tiến hành phương
pháp này bao gồm: quan sát, mô tả, điều tra, ghi chép, chụp ảnh, quay phim tại
các điểm nghiên cứu; gặp gỡ, trao đổi với chính quyền địa phương, các cơ
quan quản lí tài nguyên, các cơ quan quản lí chuyên ngành ở địa phương; tham
gia các buổi hội thảo, tọa đàm.
- Phương pháp thống kê: những tài liệu thống kê của tình hình địa
phương liên quan đến nhiều lĩnh vực như kinh tế, môi trường, xã hội, là những
tài liệu mang tính định lượng.
3


- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tổng quan tài liệu có được cho phép
tiếp cận với những kết quả nghiên cứu trong quá khứ, cập nhật những vấn đề
trong tỉnh Quảng Ninh và khu vực. Việc phân loại, phân nhóm và phân tích các
dữ liệu sẽ giúp cho việc phát hiện những vấn đề trọng tâm và những khía cạnh
cần được tiếp cận của vấn đề. Trên cơ sở những tài liệu đã thu thập được và
những kết quả phân tích, việc tổng hợp sẽ giúp định hình một tài liệu toàn diện
và khái quát về chủ đề nghiên cứu.
Ngoài ra, trong từng nội dung cụ thể, chúng tôi còn kết hợp sử dụng các
phương pháp so sánh, định tính, định lượng… để giải quyết nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài.
6. Đóng góp của luận án
- Luận án đã dựng lại bức tranh toàn cảnh thị xã Quảng Yên theo dòng
lịch sử với nhiều màu sắc, dấu ấn lịch sử và những nét đặc trưng cơ bản của thị
xã Quảng Yên (theo các phương diện chủ yếu như: thiết chế chính sách, quy

hoạch và diện mạo đô thị; các hoạt động kinh tế; tình hình chính trị, xã hội và
lối sống, văn hóa). Đó là một không gian lịch sử - văn hóa với những đặc trưng
rõ nét. Đồng thời làm rõ vai trò của đô thị Quảng Yên trong bối cảnh khu vực
Đông Bắc, từ truyền thống cho đến hiện tại.
- Luận án đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, khoa học về quá
trình phát triển của thị xã Quảng Yên, đặc biệt là về những chính sách cụ thể
của các chính quyền qua từng thời kì. Bên cạnh đó, luận án cũng làm rõ một số
đặc điểm cơ bản của thị xã Quảng Yên để từ đó có cái nhìn so sánh với các đô
thị khác trong vùng.
- Phân tích những thuận lợi – cơ hội, khó khăn – thách thức đối với thị xã
Quảng Yên trong quá trình phát triển, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
phát triển bền vững thị xã Quảng Yên trong tương lai.
- Luận án góp phần nghiên cứu về lịch sử địa phương Quảng Yên nói
riêng và làm phong phú thêm những nghiên cứu về các vấn đề lịch sử Việt
Nam. Nội dung luận án và hệ thống tư liệu tham khảo được sưu tầm trong quá
trình nghiên cứu sẽ là nguồn tài liệu có giá trị phục vụ cho công tác nghiên cứu
và giảng dạy lịch sử cũng như công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa
phương. Đồng thời, thông qua kết quả nghiên cứu, luận án cũng góp phần giáo
dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho các thế hệ nhân dân Quảng Yên
nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án
“Thị xã Quảng Yên từ năm 1883 đến nay” bao gồm 4 chương, với nội dung
chính như sau:
4


Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn
nghiên cứu
Chương 2: Thị xã Quảng Yên từ năm 1883 đến 1955

Chương 3: Thị xã Quảng Yên từ năm 1955 đến 2015
Chương 4: Một số giải pháp phát triển bền vững thị xã Quảng Yên

5


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ
LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những tài liệu nghiên cứu gián tiếp đến thị xã Quảng Yên
Các tư liệu này tuy không nghiên cứu trực tiếp về đô thị Quảng Yên
nhưng rất có giá trị tham khảo cho luận án, có thể kể đến: “Thành cổ Việt
Nam” của Đỗ Văn Ninh; luận án Phó tiến sĩ lịch sử “Bộ máy cai trị hành chính
của chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm
1945” của Dương Kinh Quốc; Bộ sách “Lịch sử Thăng Long – Hà Nội” của
Phan Huy Lê; “Hải Phòng - nguồn gốc, điều kiện và thể thức phát triển đến
năm 1921” của Gilles Raffi…
1.1.2. Những tài liệu nghiên cứu trực tiếp đến thị xã Quảng Yên
Thời phong kiến, trong các bộ chính sử có đôi chỗ đề cập đến Quảng Yên
một cách sơ lược như trong Đại Việt sử kí toàn thư, Đại Nam thực lục…; sách
địa chí như Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Quảng
Yên), Đồng Khánh địa dư chí lược (tỉnh Quảng Yên)...
Cuối thế kỉ XIX, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cai trị và khai thác
thuộc địa, đã có một số nghiên cứu của các học giả người Pháp, tiêu biểu nhất
là “La question des ports du Tonkin: Hải Phòng, Quảng Yên, Hòn Gai (Vấn đề
ở cảng bắc Kỳ: Hải Phòng, Quảng Yên, Hòn Gai)” của tác giả J. Renaud năm
1886.
Sang thế kỉ XX, Quảng Yên đã được Pháp xây dựng thành một đô thị
chức năng, do đó các tài liệu nghiên cứu về vùng đất này, chủ yếu được tiến
hành bởi các quan chức (người Pháp và người Việt) của chính quyền thuộc địa

tại Quảng Yên: “Notice sur la province de Quang Yen” (Tiểu dẫn về tỉnh
Quảng Yên) năm 1932 của Công sứ tỉnh Quảng Yên; Notice sur la province de
Quang yen établie par un mandarin provincial, le Bo Chanh (dịch: Tiểu dẫn về
tỉnh Quảng Yên do quan Bố Chánh lập) cũng có nội dung phản ánh khái quát
về đặc điểm hành chính, những nét nổi bật của địa phương và các điều kiện
phát triển kinh tế.
Sau năm 1945, do những biến động của tình hình đất nước, đã có một
thời gian khá dài ít có những nghiên cứu về tình hình Quảng Yên. Từ cuối
những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, công tác nghiên cứu và biên soạn lịch
sử của tỉnh Quảng Ninh nói chung và Quảng Yên nói riêng mới được quan tâm
và chú trọng hơn nên đã có thêm những công trình nghiên cứu về Quảng Yên
được xuất bản, có thể kể đến:
- “Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Yên Hưng (19302000)” của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Yên Hưng xuất bản năm 2002.
6


- “Chiến thắng Bạch Đằng 938 và 1288” (Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn,
Nguyễn Quang Ngọc, 1988). “Lê Hoàn và chiến thắng Bạch Đằng năm 981”
(Nguyễn Quang Ngọc) nghiên cứu về vùng đất Quảng Yên gắn liền với chiến
thắng Bạch Đằng lịch sử.
- “Thông báo về cuộc điều tra, nghiên cứu các làng xã thuộc khu Hà
Nam, tỉnh Quảng Yên” của hai tác giả Huy Vu, Trần Lâm, in trong Nông thôn
Việt Nam trong lịch sử, tập 1, Nxb KHXH Hà Nội, 1977, tr 354-371 trình bày
về vấn đề ruộng đất, kinh tế nông nghiệp của thị xã Quảng Yên từ đầu thế kỉ
XIX đến đầu thế kỉ XX.
- Bộ sách Địa chí Quảng Ninh gồm 3 tập, xuất bản năm 2000. Trong bộ
sách này, những phần tư liệu về thị xã Quảng Yên chỉ chiếm dung lượng rất
nhỏ, mang tính khái quát, sơ lược song cũng là nguồn tư liệu rất cần thiết để
tham khảo cho luận án.
- Văn hoá Yên Hưng - lịch sử hình thành và phát triển và Văn hoá Yên

Hưng - di tích văn bia, câu đối, đại tự (Lê Đồng Sơn chủ biên, NXB Chính trị
Quốc gia 2008) đã tập hợp và hệ thống các tư liệu về lịch sử hình thành các
làng xã của huyện Yên Hưng và trấn lỵ Quảng Yên; di tích văn hóa – lịch sử,
cũng như các phong tục tập quán độc đáo nhằm bảo tồn vốn văn hóa lâu đời
của địa phương.
- Cuốn “Đô thị Quảng Yên - truyền thống và định hướng phát triển”
(Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, NXB Thế giới 2011).
Mặc dù gần đây các công trình nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp về thị
xã Quảng Yên ngày một nhiều, đã bước đầu phục dựng được bức tranh về lịch
sử hình thành của đô thị Quảng Yên, tìm hiểu về đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội của Quảng Yên, nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu
hoàn chỉnh và hệ thống về thị xã Quảng Yên từ truyền thống cho đến hiện tại,
đặc biệt từ năm 1883 đến 2015.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Phát triển bền vững
Theo Luật Bảo vệ môi trường, “phát triển bền vững là phát triển đáp ứng
được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp
ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa
giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.
Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí
và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế, phát triển xã
hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự
tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai
thác hợp lí, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và nâng cao được chất
lượng môi trường sống.
7


1.2.2. Đô thị và đô thị hóa
Theo Khoản 1, Điều 3 Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, đô thị là khu

vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh
vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn
hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại
thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn [130].
Trong phát triển đô thị, quá trình biến đổi có ý nghĩa quan trọng nhất là
đô thị hóa. Đô thị hóa là quá trình biến đổi xã hội về mặt hình thái cư trú và sản
xuất xã hội, từ xã hội ít văn minh đến hình thái xã hội văn minh hơn, từ sản
xuất phân tán, nông nghiệp là chủ yếu lên hình thái tập trung và sản xuất công
nghiệp, dịch vụ là chủ yếu. Đô thị hóa mang tính xã hội và phụ thuộc vào trình
độ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1.2.3. Phát triển đô thị bền vững
Phát triển đô thị bền vững là sự cụ thể hoá và phát triển của khái niệm
“phát triển bền vững”. Từ đó, có thể hiểu phát triển đô thị bền vững là sự phát
triển đô thị hài hoà về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường nhằm thoả mãn nhu
cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến lợi ích của các thế hệ tương
lai.
1.3. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Quảng Yên là thị xã ven biển nằm ở phía đông nam của tỉnh Quảng Ninh,
có diện tích tự nhiên 314,2km2. Vị trí toạ độ từ 20045’06” đến 21002’09” độ vĩ
Bắc và 106045’30”đến 10600’59” độ kinh Đông. Phía Bắc giáp thành phố Uông
Bí và huyện Hoành Bồ. Phía Nam giáp đảo Cát Hải và cửa Nam Triệu. Phía
đông giáp thành phố Hạ Long. Phía tây giáp huyện Thủy Nguyên của thành
phố Hải Phòng.
1.3.1.2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình: Địa hình chủ yếu của thị xã Quảng Yên là đồng bằng và bãi bồi
ven biển có xen lẫn đồi núi thấp của những dãy núi cánh cung Đông Triều chạy
ra biển. Toàn bộ Quảng Yên gần như nằm trọn về phía một nửa delta bồi tích

của sông Bạch Đằng mà nửa kia thuộc về Hải Phòng. Nhìn chung, địa hình thị
xã Quảng Yên được chia làm hai vùng có diện tích gần tương đương nhau là
Hà Nam và Hà Bắc với sông Chanh làm ranh giới.
Đất: Đất đồi núi có 6100 ha, chiếm 15,3% diện tích Quảng Yên, phân bố
ở khu vực phía Bắc thị xã, chủ yếu là đất feralit vàng đỏ trên đá mắcma axit và
đất feralit nâu vàng, xám vàng trên các đá trầm tích sa thạch, phiến thạch, đá
vôi. Đất đồng bằng có gần 14.800ha, chiếm 44,6% diện tích đất đai; gồm chủ
8


yếu là đất phù sa cổ và đất phù sa cũ nằm trong đê. Đất bãi bồi ở cửa sông, ven
biển gồm các loại đất mặn và đất cát có gần 12.300ha, chiếm 37,1% diện tích,
phân bố ở khu vực ven biển và cửa sông.
Khí hậu: Thị xã Quảng Yên có đặc trưng khí hậu của vùng ven biển miền
Bắc Việt Nam, khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung
bình hàng năm 23-340C, biên độ nhiệt theo mùa trung bình 6-70C, biên độ nhiệt
ngày khá lớn, trung bình 9-110C. Số giờ nắng dồi dào, trung bình 1700-1800
giờ/năm. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500-1600mm, cao nhất có thể
lên đến 2600mm, mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Bão là một hiện
tượng thời tiết đặc biệt trong vùng.
Sông ngòi: Sông ngòi ở Quảng Yên khá dày, hầu hết chảy theo hướng tây
bắc – đông nam rồi đổ ra biển qua các cửa sông. Lớn nhất là sông Bạch Đằng
do sông Giá và sông Đá Bạc hợp thành, dòng chính dài khoảng 8km, đổ ra biển
ở cửa Nam Triệu. Ngoài ra còn một số sông khác như: sông Chanh, sông
Khoai, sông Hốt, sông Bến Giang, sông Bình Hương và sông Yên Lập, các
sông này đều ngắn, diện tích lưu vực nhỏ. Khu vực Hà Nam và ven biển nước
bị ngấm mặn, ít sử dụng được, khu vực Hà Bắc nước ngọt đủ để khai thác và
sử dụng cho sinh hoạt.
Tài nguyên khoáng sản ở Quảng Yên chỉ có một số mỏ nhỏ gồm: đá vôi
phân bố chủ yếu trên đảo phường Hoàng Tân, trữ lượng trên 1 triệu m 3. Đất sét

trữ lượng tổng cộng khoảng trên 1 triệu m 3. Cát sỏi xây dựng phân bố chủ yếu
rải rác ven sông trong thị xã, trữ lượng vài triệu m3. Than đá có một vỉa nhỏ,
trữ lượng khoảng 20-30 vạn tấn.
Cảnh quan tự nhiên
Quảng Yên được thiên nhiên ưu đãi có điều kiện cảnh quan sinh thái đa
dạng bao gồm đầy đủ các cảnh quan sinh thái núi rừng, bờ biển và biển đảo,
khí hậu trong lành, có nhiều loài thủy hải sản là đặc sản trong vùng như sò,
ngán, ruốc, hà cồn, hà sú, cua bể, tôm...; nhiều loại hình ẩm thực đa dạng,
phong phú phù hợp cho phát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du lịch
sinh thái, du lịch về cội nguồn, du lịch di tích và lễ hội, du lịch đồng quê.
1.3.1.3. Điều kiện kinh tế xã hội
Dân số của thị xã Quảng Yên năm 2014 là 137.222 người. Mật độ dân số
trung bình là 437 người/km2 và phân bố không đều. Cơ cấu dân số thay đổi
theo hướng tăng tỷ lệ dân số nội thị, tỷ lệ dân số ngoại thị giảm. Tỷ lệ tăng dân
số năm 2014 là 1,1%.
Hiện nay trên địa bàn đã hình thành nhiều khu vực trồng lúa có năng suất
cao, vùng rau màu tập trung có giá trị lớn phục vụ cho chế biến và xuất khẩu.
Đây được coi là vùng nông nghiệp sinh thái đảm bảo môi trường. Việc chăn
9


nuôi gia súc gia cầm chủ yếu dưới hình thức hộ gia đình, mô hình trang trại còn
rất ít, do vậy năng suất chưa cao.
Quảng Yên có nhiều ưu thế về biển, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản có
tiềm năng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa, đặc biệt trong điều kiện tăng diện tích nuôi thâm canh và bán thâm
canh nhằm nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích.
Quảng Yên còn có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các khu công nghiệp,
các cụm công nghiệp với vị trí thuận lợi gần các cảng biển quốc tế và liền kề
thành phố Hạ Long, nguồn nhân lực tương đối dồi dào và quỹ đất xây dựng

còn lớn. Quảng Yên có các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn
phong phú, đa dạng, tạo ra sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch.
Quảng Yên có hệ thống giao thông đa dạng. Đây được coi là nguồn lực
thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho toàn thị xã.
1.3.2. Sự hình thành cộng đồng cư dân tại thị xã Quảng Yên
Vùng cửa sông Bạch Đằng là vị trí bản lề giữa vùng ven bờ biển Đông
Bắc và châu thổ sông Hồng. Quảng Yên lại nằm ở trung tâm của vùng cửa
sông. Khu vực này cộng đồng cư dân Việt đã hình thành và phát triển từ rất
sớm và cũng sớm hội được các lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa.
Thị xã Quảng Yên có hai vùng địa hình chính có diện tích tương đương
nhau, ngăn cách bởi sông Chanh nên gọi là Hà Bắc và Hà Nam. Trên đất Hà
Bắc, từ thời Lý đã có một vài làng quê được gọi chung là trại Yên Hưng. Vùng
đất Quảng Yên thời hậu Bạch Đằng dù sầm uất hơn trước nhưng cơ bản vẫn là
vùng đất còn khá thưa dân cư. Hoạt động dân cư Quảng Yên chủ yếu tập trung
ở dọc theo phần đất cao phía bắc sông Chanh (Hà Bắc). Sự biến đổi có tính đột
biến trong lịch sử dân cư vùng này bắt đầu rõ nét từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX,
gắn với công cuộc khai thác vùng đảo Hà Nam. Trong đó, công cuộc di dân từ
các vùng Thăng Long, Thái Bình, Nam Định đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
1.4. Tiểu kết chương 1
1. Đô thị Quảng Yên là vùng ven biển, nằm ở phía tây nam tỉnh Quảng
Ninh, có nhiều tiềm năng kinh tế được thiên nhiên ưu đãi: đó là vị trí địa lý bên
dòng sông Bạch Đằng lịch sử, cửa ngõ giao thông thủy quan trọng vào nội địa
nước ta; là tiềm năng hướng biển, phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển;
tiềm năng phát triển các khu công nghiệp; phát triển du lịch và dịch vụ; phát
triển nông - lâm - ngư nghiệp nhất là cây lương thực và nuôi trồng đánh bắt hải
sản. Nằm giữa hai thành phố lớn là Hải Phòng và Hạ Long, Quảng Yên là cầu
nối liền các trung tâm kinh tế quan trọng nhất của toàn bộ trục kinh tế động lực
ven biển Bắc Bộ.
10



2. Đô thị Quảng Yên hình thành và phát triển từ rất sớm ở vùng cửa ngõ
sông nước trọng yếu nhất của đất nước, đây vừa là quan ải che chắn, bảo vệ
cho Kinh đô Thăng Long ở phía sau, vừa là nơi các vương triều đóng đô ở
Thăng Long đặt làm cơ sở triển khai các chiến lược vươn ra đại dương, trấn
giữ các vùng biển đảo.
CHƯƠNG 2
THỊ XÃ QUẢNG YÊN TỪ NĂM 1883 ĐẾN 1955
2.1. Những điều kiện lịch sử tác động đến sự phát triển của thị xã
Quảng Yên từ năm 1883 đến 1955
Quảng Yên từng được lựa chọn như một giải pháp thay thế cho Hải
Phòng làm địa điểm xây dựng cảng lớn và đầu cầu hàng hải nằm trong vịnh
Bắc Bộ của chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương. Nhưng sau đó, Quảng
Yên lại được người Pháp xây dựng thành một thương cảng nội địa với quy mô
khiêm tốn hơn. Pháp cũng xây dựng Quảng Yên thành một căn cứ quân sự vì
đây được coi như một vành đai bảo vệ Hải Phòng.
Đến năm 1945, do những chính sách của Nhật và Pháp, người dân Quảng
Yên lâm vào nạn đói trầm trọng, hơn 4000 người chết. Đất đai, ruộng đồng
hoang hóa; nhà máy kẽm đóng cửa, công nhân thất nghiệp.
Ngày 20-7-1945, quân cách mạng ở chiến khu Đông Triều và huyện Yên
Hưng đánh chiếm Quảng Yên, giải phóng hoàn toàn tỉnh lỵ Quảng Yên và
huyện Yên Hưng. Do Quảng Yên chiếm giữ vị trí quan trọng ở khu đông bắc,
nằm gần hai trục đường bộ chính, án ngữ vùng cửa ngõ đường thủy từ vùng
biển đông bắc vào trung tâm đất nước, nên khi Pháp quay trở lại miền Bắc đã
ngay lập tức tiến quân lên đánh chiếm vùng đất này.
Về cơ bản, 1945-1955 là thời gian Quảng Yên trở thành vùng tạm chiếm
của thực dân Pháp. Quảng Yên là vùng huyết mạch ở vùng Đông Bắc, Pháp đã
biến khu vực này thành cửa ngõ của các hoạt động kinh tế giữa Hòn Gai và Hải
Phòng.

Do nằm trong khu vực tập kết của quân đội Pháp ở miền Bắc trước khi
rút vào miền Nam, theo hiệp định Genevơ, phải đến ngày 25 tháng 5 năm
1955, lính Pháp mới hoàn toàn rút khỏi Quảng Yên.
2.2. Những chuyển biến của thị xã Quảng Yên từ năm 1883 đến 1955
2.2.1. Về bộ máy chính quyền
Hệ thống quan lại người Pháp
Từ khi có Hiệp định 25/8/1883, quan lại cấp tỉnh có công sứ người Pháp.
Giúp việc có Tòa Công sứ và Hội đồng hàng tỉnh. Tòa Công sứ có Tòa Tư
pháp, Sở Mật thám, Sở An ninh, Cảnh sát, Tòa án, lực lượng dân vệ, lính khố
đỏ, khố xanh. Về các sự nghiệp khác có bưu điện, điện báo, quản lý giao thông
11


công chính, nhà đoan (để thu thuế) và hệ thống kiểm lâm. Một lực lượng cảnh
sát được đặt dưới quyền hành trực tiếp của Công sứ. Lực lượng này dưới quyền
chỉ huy của một giám binh. Trên tất cả những hệ thống công sở, trong đó có
trại lính, sở công chính, bưu điện, tài chính, kinh tế (đồn điền) đều có sự có mặt
của người Pháp cai quản và đứng đầu.
Hệ thống quan lại người Việt
Quan lại người Việt, đứng đầu tỉnh có tuần phủ (trật tòng nhị phẩm), phụ
tá giúp việc có bố chánh (trật chánh tam phẩm, phụ trách kinh tế, thuế khóa,
lương tiền) và án sát (trật tòng tam phẩm, phụ trách hành pháp, xử án). Dưới
tỉnh là phủ, dưới phủ là huyện, do tri phủ, tri huyện đứng đầu. Dưới huyện là
xã, nhiều xã trong một vùng hợp thành một tổng do chánh tổng, phó tổng đứng
đầu. Hội đồng kỳ mục quyết định những vấn đề lớn của xã. Ngoài ra còn có
nhóm kỳ dịch đứng đầu là lý trưởng để điều hành việc thi hành quyết định của
hội đồng.
Ngoài pháp luật của nhà nước, còn có hệ thống hương ước của các làng
xã.
2.2.2. Về xây dựng đô thị

Quy hoạch và cấu trúc đô thị
Pháp tiến hành gia cố thành Quảng Yên để làm nơi đóng quân. Khu vực
xung quanh thành Quảng Yên được lựa chọn để xây dựng các trụ sở hành
chính như tòa nhà Công sứ tỉnh Quảng Yên; kho bạc; trại lính; Trung tâm hiến
binh. Việc xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác cũng được tiến hành.
Vùng ngoại vi đô thị về phía nam và phía tây là nơi cư trú của tầng lớp nông
dân với các hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
Giao thông
Sở Giao thông công chính Quảng Yên được thành lập, có nhiệm vụ chỉ
đạo việc xây dựng, quản lý, sửa chữa thường xuyên, duy trì pháp chế… đến
cấp huyện, cấp xã và tận tới thôn xóm. Cấp huyện không có cơ quan chuyên
trách về giao thông vận tải.
Thông tin liên lạc
Là nước tư bản công nghiệp, Pháp hết sức khẩn trương xây dựng hệ
thống thông tin liên lạc. Nhiệm vụ chủ yếu của bưu điện là phục vụ liên lạc cho
bộ máy cai trị. Phần phục vụ dân cư lúc đầu chỉ là vận chuyển thư từ, điện tín,
sau mới nhận chuyển bưu phẩm và ngân phiếu. Các làng xã xa đô thị thì hầu
như vẫn sống biệt lập, thiếu mọi thông tin.
Cấp nước
12


Vấn đề cấp nước cho nhu cầu công nghiệp và sử dụng trong sinh hoạt chỉ
được chú ý trong phạm vi hẹp. Vùng nông thôn, điển hình là vùng Hà Nam bốn
bề nước mặn, người dân sống rất khổ vì thiếu nước ngọt.
2.2.3. Về kinh tế
Hoạt động thương mại và dịch vụ
Đô thị Quảng Yên là một loại hình đô thị hành chính. Để phục vụ cho
nhu cầu đời sống hàng ngày của số quan lại đầu tỉnh, quân lính bảo vệ và
thường dân cư trú trong đô thị, những hoạt động thương mại và dịch vụ khá

phong phú tất yếu được hình thành.
Tại đô thị Quảng Yên, hai điểm hoạt động kinh tế chủ yếu là chợ Rừng
và Bến Ngự.
Lúc này, thị xã Quảng Yên là trung tâm thương mại và dịch vụ nằm trên
con đường giao lưu hàng hải trong nước và quốc tế. Hầu hết các tàu lớn của Bồ
Đào Nha, Anh, Pháp, Thái Lan, Trung Quốc … khi vận chuyển hàng đến Việt
Nam đều cập bến tại cảng Hải Phòng, sau đó thuyền mành và đội thuyền vận
tải Bạch Thái Bưởi lấy hàng từ các tàu lớn chuyển tiếp theo đường sông vào
nội địa hay theo đường thủy đến thương cảng Quảng Yên.
Công nghiệp
Một nhà máy luyện kim đầu tiên và lớn nhất Đông Dương lúc đó là nhà
máy kẽm luyện kim loại màu - xây dựng năm 1924 - thuộc Công ty mỏ và kim
khí Đông Dương được đặt tại thị trấn Quảng Yên hiện nay. Số lượng công
nhân gần 1000 người.
Nông nghiệp
Năng suất và sản lượng lúa ở Quảng Yên thấp vì đất xấu, nhiễm mặn,
thiếu nguồn nước tưới trầm trọng. Mặc dù nghề nông là nguồn sống chính của
người dân, nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm của người
dân nơi đây, họ phải làm thêm nhiều nghề phụ khác như đánh cá, đi rừng…
mới có thể đảm bảo được cuộc sống của mình.
Lâm nghiệp
Người Pháp tiến hành công tác trồng rừng ở Quảng Yên từ cuối thế kỉ
XIX, chủ yếu là duy trì và phát triển rừng thông nhựa. Đó là một loại cây đặc
sản quý, dùng để chế biến dầu thông và tùng hương. Bên cạnh việc phát triển
trồng rừng, người Pháp đặc biệt quan tâm đến quản lý, bảo vệ rừng.
Ngư nghiệp
Trong các nghề phụ ở thì nghề sớm nhất và cũng là nghề quan trọng nhất
chính là chài lưới. Ở Hà Nam, gần như có một sự phân công lao động trên cơ
sở giới tính khá rõ: đàn ông đánh cá, đàn bà làm ruộng.
Tài chính – thuế

13


Nguồn tài chính ở thôn, xã được quản lý dưới hình thức quỹ làng, do
chính quyền cai trị ban hành.
2.2.4. Về văn hóa, xã hội
Kết cấu dân cư
Cư dân được phân thành 4 loại trên cơ sở nghề nghiệp: sĩ - nông - công thương.
Cư dân ở các khu phố xung quanh chợ Rừng và bến Ngự chủ yếu là buôn
bán nhỏ. Họ phần lớn là những trung, tiểu thương với số vốn không lớn, hàng
hóa chủ yếu là đồ gia dụng, phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Xuất hiện một số
tư sản thương nghiệp người Việt.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, trong tầng lớp kẻ sĩ bên cạnh các nhà
nho còn có thêm một bộ phận nhỏ những trí thức Tây học và hàng ngũ viên
chức (những thầy thông, thầy phán) phục vụ trong các công sở của Pháp.
Năm 1921, Pháp xây dựng xưởng nấu kẽm ở Quảng Yên làm xuất hiện
giai cấp công nhân hiện đại và giai cấp tư sản thực dân. Đội ngũ công nhân
xuất hiện đã tạo nên những điều kiện khách quan để nhân dân lao động Quảng
Yên sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng cả nước.
Bên cạnh cư dân người Việt còn có một bộ phận cư dân ngoại quốc, tuy
số lượng ít nhưng lại đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội
của đô thị. Cộng đồng người Pháp ở Quảng Yên chủ yếu là những người thuộc
tầng lớp trên, có đời sống vật chất đầy đủ, xa hoa và cố gắng duy trì những sinh
hoạt như ở chính quốc.
Giáo dục, y tế
Thị xã Quảng Yên có truyền thống về giáo dục. Tuy nhiên, đến thời Pháp
thuộc thì giáo dục lại không được phát triển. Trường học công lập đầu tiên của
tỉnh là ở tỉnh lỵ Quảng Yên, có từ đầu thế kỉ XIX. Huyện Yên Hưng có trường
học ở hàng tổng. Mục tiêu là dạy cho học sinh đọc thông viết thạo, thuộc bảng
cửu chương và làm được bốn phép tính cộng trừ nhân chia đơn giản. Số trẻ

được đi học ở mỗi làng rất ít, đa số vẫn chịu cảnh mù chữ.
Y tế của thị xã Quảng Yên thời kì Pháp thuộc rất nghèo nàn. Từ năm
1894 - 1906, Ty lương y bị giải tán để thay thế bằng bệnh xá dưới quyền lãnh
đạo của thanh tra y tế Đông Dương. Công tác y tế, chữa bệnh ở Quảng Yên đã
bắt đầu có những bước tiếp cận với nền y học phương Tây. Tuy nhiên hệ thống
y tế này chỉ dành cho tầng lớp trên – quan lại Pháp và các gia đình giàu có
người Việt. Vùng thị xã Quảng Yên có nền y học dân tộc – dân gian phát triển
mạnh, tuy nhiên phần lớn những bài thuốc này mới chỉ dừng lại ở tri thức, kinh
nghiệm dân gian, chưa được đúc kết trên cơ sở khoa học.
2.3. Tiểu kết chương 2
14


Thị xã Quảng Yên thời thuộc Pháp là trung tâm thương mại và dịch vụ
nằm trên con đường giao lưu hàng hải trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, so với
cảng cửa Cẩm ở Hải Phòng thì khu vực cảng, bến Quảng Yên mới chỉ dừng ở
mức độ cảng nội địa, phục vụ nhu cầu chuyên chở nội vùng và liên vùng.
Chính sách quản lý của chính quyền thuộc địa tuy chưa thật hoàn thiện
nhưng đã bước đầu đem lại những chuyển biến rõ nét cho thị xã Quảng Yên
trên nhiều mặt. Diện mạo và cấu trúc không gian đô thị mang đậm dấu ấn của
chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp. Hệ thống cơ sở hạ tầng đã có những đầu tư
đáng kể. Kết cấu kinh tế chuyển biến theo hướng kinh tế công thương nghiệp
và dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế, bước đầu mang những yếu tố của kinh tế tư
bản chủ nghĩa. Cơ cấu dân cư đa dạng về giai cấp, trong đó có các giai cấp mới
(công nhân, tư sản, tiểu tư sản) ngày một chiếm số đông và khẳng định được vị
thế. Tuy nhiên quá trình chuyển biến ở Quảng Yên diễn ra tương đối chậm
chạp và bộc lộ nhiều vấn đề bất cập.
CHƯƠNG 3
THỊ XÃ QUẢNG YÊN TỪ NĂM 1955 ĐẾN 2015
3.1. Những điều kiện lịch sử tác động đến sự phát triển của thị xã

Quảng Yên giai đoạn 1955 đến 2015
Ngay sau khi Pháp rút khỏi Quảng Yên, tháng 2 năm 1955, khu Hồng
Quảng bao gồm tỉnh Quảng Yên và khu Hồng Gai được lập.
Năm 1963, hợp nhất khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh thành tỉnh Quảng
Ninh. Tỉnh lỵ là thị xã Hòn Gai. Năm 1964, thị xã Quảng Yên thành thị trấn
Quảng Yên và sát nhập vào huyện Yên Hưng.
Trong cả hai thời kì Chiến tranh phá hoại lần 1 (1965-1968) và lần 2
(1972-1973) của Mĩ tại miền Bắc, do huyện Yên Hưng là cầu nối giữa khu
công nghiệp mỏ với thành phố Hải Phòng nên càng là mục tiêu bắn phá ác liệt
của Mĩ.
Ngày 30/4/1975 đất nước được thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Nhân dân Yên Hưng bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, hàn gắn vết
thương chiến tranh. Tuy nhiên, mô hình hợp tác xã không phát huy tính tích
cực, sáng tạo của nhân dân. Đời sống của người dân thêm phần khó khăn. Các
giá trị văn hóa và di sản văn hóa cũng bị xâm phạm nghiêm trọng vì nhiều cán
bộ có sự nhìn nhận, đánh giá chưa đúng về các phong tục, tập quán trong nhân
dân.
Năm 1986, nhờ được “xé rào bao cấp”, tình hình kinh tế huyện Yên Hưng
có nhiều khởi sắc. Cảnh nhộn nhịp “trên bến duới thuyền” tiếp tục tái hiện
trong đời sống nhân dân Yên Hưng.
15


Năm 2011 thị xã Quảng Yên được thành lập dựa trên cơ sở toàn huyện
Yên Hưng. Việc thành lập thị xã Quảng Yên đánh dấu một bước trưởng thành
quan trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh nói
chung và huyện Yên Hưng nói riêng.
3.2. Những chuyển biến của thị xã Quảng Yên thời kì 1955-2015
3.2.1. Về bộ máy chính quyền
Sau khi Pháp rút khỏi Quảng Yên, bộ máy chính quyền địa phương đã

được tổ chức theo Sắc lệnh 63 và Sắc lệnh 77 (năm 1945). Thời kì này, trên địa
bàn thị xã Quảng Yên có hai khu vực hành chính, đó là thị xã Quảng Yên
(phường Quảng Yên ngày nay) và huyện Yên Hưng. Tổ chức chính quyền ở thị
xã Quảng Yên (cũ) được xây dựng theo mô hình gồm Hội đồng nhân dân và
Ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân là cơ quan chính quyền tối cao, quyết
định những vấn đề quan trọng của thị xã, còn Ủy ban hành chính chịu trách
nhiệm thi hành những Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và mệnh lệnh của
cấp hành chính trên. Tổ chức chính quyền ở huyện Yên Hưng, vì là cấp trung
gian nên chỉ có Ủy ban hành chính mà không có Hội đồng nhân dân, còn ở các
xã vẫn có Hội đồng nhân dân cấp xã.
Kể từ năm 1963, thị xã Quảng Yên trở thành thị trấn Quảng Yên, sát
nhập vào huyện Yên Hưng và trở thành huyện lỵ của huyện Yên Hưng. Lúc
này, bộ máy hành chính của huyện Yên Hưng và thị xã Quảng Yên được thống
nhất lại thành bộ máy hành chính cấp huyện, được tổ chức theo quy định của
Hiến pháp 1959. Huyện Yên Hưng có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành
chính.
Từ sau năm 1980, theo quy định của Hiến pháp năm 1980, Ủy ban hành
chính đổi tên thành Ủy ban nhân dân. Từ năm 2011, huyện Yên Hưng trở thành
thị xã Quảng Yên, bộ máy chính quyền thị xã gồm Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân.
3.2.2. Về xây dựng đô thị
Trước năm 2011, thị xã Quảng Yên còn là huyện Yên Hưng với một đô
thị lõi là thị trấn Quảng Yên. Do chưa có sự quan tâm đầu tư thích đáng của
tỉnh Quảng Ninh nên thị trấn Quảng Yên trong một thời gian rất dài tồn tại khá
tĩnh lặng với quy mô khiêm tốn về diện tích, dân số.
Từ năm 2011 đến nay, công tác xây dựng và chỉnh trang đô thị có chuyển
biến rõ rệt, kiến trúc và cảnh quan đô thị đã được quan tâm đầu tư phát triển.
Hệ thống giao thông, cấp thoát nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom và xử lý
chất thải, các công trình công cộng được thị xã quan tâm đầu tư, cải tạo nhanh.
3.2.3. Về kinh tế

Ngay sau khi Pháp rút khỏi Yên Hưng, tháng 2 năm 1955, khu Hồng
Quảng bao gồm Quảng Yên và khu Hồng Gai được lập. Giai đoạn này Yên
16


Hưng bước đầu phát triển nền kinh tế sau chiến tranh, hoạt động nông nghiệp
được đặc biệt chú trọng, trong đó có vai trò lớn của việc khai hoang trồng trọt.
Nông nghiệp là mặt trận được ưu tiên phát triển hàng đầu nhằm cung cấp lương
thực, thực phẩm cho người dân sau ngày giải phóng. Phát triển nuôi trồng thủy
hải sản có bước phát triển mới với việc hình thành các Hợp tác xã nuôi trồng
tập trung.
Kinh tế Yên Hưng giai đoạn 1964-1986 là sự phát triển mạnh mẽ của
nông nghiệp, ngư nghiệp.
Từ năm 1986, kinh tế Yên Hưng cũng có những bước phát triển đột phá
cùng với sự phát triển chung của kinh tế Quảng Ninh và kinh tế Việt Nam. Đặc
điểm của giai đoạn này là công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và dịch vụ.
Năm 2011, huyện Yên Hưng được nâng cấp thành thị xã Quảng Yên. Sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở Quảng Yên là do công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ có những bước phát triển mới, đột phá.
3.2.4. Về văn hóa, xã hội
- Giáo dục
Từ ngày giải phóng, ngành giáo dục của huyện Yên Hưng phát triển 3
loại hình: trường dân lập, trường tư thục, trường quốc lập. Ngành học bổ túc
văn hóa cũng phát triển mạnh mẽ, chủ yếu là cán bộ, công nhân viên, cán bộ
hợp tác xã đi học để nâng cao trình độ.
Tuy nhiên, ngành giáo dục Yên Hưng có sự giảm sút về nhiều mặt từ khi
Mĩ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam.
Sau 1975, công tác văn hóa, xã hội đã tập trung vào nhiệm vụ phục vụ
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Ngành giáo dục mở rộng giáo dục

phổ thông và bổ túc văn hóa. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót.
Trong ngành giáo dục, văn hóa, giáo dục đức dục cho học sinh phổ thông còn
yếu; việc thanh toán nạn mù chữ còn trì trệ. Nhiều xã chưa có trường vừa học
vừa làm. Xây dựng cơ bản cho giáo dục (nhà trẻ) và y tế còn chậm.
Sau 1986, huyện đã duy trì vững các ngành học từ mầm non đến giáo dục
phổ thông và bổ túc văn hóa. Bên cạnh sự tăng cường đầu tư xây dựng và nâng
cấp trường lớp và các trang thiết bị đồ dùng dạy học, đội ngũ giáo viên được
bổ sung, chất lượng dạy và học đạt yêu cầu đề ra. Bước đầu Yên Hưng thực
hiện cải cách giáo dục, chú ý giáo dục hướng nghiệp dạy nghề.
Đến năm 2014 toàn thị xã có 28/66 trường đạt chuẩn quốc gia. Tất cả các
xã, phường trong thị xã đều có trường mẫu giáo, trường tiểu học và trung học
cơ sở. Việc xã hội hóa giáo dục được quan tâm của toàn xã hội nên đã có
những chuyển biến rõ rệt đó là 100% số xã có Trung tâm học tập cộng đồng
chứng tỏ việc huy động nguồn vốn trong dân phục vụ cho công tác giáo dục
17


bước đầu đạt kết quả tốt. Phong trào khuyến học, khuyến tài phát triển mạnh,
có hiệu quả và được nhân dân hưởng ứng. Trong lĩnh vực đào tạo nghề đã chú
trọng các hình thức liên kết, linh hoạt về tổ chức, từng bước đáp ứng được nhu
cầu về đào tạo nguồn nhân lực.
- Y tế
Sau năm 1955, để đảm bảo sức khỏe cho nhân dân, chính quyền huyện
Yên Hưng đã khẩn trương củng cố lại bệnh viện (có phòng khám bệnh và hộ
sinh), xây dựng trạm y tế ở một vài xã. Do có chủ trương đúng đắn, kịp thời
của chính quyền, tinh thần hăng hái của đội ngũ thày thuốc nên tình hình sức
khỏe của nhân dân được đảm bảo, đẩy lùi được dịch bệnh.
Từ năm 1966, trước yêu cầu phục vụ nhân dân ngày càng cao trong tình
hình mới, ngành y tế huyện đã đẩy mạnh công tác thường trực chiến đấu, cấp
cứu phòng không, vừa tích cực xây dựng phong trào vệ sinh ở cơ sở, phục vụ

sức khỏe nhân dân. Công tác chữa bệnh bước đầu đã kết hợp đông – tây y.
Chính sách hậu phương quân đội, chính sách xã hội được chính quyền quan
tâm chỉ đạo, nhất là đối với các gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công
với nước, gia đình bộ đội…
Sau khi cả nước thống nhất năm 1975, huyện đặc biệt quan tâm vận động
sinh đẻ có kế hoạch, giảm tỉ lệ tăng dân số và xây dựng gia đình văn hóa mới,
chống lại những thói hư, tật xấu, hủ tục còn tồn tại.
Sau Đổi mới 1986, công tác chăm sóc y tế của huyện hướng vào thực
hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Từ năm 1987 trở đi, Huyện ủy
Yên Hưng đã chỉ đạo cuộc vận động lớn về sinh đẻ có kế hoạch, với những
biện pháp tích cực từ tuyên truyền giáo dục, xây dựng cơ chế và vận động nhân
dân tham gia.
Từ sau khi thành lập thị xã cho đến nay, chất lượng y tế đã tăng lên đáng
kể. Điều đó thể hiện ở chỗ: tuy số cơ sở y tế không tăng, nhưng số giường
bệnh, số cán bộ y tế đã tăng so với năm 2011. Đặc biệt, trong ngành y, số
lượng bác sĩ và trình độ cao hơn đã tăng thêm 13 người; trong ngành dược,
tổng số dược sĩ tăng thêm 9 người. Đây là một tỉ lệ tăng nhanh so với các địa
phương trong tỉnh. Điều đó thể hiện thị xã rất chú trọng đến việc nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đồng thời cũng phần
nào thể hiện được sự tăng nhanh của nguồn nhân lực chất lượng cao của thị xã.
Công tác truyền thông dân số, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
được quan tâm.
3.3. Tiểu kết chương 3
Từ sau Giải phóng, trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành,
từ một địa phương vốn chủ yếu dựa vào kinh tế nông - ngư nghiệp, đến nay
Quảng Yên đã trở thành thị xã có nền kinh tế đa dạng từ nông - ngư nghiệp,
18


công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ; cơ cấu kinh tế ngày

càng chuyển dịch theo hướng công nghiệp, thương mại dịch vụ; bộ mặt nông
thôn, đô thị ngày càng đổi khác, đời sống vật chất, tinh thần của người dân
ngày càng được nâng cao.
Thị xã Quảng Yên hôm nay đang chuyển mình với nhiều công trình lớn
có ý nghĩa quan trọng đã được đầu tư, góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao
chất lượng cuộc sống nhân dân. Từ một địa phương với kinh tế thuần nông, đời
sống nhân dân còn nghèo, Quảng Yên đã dần thay da đổi thịt, các tiềm năng,
thế mạnh được khai thác có hiệu quả hơn. Cùng với đó, thế trận quốc phòng an ninh trên địa bàn ngày càng được củng cố vững chắc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được từ sau Giải phóng đến
nay, thì tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của thị xã vẫn còn bộc lộ những hạn
chế cần phải khắc phục. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch còn chậm, chuyển
dịch lao động của ngành nông - lâm - ngư nghiệp sang ngành kinh tế khác
chậm, khu vực dịch vụ tuy có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng giá trị đóng góp
chưa lớn; đời sống của một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn...
CHƯƠNG 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ XÃ
QUẢNG YÊN
4.1. Định hướng phát triển thị xã Quảng Yên theo các quy hoạch của
quốc gia, vùng và địa phương
Từ năm 2013, Quảng Ninh đã xây dựng Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó Quảng
Yên được xác định:
- Về du lịch: xây dựng Quảng Yên thành điểm du lịch quan trọng trong 4
khu du lịch (khu du lịch Yên Hưng - Uông Bí - Đông Triều) thuộc quần thể du
lịch Quảng Ninh kết hợp với Hải Phòng - Cát Bà là tuyến du lịch trọng điểm
quốc gia.
- Hợp tác với Hải Phòng xây dựng khu vực cửa Nam Triệu - Lạch Huyện
thành trung tâm dịch vụ cảng, kho vận và vận tải biển lớn nhất vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ.
- Đối với tỉnh Quảng Ninh, hiện nay Quảng Yên là địa bàn trọng điểm về
phát triển công nghiệp đóng tàu và dịch vụ cảng biển, nhiệt điện và nông

nghiệp (lúa, thủy sản).
Phục vụ cho mục đích phát triển bền vững của tỉnh Quảng Ninh nói
chung và thị xã Quảng Yên nói riêng, hiện nay Quảng Yên có các quy hoạch
để phát triển thị xã trong tương lai gần, cũng như tầm nhìn đến năm 2030. Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thị xã Quảng Yên đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 hướng đã định hướng xây dựng Quảng Yên trở thành một
thị xã công nghiệp - dịch vụ có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cao của tỉnh;
19


đạt tiêu chí đô thị loại III trước năm 2020, có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao
4.2. Những thuận lợi - cơ hội, khó khăn - thách thức đối với sự phát
triển của thị xã Quảng Yên
4.2.1. Thuận lợi - cơ hội
- Hợp tác liên kết không gian kinh tế và đô thị để cùng phát triển với
thành phố Hạ Long và Hải Phòng.
- Cơ hội phát triển cảng biển tạo đầu mối giao lưu và mở cửa lớn cho khu
vực ven biển Hải Phòng - Quảng Ninh của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
- Cơ hội phát triển các khu, cụm công nghiệp và đô thị mới
- Cơ hội phát triển ngành du lịch và các dịch vụ du lịch
4.2.2. Khó khăn - thách thức
- Về mặt thể chế, bộ máy chính quyền vẫn còn cồng kềnh, chưa được tinh
gọn, trong khi đó nhiệm vụ của nhiều phòng ban còn chồng chéo, dẫn đến việc
nhà đầu tư và người dân gặp khó khăn trong xúc tiến đầu tư và giải quyết công
việc.
- Thu hút đầu tư của thị xã hiện nay gặp khó khăn, công tác đầu tư còn
dàn trải, vẫn còn nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, trình độ khoa học công nghệ chưa cao, mức độ phát triển kinh tế còn thấp hơn nhiều so với tiềm
năng. Đây là hạn chế lâu dài cần được khắc phục từng bước.
- Quy mô và tích lũy từ nội bộ nền kinh tế của thị xã còn nhỏ, khoảng

cách thu nhập bình quân đầu người giữa thị xã Quảng Yên với cả nước và tỉnh
Quảng Ninh còn có khoảng cách, thu nhập bình quân/người giữa các đơn vị
của thị xã có sự khác biệt lớn. Một số lĩnh vực như giáo dục - đào tạo, y tế, văn
hoá, thể dục thể thao còn chậm được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết
bị; đặc biệt cơ sở (trung tâm) đào tạo nghề và ngoại ngữ còn yếu.
- Công tác quản lý, quy hoạch đô thị trên địa bàn vẫn còn nhiều bất cập.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu và tốc độ
phát triển kinh tế xã hội, công tác quy hoạch chưa thật sự đi trước một bước.
- Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lớn do bao quanh thị xã phần lớn là
sông, biển; khu vực Hà Nam (phía nam và tây nam thị xã) thấp trũng so với
mặt nước biển. Bên cạnh đó, nguồn nước ngầm dùng để khai thác phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt và sản xuất hạn chế cả về trữ lượng và chất lượng.
- Nguồn nhân lực của thị xã còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất
lượng so với yêu cầu phát triển công nghiệp và dịch vụ với tốc độ nhanh trong
tương lai.
4.3. Đề xuất giải pháp phát triển bền vững thị xã Quảng Yên
4.3.1. Giải pháp về thể chế
Về bộ máy chính quyền
20


Để góp phần làm cho thị xã Quảng Yên đi theo đúng định hướng phát
triển bền vững, về bộ máy chính quyền, chúng tôi đề xuất các giải pháp sau:
Không tổ chức Hội đồng nhân dân thị xã; thực hiện cơ chế thủ trưởng; tinh gọn
bộ máy; thành lập các bộ phận đặc thù.
Về năng lực thể chế
Nhằm đảm bảo đủ các điều kiện cần thiết để phát triển bền vững đô thị
Quảng Yên, chính quyền địa phương cần hoàn thiện bộ máy và đội ngũ những
người chuyên trách về quản lí đô thị, hoạch định chính sách của địa phương;
phải nâng cao trình độ, năng lực và kiến thức chuyên môn của cán bộ và nhân

viên trong bộ máy hành chính ở đô thị; phải hiện đại hóa và sử dụng có hiệu
quả các phương tiện quản lí.
Về công tác xây dựng và thực hiện các bản quy hoạch
Để có được sự phát triển bền vững, đạt hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội,
môi trường thì công tác quy hoạch và nghiên cứu dự báo, lập kế hoạch phát
triển đô thị cần được tổ chức thực hiện đảm bảo tính khả thi cao nhất. Thị xã
Quảng Yên cần phải đặc biệt coi trọng và nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch
hệ thống kết cấu hạ tầng và triển khai trên thực tế.
Chính quyền thị xã cần tư duy chú trọng hiện thực hóa những chính sách,
những quy hoạch.
4.3.2. Giải pháp về kinh tế
Về vấn đề sinh kế
Vấn đề đặt ra cho chính quyền là phải lựa chọn được sinh kế bền vững
cho người dân để có thể đối phó và khắc phục được những áp lực từ việc đô thị
hóa và biến đổi khí hậu, đồng thời nâng cao tài sản ở hiện tại và tương lai mà
không gây tổn hại đến cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh các
chính sách hỗ trợ cho sinh kế truyền thống của người dân thì một giải pháp
được đưa ra là phát triển sinh kế mới trong lĩnh vực Du lịch nông thôn, Du lịch
làng nghề.
Về thu hút đầu tư
- Đối với vốn của các doanh nghiệp: Luật Doanh nghiệp phải được triển
khai mạnh trên địa bàn thị xã; đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp với
các hình thức thích hợp để tạo ra được các doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả, mang lại lợi ích ngày càng tăng cho thị xã nói riêng và tỉnh Quảng Ninh
nói chung. Tạo sân chơi bình đẳng đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
cũng như giữa các khu vực doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh.
- Đối với vốn của tư nhân và hộ gia đình: Khuyến khích các hộ trong thị
xã làm giàu chính đáng, phát huy lợi thế so sánh của địa phương.
Đối với các hộ kinh doanh vừa và nhỏ, thị xã cần có chính sách tốt để hỗ
trợ vốn ban đầu cho các hộ phát triển sản xuất kinh doanh; cung cấp thông tin

21


thị trường và hỗ trợ đào tạo nghiệp vụ cho các hộ tham gia sản xuất kinh
doanh.
Thị xã Quảng Yên, đặc biệt là vùng Hà Nam có một lượng dân di cư sang
nước ngoài rất lớn (từ những năm 70 của thế kỉ trước). Trong việc xây dựng thị
xã Quảng Yên cũng cần hết sức quan tâm và tạo điều kiện thu hút đối tượng
Việt kiều này góp vốn đầu tư vào các hạng mục quan trọng của địa phương.
Về tạo sản phẩm đặc thù và xây dựng thương hiệu
Chọn công nghiệp cơ khí đóng, sửa chữa tầu biển, chế biến lương thực,
thực phẩm, hải sản làm hai ngành công nghiệp mũi nhọn là một hướng đi đúng
với tiềm năng, với điều kiện tự nhiên, sinh thái - nhân văn của Quảng Yên. Tuy
nhiên, cần quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển của công nghiệp chế biến
lương thực, thực phẩm; đặc biệt là công nghiệp chế biến thủy hải sản. Bên cạnh
đó, Quảng Yên có những nghề thủ công truyền thống như đan lát (ngư cụ, phôi
hàng mã), đóng thuyền nan, khảm trai… Cần thành lập những làng nghề, phố
nghề, vừa tận dụng được nguồn nhân lực dồi dào, vừa có thể tạo ra một sản
phẩm du lịch đặc thù cho địa phương.
Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm đặc thù, điều cần thực
hiện ngay là phải xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm đó và tạo một chiến
lược thị trường thích hợp để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng trong và
ngoài tỉnh.
Về thích ứng với biến đổi khí hậu
Khu vực Hà Nam có một phần diện tích ruộng xấu, kém màu mỡ, cộng
thêm bị nhiễm mặn không trồng lúa được, có thể thay đổi mục đích sử dụng
đất, biến những diện tích đó thành khu vực du lịch sinh thái. Bên cạnh đó,
Quảng Yên cần tích cực trồng rừng; đẩy mạnh công tác quy hoạch và quản lý
rừng. Đặc biệt cần quan tâm tới việc trồng thêm và bảo vệ tốt rừng ngập mặn.
4.3.3. Giải pháp về xã hội

Thị xã cần phải đảm bảo quản lí việc phát triển dân số, thực hiện nghiêm
chỉnh chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Quản lí chặt chẽ tỉ lệ gia
tăng dân số cơ học phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế đô thị ở mức 1,51,6%/năm.
Quảng Yên cần có kế hoạch thu hút nhân tài trong và ngoài tỉnh, có chính
sách khuyến khích thỏa đáng trong việc sử dụng họ phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội của địa phương.
Bên cạnh đó, cần phải xây dựng đời sống văn hóa đô thị bằng cách phát
triển các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao làm cho cuộc sống của nhân dân
vui tươi, lành mạnh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
4.3.4. Giải pháp về môi trường
22


- Quảng Yên cần mạnh tay trong việc cấm hoàn toàn việc khai thác đá vôi
để đảm bảo về môi trường và duy trì được tài nguyên.
- Đề nghị các công ty, các nhà đầu tư trên địa bàn tuân thủ quy định về
Quy chuẩn nước thải, môi trường không khí và cải tạo phục hồi môi trường đã
bị tác động xấu từ hoạt động sản xuất. Thị xã cần lập một đơn vị chuyên môn
để thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các quy định về môi
trường của các đơn vị trên.
- Xây dựng quy hoạch mạng điểm quan trắc môi trường: Mục tiêu quy
hoạch mạng lưới điểm quan trắc môi trường nhằm theo dõi, đánh giá, phân tích
các dữ liệu quan trắc và kiến nghị giải pháp khắc phục, giải quyết trong công
tác bảo vệ môi trường.
4.4. Tiểu kết chương 4
Trong các quy hoạch của quốc gia và tỉnh, Quảng Yên luôn được xác
định là một đô thị công nghiệp hiện đại. Bên cạnh đó, về mặt vị trí địa lí,
Quảng Yên còn liền kề với các thành phố lớn, tốc độ phát triển nhanh như Hạ
Long, Hải Phòng, Uông Bí. Do vậy Quảng Yên có rất nhiều cơ hội để hợp tác
và phát triển. Quảng Yên cũng đã có bản quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội đáp

ứng được mục tiêu phát triển bền vững. Đây là những thuận lợi và cơ hội để thị
xã biến những tiềm năng phát triển thành hiện thực.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Quảng Yên còn tồn tại nhiều hạn
chế như: bộ máy chính quyền còn cồng kềnh, chưa hiệu quả và chưa đáp ứng
được nhu cầu về năng lực; nguồn nhân lực còn thiếu và yếu về số lượng cũng
như chất lượng; hệ thống hạ tầng chưa đồng bộ; khả năng thu hút đầu tư chưa
cao…
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, cũng như tận dụng được
những thuận lợi và cơ hội, luận án đã đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm
phát triển bền vững thị xã Quảng Yên, bao gồm: Giải pháp về thể chế, giải
pháp về kinh tế, giải pháp về xã hội, giải pháp về môi trường.
KẾT LUẬN
Quá trình phát triển của thị xã Quảng Yên từ năm 1883 đến nay là một
tiến trình vận động phát triển và liên tục. Có thể khắc họa bức tranh toàn cảnh
với những đặc điểm nổi bật sau:
Quảng Yên là một không gian lịch sử văn hóa đặc thù, khu biệt với các
vùng xung quanh. Yếu tố lịch sử đã tạo nên những đặc trưng văn hóa nổi bật
của địa phương. Cùng với đó, vị thế địa lý và những chính sách của các chính
quyền trong suốt hơn một thế kỉ đã làm nên những thăng trầm của đô thị
Quảng Yên.
23


Thị xã Quảng Yên đã từng có vai trò là trung tâm của một vùng lãnh thổ
biên ải rộng lớn ở Đông Bắc Tổ Quốc và là vùng đất có truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời. Thời phong kiến, nơi đây đã tồn tại đô thị Quảng Yên - là một
trong số ít những đô thị cổ của Quảng Ninh, những đô thị cổ khác là Vân Đồn,
Móng Cái - Vạn Ninh. Trong khi Vân Đồn, Móng Cái - Vạn Ninh đơn thuần là
đô thị - bến cảng phục vụ nhu cầu trao đổi hàng hóa thì Quảng Yên vừa là
trung tâm thương mại, vừa là thủ phủ của một vùng. Trong một thời gian dài,
Quảng Yên từng là trung tâm chính trị của một vùng đất rộng lớn từ Móng Cái

đến sông Bạch Đằng. Đô thị Quảng Yên là một đô thị có lịch sử lâu dài và đã
đạt đến hình thái phát triển đặc trưng của các loại hình đô thị trung đại, cận đại
Việt Nam. Xung quanh Quảng Yên là những địa phương có cơ sở kinh tế hàng
hóa mạnh, có quan hệ giao thương rộng với các thị trường trong nước quốc tế,
làm nên sức sống của đô thị trong trường kỳ lịch sử. Trải qua nhiều thăng trầm
do sự thay đổi trung tâm chính trị, nhưng Quảng Yên vẫn luôn phát huy vai trò
của một đô thị trung tâm, có nhiều đóng góp vào quá trình phát triển của tỉnh
Quảng Ninh và của cả vùng Đông Bắc.
Đô thị Quảng Yên thời thuộc địa được xây dựng và phát triển trên nền
tảng của một đô thị cổ, kế thừa đầy đủ những yếu tố thuận lợi về địa lý tự
nhiên, kinh tế xã hội và văn hóa, lịch sử của vùng đất nơi đây. Sự chiếm đóng
của người Pháp năm 1883 đã tạo nên một bước ngoặt lớn trên con đường phát
triển của đô thị Quảng Yên, làm thay đổi các điều kiện, định hướng phát triển
và tính chất của đô thị. Chính sách quản lý của chính quyền Pháp thuộc tuy
chưa thật hoàn thiện nhưng đã bước đầu đem lại những chuyển biến rõ nét cho
thị xã Quảng Yên trên nhiều mặt. Diện mạo và cấu trúc không gian đô thị
mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp. Hệ thống cơ sở hạ tầng
đã có những đầu tư đáng kể. Kết cấu kinh tế chuyển biến theo hướng kinh tế
công thương nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế, bước đầu mang những
yếu tố của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cơ cấu dân cư đa dạng về giai cấp, trong
đó có các giai cấp mới (công nhân, tư sản, tiểu tư sản) ngày một chiếm số đông
và khẳng định được vị thế.
Suốt một thời gian dài kể từ sau giải phóng, do sự dịch chuyển trung tâm
chính trị - văn hóa - xã hội của tỉnh Quảng Ninh mà trong suốt một thời gian
dài, vị thế của Quảng Yên đã bị lu mờ trong bức tranh phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nói chung.
Tỉnh Quảng Ninh đã không chú trọng tạo điều kiện để Quảng Yên phát huy
được những lợi thế của mình. Mặc dù vậy, trong suốt thời gian đó, Quảng Yên
vẫn duy trì mức tăng trưởng đều đặn về kinh tế xã hội và có sự hoà nhập về
định hướng phát triển không gian đô thị, kinh tế, xã hội, văn hoá với Hạ Long

và thành phố Hải Phòng. Quảng Yên đã thực hiện tốt vai trò của mình trong
24


việc đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo môi trường
sống bền vững.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thực hiện công cuộc đổi
mới, cùng với sự quan tâm hỗ trợ đầu tư của Trung ương, của Tỉnh, của ngành,
các đơn vị đóng trên địa bàn, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân
dân địa phương, Quảng Yên đã phát huy nội lực, lao động sáng tạo, tập trung
mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển. Do vậy, cho đến những năm đầu của
thế kỉ XXI, Quảng Yên đã có tốc độ phát triển đô thị nhanh, tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng, các công trình phúc lợi công
cộng, công trình thuộc cơ sở hạ tầng được đầu tư tương đối đồng bộ trên nhiều
lĩnh vực. Diện mạo đô thị ngày càng thay đổi và phát triển.
Từ sau 2011, việc tái lập và nâng cấp thị xã Quảng Yên đã đánh dấu một
dấu mốc quan trọng, mở ra một trang mới cho lịch sử địa phương. Tỉnh Quảng
Ninh đã có những quan tâm đặc biệt dành cho thị xã để Quảng Yên có thể phát
huy tất cả các lợi thế của mình, từ vị trí địa lý, nguồn lực tự nhiên và văn hóa,
xã hội.
Trên tinh thần kế thừa và phát huy những mặt tích cực của truyền thống
địa phương, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và hoạch định những
chính sách phát triển bền vững toàn diện từ kinh tế, văn hóa, xã hội của thị xã
Quảng Yên trong giai đoạn hiện nay và tương lai, luận án đã đề xuất một số
giải pháp về lĩnh vực thể chế, kinh tế, xã hội, môi trường nhằm góp phần phát
triển bền vững thị xã Quảng Yên. Tuy nhiên, để những giải pháp này được đưa
vào thực hiện, ngoài sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân địa phương, còn
phải nhờ đến sự hỗ trợ, tạo điều kiện từ phía tỉnh Quảng Ninh và Trung ương
về cơ chế, chính sách cũng như nguồn lực. Nếu có được sự đồng thuận, hỗ trợ
mạnh mẽ và toàn diện, thị xã Quảng Yên sẽ đi theo đúng định hướng phát triển

bền vững, trở thành một đô thị xanh, hài hòa và năng động, xứng đáng là một
“đô thị đáng sống”.
Hà Nội, ngày 9 tháng 6 năm 2016
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

NGHIÊN CỨU SINH

PHÒNG NGHIÊN CỨU
25


×