Giảng viên hướng dẫn
ĐIỂM:
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
GIẢNG VIÊN KÍ TÊN
1
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ........................................................................................ 3
PHẦN 2: NỘI DUNG ..................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC.......... 4
1. Vấn đề về dân tộc thuộc địa ................................................................. 4
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp............................ 9
CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀO VIỆC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO .... 12
1. Chủ quyền biển đảo Việt Nam ........................................................... 12
2. Thực trạng........................................................................................... 13
3. Nguyên nhân ....................................................................................... 16
4. Giải pháp............................................................................................. 20
PHẦN 3: KẾT LUẬN................................................................................... 23
PHỤ LỤC...................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 28
2
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Từ ngàn xƣa, chủ quyền của Việt Nam đã đƣợc thiết lập rõ ràng, đƣợc thế
giới công nhận, nhƣng trong những năm gần đây lại thƣờng xuyên xảy ra những
tranh chấp, đặc biệt là về vấn đề biển đảo. Nhƣ các bạn đã biết, nhân dân ta có một
lòng yêu nƣớc sâu sắc, lòng yêu nƣớc đã trở thành một truyền thống quý báo của
dân tộc. Nhƣng nhân dân ta còn chƣa đƣợc trang bị tốt các kiến thức cơ bản về chủ
quyền đất nƣớc. Các thế lực chống phá đã lợi dụng điều này để kích động nhân
dân. Họ gây ra các cuộc biểu tình, gây ra các cuộc bạo động,… gây ảnh hƣởng rất
lớn đến nền kinh tế nƣớc nhà. Trong tình thế nhƣ vậy, chúng tôi nghĩ rằng việc
quan trọng trƣớc hết là tuyên truyền cho nhân dân ta hiểu rõ về vấn đề chủ quyền
của Việt Nam, nâng cao sự hiểu biết của nhân dân về đất nƣớc Việt Nam, để ngƣời
dân không dễ dàng bị kẻ xấu kích động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hoá thế giới, là một vị Cha già
của dân tộc. Ngƣời đã đƣa đất nƣớc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của các nƣớc
phƣơng tây. Tƣ tƣởng của Ngƣời là một nền tảng, một phạm trù đạo đức đề nhân
dân ta học hỏi và noi theo. Trong số các tƣ tƣởng của Bác thì chúng tôi nhận thấy
có một tƣ tƣởng về vấn đề dân tộc rất phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của đất
nƣớc. Đó là “Tƣ tƣởng Hồ Chia Minh về vấn đề dân tộc”.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc. Vận dụng quan điểm đó vào việc bảo vệ chủ quyền
biển đảo”. Chúng tôi rất hy vọng bài tiểu luận này giúp ích trong việc nâng cao
kiến thức của ngƣời dân về vấn đề dân tộc và chủ quyền vùng biển nƣớc ta.
3
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC[1]
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
1.1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc nói chung. Xuất phát từ nhu cầu
khách quan của dân tộc Việt Nam, đặc điểm của thời đại, Ngƣời dành sự quan tâm
đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của nƣớc
ngoài, giải phóng dân tộc, dành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết,
thành lập Nhà nƣớc dân tộc độc lập.
Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm nhƣ: Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực
thẳm thuộc địa, Công cuộc khai hóa giết ngƣời..., tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch
trần cái gọi là "khai hóa văn minh " của chúng. Ngƣời viết: " Để che đậy sự xấu xa
của chế độ bóc lột giết ngƣời, chủ nghĩa tƣ bản thực dân luôn luôn điểm trang cho
cái huy chƣơng mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tƣởng: Bác ái, Bình
đẳng, v.v". "Nếu lối hành hình theo kiểu Linsơ của những bọn ngƣời Mỹ hèn hạ
đối với những ngƣời da đen là một hành động vô nhân đạo, thì tôi không còn biết
gọi việc những ngƣời Âu nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt những ngƣời dân
châu Phi là cái gì nữa". Trong những bài có tiêu đề Đông Dƣơng và nhiều bài khác,
Ngƣời lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp
ở Đông Dƣơng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Ngƣời chỉ rõ
sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu
thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn không thể điều hòa đƣợc.
[1]. Giáo trình Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, tr.57 - tr.67
4
Nếu nhƣ C.Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tƣ bản,
V.I.Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh
tập trung bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Mác và
V.I.Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa, thì Hồ Chí
Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
Để giải phóng dân tộc cần xác định một con đƣờng phát triển của dân tộc, vì
phƣơng hƣớng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trƣớc mắt
của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phƣơng hƣớng phát triển gắn liền với một
hệ tƣ tƣởng và một giai cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nƣớc của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí
Minh khẳng định phƣơng hƣớng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới
là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đƣờng phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức
mới mẻ. Từ một nƣớc thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai
đoạn chiến lƣợc khác nhau. Trong Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: "Làm tƣ sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Con đƣờng đó kết hợp cả nội dung dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội; xét về thực chất chính là con đƣờng độc lập dân tộc
găn liền với chủ nghĩa xã hội.
"Đi tới xã hội cộng sản" là hƣớng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, đoàn kết mọi lực lƣợng dân tộc, tiến hành các cuộc cách
mạng chống đế quốc và phong kiến cho triệt để.
Con đƣờng đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là
nét độc đáo, khác biệt với con đƣờng phát triển của các dân tộc đã phát triển lên
chủ nghĩa tƣ bản ở phƣơng Tây.
1.2. Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
5
- Cách tiếp cận từ quyền con người
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con ngƣời. Ngƣời đã tìm hiểu và tiếp
nhận những nhân tố về quyền con ngƣời đƣợc nêu trong Tuyên ngôn đọc lập 1776
của nƣớc Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp,
nhƣ quyền bình đẳng, quyền đƣợc sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc.
Ngƣời khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi đƣợc".
Nhƣng từ quyền con ngƣời, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành
quyền dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sƣớng và quyền tự do"
- Nội dung của độc lập dân tộc
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh
nói: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu".
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã đƣợc các đồng minh
thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa nhận, thay mặt
những ngƣời Việt Nam yêu nƣớc, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây bản
yêu sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Đầu 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,
một cƣơng lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, có tƣ tƣởng cốt lõi là độc
lập, tự do cho dân tộc.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng, viết thƣ Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: "trong lúc này quyền lợi dân
tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Ngƣời chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng
minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mƣời chính sách của Việt Minh, trong đó mục
tiêu đầu tiên là: "Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền". Tháng 8-1945, Hồ Chí
Minh đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong câu nói bất
6
hủ: "Dù hi sinh ở đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trƣờng Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho đƣợc độc lập!".
Cách mạng Tháng Tám thành công, Ngƣời thay mặt chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trƣớc toàn thế giới:
"Nƣớc Việt Nam có quyền hƣởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nƣớc tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lƣợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Trong các thƣ và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nƣớc vào
thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: "Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhƣng nhân dân chúng tôi cũng
kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nƣớc"
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Thể hiện quyết
tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi vang dội núi
sông: "Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nƣớc,
không chịu làm nô lệ".
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh và
phƣơng tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh
phá hoại miền Bắc với quy mô và cƣờng độ ngày càng ác liệt, Hồ Chí Minh nêu
cao chân lý lớn nhất của thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"
Độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng
của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, một tƣ tƣởng lớn trong thời đại giải phóng
dân tộc. "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" là khẩu hiệu hành động của dân tộc
Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới
đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế, Hồ Chí Minh không chỉ là Anh
hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là "Ngƣời khởi xƣớng cuộc đấu
tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX"
7
1.3. Chủ nghĩa dân tộc - Một động lực lớn của đất nước
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cƣờng quốc tƣ bản phƣơng
Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm lƣợc thuộc địa, thiết lập ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân với những chính sách tàn bạo.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề, thì phản
ứng của các dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động
(công nhân và nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tƣ
sản, tƣ sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của ngƣời dân mất nƣớc, của một
dân tộc mất độc lập, tự do.
Cùng với sự lên án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng
dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phƣơng
Đông, "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nƣớc". Vì thế, "ngƣời ta sẽ không
làm đƣợc gì cho ngƣời An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy
nhất của đời sống xã hội của họ". Ngƣời kiến nghị về Cƣơng lĩnh hành động của
Quốc tế Cộng sản là: "Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế
Cộng sản... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tƣ cách là chủ nghĩa
yêu nƣớc chân chính của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng
lợi trƣớc bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Theo Hồ Chí Minh, "Chính do tinh thần yếu nƣớc mà quân đội và nhân dân ta
đã mấy năm trƣờng chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bon
thực dân cƣớp nƣớc và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nƣớc
Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cƣờng, một nƣớc Việt Nam dân
chủ mới". Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính " là một bộ
phận của tinh thần quốc tế", " khác hẳn với tinh thần "vị quốc" của đế quốc phản
động".
8
Xuất phát từ sự phân tích giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân
tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc mà
những ngƣời cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và Ngƣời cho đó là "một chính
sách mang tính hiện thực tuyệt vời".
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
2.1. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nƣớc, nhƣng Ngƣời luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết
vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ
Chí Minh thể hiện: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh
đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ trƣơng
đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng
lớp trí thức, dƣới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần
chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà
nƣớc của dân, do dân và vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội.
2.2. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Khác với con đƣờng cứu nƣớc của ông cha, gắn độc lập với dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến(cuối thế kỷ XIX), hoặc chủ nghĩa tƣ bản (đầu thế kỷ XX), con
đƣờng cứu nƣớc của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay sau khi quyết định phƣơng hƣớng giải phóng và phát triển
dân tộc theo con đƣờng của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó
thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
9
Năm 1960, Ngƣời nói: “ Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng đƣợc các dân tộc bị áp bức và những ngƣời lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc và mục tiêu giải phóng giai cấp và giải
phóng con ngƣời. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một
nhà nƣớc thực sự của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho ngƣời lao động có
quyền làm chủ, mới thực hiện đƣợc sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội,
giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con ngƣời. Hồ Chí Minh nói :
“Nƣớc đƣợc độc lập mà dân không đƣợc hƣởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nƣớc mạnh, mọi ngƣời đƣợc sung sƣớng, tự do.
Ngƣời khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một
ấm no thêm, Tổ quốc mỗi ngày giàu mạnh thêm”.
2.3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhƣng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân là điều kiện đề giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai
cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
Tháng 5 – 1941, Ngƣời cùng với Trung ƣơng Đảng khẳng định: “Trong lúc
này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dƣới sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết đƣợc vấn đề dân tốc giải
phóng, không đòi đƣợc độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại đƣợc.
10
2.4. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của
các dân tộc khác
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị
áp bức.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự
quyết, nhƣng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Ngƣời nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng
chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu
hiệu: “Giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trƣơng phải bằng thắng lợi của cách mạng
mỗi nƣớc mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng
sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu
nƣớc chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng nhƣ Ph.Ăngghen từng
nói: Những tƣ tƣởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng
là những tƣ tƣởng quốc tế chân chính.
11
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀO VIỆC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
ĐẢO
1. Chủ quyền biển đảo Việt Nam:
1.1. Vùng biển
Vùng biển Việt Nam tiếp giáp với vùng biển của các nƣớc: Trung Quốc,
Campuchia, Philippin, Malaixia, Brunây, Inđônêxia, Xingapo, Thái Lan.
Vùng biển của nƣớc ta bao gồm: nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.
- Nội thuỷ là vùng nƣớc tiếp giáp với đất liền, ở phía trong đƣờng cơ sở. Ngày
12 - 11 - 1982, Chính phủ nƣớc ta đã ra tuyên bố quy định đƣờng cơ sở ven bờ
biển để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Vùng nội thuỷ cũng đƣợc xem nhƣ bộ
phận lãnh thổ trên đất liền.
- Lãnh hải là vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia trên biển. Lãnh hải Việt
Nam có chiều rộng 12 hải lí (1 hải lí = 1852m). Ranh giới của lãnh hải (đƣợc xác
định bởi các đƣờng song song cách đều đƣờng cơ sở về phía biển và đƣờng phân
định trên các vịnh với các nƣớc hữu quan) chính là đƣờng biên giới quốc gia trên
biển.
- Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển đƣợc quy định nhằm đảm bảo cho việc
thực hiện chủ quyền của nƣớc ven biển. Vùng tiếp giáp lãnh hải của nƣớc ta rộng
12 hải lí. Trong vùng này, Nhà nƣớc ta có quyền thực hiện các biện pháp để bảo vệ
an ninh quốc phòng, kiểm soát thuế quan, các quy định về y tế, môi trƣờng, nhập
cƣ…
- Vùng đặc quyền về kinh tế là vùng tiếp liền với lãnh hải và hợp với lãnh hải
thành một vùng biển rộng 200 hải lí tính từ đƣờng cơ sở ở vùng này, Nhà nƣớc ta
có chủ quyền hoàn toàn về kinh tế nhƣng các nƣớc khác đƣợc đạt ống dẫn dầu, dây
12
cáp ngầm và tàu thuyền, máy bay nƣớc ngoài đƣợc tự do về hoạt động hàng hải và
hàng không theo Công ƣớc của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
- Thềm lục địa là phần ngầm dƣới biển và lòng đất dƣới đáy biển thuộc phần
lục địa kéo dài, mở rộng ra ngoài lãnh hải cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, có độ
sâu khoảng 200m hoặc hơn nữa. Nhà nƣớc ta có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm
dò, khai thác, bảo vệ và quản lí các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt
Nam.
Nhƣ vậy, theo quan niệm mới về chủ quyền quốc gia thì vùng biển Việt Nam
có diện tích khoảng 1 triệu km2 ở Biển Đông.
1.2. Vùng trời
Vùng trời Việt Nam là khoảng không gian bao trùm lên trên lãnh thổ nƣớc ta;
trên đất liền đƣợc xác định bằng các đƣờng biên giới, trên biển là ranh giới bên
ngoài của lãnh hải và không gian của các đảo.
2. Thực trạng:
Hiện nay mật độ dân cƣ trên biển, đảo và quần đảo thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội các vùng ven biển, trên biển và trên các đảo còn chƣa hoàn thiện; khả năng
bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia còn nhiều hạn chế...
Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu thế kỷ
thứ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiên Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra
khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút
lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tƣ cách là lực lƣợng đƣợc
Chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nƣớc Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý
quần đảo này.
Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền
Trung Hoa Dân quốc đƣa lực lƣợng ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo
Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân
đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa.
13
Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dƣơng theo
quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ và trong khi chính quyền Nam Việt Nam chƣa
kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, CHND Trung Hoa đã đƣa quân ra chiếm đóng
nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa,
Năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ, quân
đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, CHND Trung Hoa lại
huy động lực lƣợng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân
đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ.
Mọi hành động xâm lƣợc bằng vũ lực nói trên của CHND Trung Hoa đều gặp
phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa và đều bị Chính phủ
Việt Nam Cộng hòa, với tƣ cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế, đại diện cho Nhà
nƣớc Việt Nam quản lý phần lãnh thổ miền Nam Việt Nam theo quy định của Hiệp
định Giơ-ne-vơ năm 1954, lên tiếng phản đối mạnh mẽ trên mặt trận đấu tranh
ngoại giao và dƣ luận.
Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trƣờng Sa từ những
năm 30 của thế kỷ trƣớc, mở đầu bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở
Paris gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ
Trung Quốc”.
Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xâm chiếm đảo Ba Bình. Năm
1956, quân đội Đài Loan lại tái chiếm đảo Ba Bình.
Năm 1988, CHND Trung Hoa huy động lực lƣợng đánh chiếm 6 vị trí, là
những bãi cạn nằm về phía tây bắc Trƣờng Sa, ra sức xây dựng, nâng cấp, biến các
bãi cạn này thành các điểm đóng quân kiên cố, nhƣ những pháo đài trên biển.
Năm 1995, CHND Trung Hoa lại huy động quân đội đánh chiếm đá Vành
Khăn, nằm về phía Đông Nam quần đảo Trƣờng Sa. Hiện nay họ đang sử dụng sức
mạnh để bao vây, chiếm đóng bãi cạn Cỏ Mây, nằm về phía Đông, gần với đá Vành
Khăn, thuộc quần đảo Trƣờng Sa của Việt Nam.
14
Nhƣ vậy, tổng số đá, bãi cạn mà phía Trung Quốc đã dùng sức mạnh để đánh
chiếm ở quần đảo Trƣờng Sa cho đến nay là 7 vị trí. Đài Loan chiếm đóng đảo Ba
Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trƣờng Sa và mở rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô
là bãi Bàn Than.
Philippines bắt đầu tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trƣờng Sa bằng
sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trƣờng Sa phải thuộc về
Philippines vì nó ở gần Philippines.
Từ năm 1971 đến năm 1973, Philippines đƣa quân chiếm đóng 5 đảo; năm
1977 – 1978, chiếm thêm 2 đảo; năm 1979, công bố Sắc lệnh của Tổng thống
Marcos ký ngày 11 tháng 6 năm 1979 gộp toàn bộ quần đảo Trƣờng Sa, trừ đảo
Trƣờng Sa, vào trong một đơn vị hành chính, gọi là Kalayaan, thuộc lãnh thổ
Philippines. Năm 1980, Philippines chiếm đóng thêm 1 đảo nữa nằm về phía Nam
Trƣờng Sa, đó là đảo Công Đo… Đến nay, Philippines chiếm đóng 9 đảo, đá trong
quần đảo Trƣờng Sa.
Malaysia mở đầu bằng việc Sứ quán Malaysia ở Sài Gòn, ngày 3 tháng 2 năm
1971, gửi Công hàm cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa hỏi rằng quần đảo
Trƣờng Sa hiện thời thuộc nƣớc Cộng hòa Morac Songhrati Mead có thuộc lãnh
thổ Việt Nam Cộng hòa hay Việt Nam Cộng hòa có yêu sách đối với quần đảo đó
không? Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trả lời rằng
quần đảo Trƣờng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm chủ quyền Việt Nam
ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm luật pháp quốc tế.
Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Malaysia xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ
Malaysia khu vực phía Nam Trƣờng Sa, bao gồm đảo An Bang và Thuyền Chài đã
từng do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ.
Năm 1983 – 1984, Malaysia cho quân chiếm đóng 3 bãi ngầm ở phía Nam
Trƣờng Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân. Năm 1988, họ đóng thêm 2 bãi ngầm
15
nữa là Én Đất và Thám Hiểm. Hiện nay, Malaysia đang chiếm giữ 5 đảo, đá, bãi
cạn trong quần đảo Trƣờng Sa.
Nhân dân ta đã anh dung chiến đấu giữ vũng chủ quyền biển đảo quê hƣơng,
rất nhiều anh hùng đã ngã xuống nhƣng không ai nản chí, vẫn quyết tâm giữ vững
chủ quyền.
3. Nguyên nhân:
3.1. Về phát triển kinh tế
Biển Đông là vùng biển có 1 trong số 10 tuyến đƣờng hàng hải lớn nhất trên
thế giới đi qua. Giao thông nhộn nhịp đứng thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải).
Hàng ngày có khoảng 200 - 300 tàu từ 5.000 tấn trở lên qua lại (không kể tàu dƣới
5.000 tấn) chiếm 1/4 lƣu lƣợng tàu hoạt động trên biển của thế giới. Khu vực Biển
Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nƣớc, trong đó eo biển Malacca là
eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz). Biển Đông rất quan
trọng đối với nhiều nƣớc trong khu vực xét về vị trí địa - chiến lƣợc, an ninh, giao
thông hàng hải và kinh tế. Với Mỹ là tuyến hoạt động chính của Hạm đội 7, có
90% hàng hóa của Mỹ và hàng hóa đồng minh chuyên chở qua Biển Đông. Với
Trung Quốc hàng năm nhập 160 triệu tấn dầu thì 50% dầu nhập và 70% hàng hóa
qua Biển Đông. Với Nhật Bản 70% lƣợng dầu nhập khẩu và 42% lƣợng hàng hóa
xuất khẩu chuyên chở qua Biển Đông.
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng
cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nƣớc xung quanh, đặc biệt là nguồn
tài nguyên sinh vật (thủy sản), phi sinh vật (dầu khí, khoáng sản). Biển Đông đƣợc
coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm
lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney - Saba, Sarawak, Malay,
Pattani, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa Sông Châu Giang… Các khu
vực có tiềm năng dầu khí còn lại chƣa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài của
vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tƣ Chính. Theo đánh
16
giá của Bộ Năng lƣợng Mỹ, lƣợng dầu dự trữ đƣợc kiểm chứng ở Biển Đông là 7
tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung
Quốc, trữ lƣợng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng.
Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con
đƣờng hàng hải và hàng không huyết mạch thông thƣơng giữa Ấn Độ Dƣơng và
Thái Bình Dƣơng, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và
các nƣớc trong khu vực. Điều kiện tự nhiên của bờ biển Việt Nam là tiềm năng to
lớn cho ngành giao thông hàng hải Việt Nam. Dọc bờ biển Việt Nam xác định
nhiều khu vực xây dựng cảng, trong đó có một số nơi có thể xây dựng cảng biển
nƣớc sâu nhƣ: Cái Lân và một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long,
Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát Hải, Đồ Sơn, Nghi Sơn, Cửa Lò, Hòn La, Vũng Áng,
Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quốc, Vân Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải…
Phía Nam, cảng quy mô vừa nhƣ Hòn Chông, Phú Quốc… Ngoài sự hình thành
mạng lƣới cảng biển, các tuyến đƣờng bộ, đƣờng sắt dọc ven biển và nối với các
vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đƣờng xuyên Á) sẽ cho phép vùng
biển và ven biển nƣớc ta có khả năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi miền
của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ khí
đốt. Trữ lƣợng dự báo tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn
dầu quy đổi, trữ lƣợng khai thác từ 4 đến 5 tỷ tấn. Trữ lƣợng khí dự báo khoảng
1.000 tỷ m3. Hiện nay, chúng ta đã phát hiện hàng chục mỏ dầu khí có trữ lƣợng
khai thác công nghiệp, trong đó đã đƣa vào khai thác gần một chục mỏ, hàng năm
cung cấp hàng triệu tấn dầu và hàng tỷ m3 khí phục vụ cho phát triển kinh tế và dân
sinh. Ngoài ra, còn có các khoáng sản quan trọng và có tiềm năng lớn nhƣ than,
sắt, titan, băng cháy, cát thủy tinh, muối và các loại vật liệu xây dựng khác.
Nguồn lợi hải sản nƣớc ta đƣợc đánh giá vào loại phong phú trong khu vực.
Theo các điều tra về nguồn lợi hải sản, tính đa dạng sinh học trong vùng biển nƣớc
17
ta đã phát hiện đƣợc khoảng 11.000 loài sinh vật cƣ trú, trong đó có 6.000 loài
động vật đáy, 2.400 loài cá (trong đó có 130 loài cá có giá trị kinh tế), 653 loài
rong biển, 657 loài động vật phù sa, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển…
Trữ lƣợng cá biển ƣớc tính trong khoảng từ 3,1 đến 4,1 triệu tấn, khả năng khai
thác từ 1,4 đến 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú đã góp phần đƣa ngành
thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, mang lại giá trị xuất
khẩu đứng thứ 3 trong các ngành kinh tế của đất nƣớc.
Biển Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển du lịch - ngành công nghiệp
không khói, hiện đang đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế của đất nƣớc. Do đặc
điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vƣơn ra sát bờ biển đã tạo thành nhiều
cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vịnh, bãi cát trắng, hang động,
các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm
có trên thế giới nhƣ di sản thiên nhiên Hạ Long đƣợc UNESCO xếp hạng. Các
thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng nhƣ Phong Nha, Bích Động, Non nƣớc…, các di
tích lịch sử và văn hóa nhƣ: Cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm, Nhà thờ đá
Phát Diệm… phân bố tại vùng ven biển. Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để
Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch hiện đại nhƣ nghỉ ngơi; dƣỡng
bệnh; tắm biển; du lịch sinh thái nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo, ngầm
dƣới nƣớc; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lƣớt ván, nhảy sóng, đua thuyền…
3.2. Về quốc phòng - an ninh
Biển nƣớc ta đƣợc ví nhƣ mặt tiền, sân trƣớc, cửa ngõ quốc gia; biển, đảo,
thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí
thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận có
tới 2/3 cuộc chiến tranh, kẻ thù đã sử dụng đƣờng biển để tấn công xâm lƣợc nƣớc
ta.
Những chiến công hiển hách trên chiến trƣờng sông biển đã minh chứng: Ba
lần đại thắng quân thù trên sông Bạch Đằng (năm 938, 981 và 1288); chiến thắng
18
trên phòng tuyến sông Nhƣ Nguyệt 1077; chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút năm
1785 và những chiến công vang dội của quân và dân ta trên chiến trƣờng sông biển
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là những minh
chứng ghi đậm dấu ấn không bao giờ mờ phai trong lịch sử dân tộc.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo Việt Nam có
vai trò quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nƣớc ra hƣớng biển. Do đặc
điểm lãnh thổ đất liền nƣớc ta có hình chữ S, trải dài ven biển từ Bắc vào Nam,
chiều ngang hẹp (nơi rộng nhất khoảng 600 km, nơi hẹp nhất khoảng 50 km), nên
chiều sâu đất nƣớc bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm chính trị, kinh tế xã hội của ta
đều nằm trong phạm vi cách bờ biển không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ
hƣớng biển. Nếu chiến tranh xảy ra thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong
tầm hoạt động, bắn phá của vũ khí trang bị công nghệ cao xuất phát từ hƣớng biển.
Nếu các quần đảo xa bờ, gần bờ đƣợc củng cố xây dựng căn cứ, vị trí trú đậu, triển
khai của lực lƣợng Hải quân Việt Nam và sự tham gia của các lực lƣợng khác thì
biển đảo có vai trò quan trọng làm tăng chiều sâu phòng thủ hiệu quả cho đất nƣớc.
Từ nhiều năm nay, nhất là những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến
nay trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển đảo rất quyết liệt và phức
tạp, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định, tác động đến quốc phòng và an ninh nƣớc
ta. Trên Biển Đông vùng biển nƣớc ta tiếp giáp với vùng biển 7 nƣớc trong khu
vực là: Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan (Tây Nam), Philippin,
Malaixia, Inđônêxia, Brunây (phía Đông, Đông Nam và Nam). Nơi đây đang diễn
ra những tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia, đẩy tới
xu hƣớng tăng cƣờng lực lƣợng quân sự, đặc biệt là hải quân của các nƣớc trong
khu vực, nhất là những nƣớc có tiềm lực lớn về kinh tế, quân sự. Họ tận dụng ƣu
thế của mình trên biển để đe dọa chủ quyền vùng biển đảo, thềm lục địa của nƣớc
ta, gây ra những nhân tố khó lƣờng về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh đất
nƣớc.
19
Vƣơn ra biển, làm giàu từ biển là định hƣớng đúng đắn phù hợp trong điều
kiện hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có biển, một nhân tố mà thế giới luôn
xem nhƣ một yếu tố đặc lợi. Chúng ta cần tăng cƣờng hơn nữa những khả năng
quản lý, làm chủ vƣơn ra biển làm động lực thúc đẩy các vùng khác trong đất liền
phát triển. Chúng ta phải có quyết tâm cao, tập trung huy động mọi tiềm năng và
lợi thế của biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng an ninh trên biển để tạo ra môi trƣờng hòa bình, ổn định, tạo điều kiện cho các nhà
đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam và ngƣ dân các địa phƣơng yên tâm làm ăn trên
các vùng biển đảo, nhất là ở vùng biển xa. Phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt
Nam và các lực lƣợng vững mạnh, theo hƣớng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và
hiện đại, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ để quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
4. Giải pháp:
Trƣớc tham vọng kiểm sát Biển Đông, hiện thực hóa “đƣờng lƣỡi bò”, Trung
Quốc đã và sẽ tiếp tục hành xử bất chấp Luật pháp quốc tế, do vậy Việt Nam phải
có hành động kiên quyết: Một mặt, chúng ta kiên trì các giải pháp hòa bình, phù
hợp với quy định của Luật pháp Quốc tế, đặc biệt là công ƣớc Liên hiệp quốc về
Luật biển năm 1982, nhƣng kiên quyết không nhân nhƣợng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nƣớc ta đã đƣợc công ƣớc quốc tế thừa nhận. Mặt
khác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó chủ động trong mọi tình huống bất ngờ về xung
dột vũ trang có thể xảy ra.
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền trên
các phƣơng tiện thông tin đại chúng đảm bảo cho đồng bào ở trong nƣớc cũng nhƣ
kiều bào ở nƣớc ngoài hiểu đƣợc chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Thông tin kịp
thời, chính xác, cụ thể về âm mƣu và hành động của Trung Quốc trong chiến lƣợc
hiện thực hóa “ đƣờng lƣỡi bò” ở Biển Đông. Thông qua các kênh thông tin bằng
tiếng nƣớc ngoài và bằng con đƣờng ngoại giao, chúng ta cần chuyển đến chính
20
phủ và nhân dân các nƣớc, các tổ chức quốc tế và khu vực, kể cả Liên hiệp quốc
những thông tin sớm nhất và chính xác nhất để bạn bề quốc tế và nhân dân các
nƣớc hiểu đúng tình hình Biển Đông mà chia sẻ và ủng hộ Việt Nam.
Quốc hội cần nhanh chóng hoàn chỉnh và ban hành Luật về biển làm cơ sở
cho tuyên truyền và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của nƣớc ta. Tiếp tục đầu
tƣ, nghiên cứu toàn diện về Biển Đông, đầu tƣ phát triển và nâng cao năng lực cho
đội ngũ cán bộ khoa học đảm bảo đủ sức nghiên cứu tham mƣu về chính sách, phổ
biến kiến thức về biển và Luật biển, tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo
Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế.
Thực hiện chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020 cần tiếp tục đƣợc hoạch
định mang tính tổng thể, hệ thống. Là nƣớc nhỏ, tiềm lực kinh tế và quân sự còn
yếu hơn trong quan hệ bất đối xứng thì vũ khí chính mà chúng ta cần sủ dụng là
ngoại giao. Kinh nghiệm trong thời kì chống Pháp và chống Mỹ đã mách bảo
chúng ta: phải biết kết hợp giữa ngoại giao nhà nƣớc với ngoại giao nhân dân,
ngoại giao nhà nƣớc có chiến lƣợc, chiến thuật rất tốt, nhƣng đối ngoại nhân dân
cũng là vũ khí sắc bén để chúng ta tranh thủ sự ủng hộ của thế giới và khu vực đối
với cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Cần tăng cƣờng sức mạnh quân sự theo hƣớng tự vệ, đủ sức “ răn đe”, can
thiệp khi đụng độ và hỗ trợ cho mặt trận chính trị, ngoại giao; đủ mạnh để làm
nòng cốt cho cuộc đấu tranh bao vệ chủ quyền và lợi ích củ đất nƣớc. Đồng thời,
cần ƣu tiên đầu tƣ tăng cƣờng nhân lực, hiện đại hóa các phƣơng tiện, binh khí kỹ
thuật, nâng cao năng lực cho lực lƣợng thực hiện chấp pháp (cảnh sát biển, quân
ngƣ, kiểm ngƣ …) của Việt Nam . Lực lƣợng này phải có đủ khả năng phát hiện,
ngăn chặn từ xa những tàu, thuyền xâm phạm chủ quyền, có hành vi vi phạm pháp
luật Việt Nam và công ƣớc quốc tế; can thiệp kịp thời bắt giữ những tàu, thuyền,
cố tình gây hấn – lập hồ sơ khởi tố
21
Động viên các nguồn lực xã hội tham gia lập quỹ “ An ninh Biển Đông” nhằm
hỗ trợ ngƣ dân có đủ điều kiện ra khơi bám biển dài ngày, có ngƣ cụ hành nghề
hiệu quả, có phƣơng tiện tác nghiệp tại chỗ, ghi lại đầy đủ những hình ảnh tàu
Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam, uy hiếp xua đuổi ngƣ dân đánh cá;
ngăn cản, phá hoại tàu Việt Nam đang thăm dò khai thác dầu trong thềm lục địa
của mình; đe dọa các nhà đầu tƣ vào Việt Nam. Lấy hình ảnh làm bằng chứng lập
hồ sơ tố cáo hành động gây hấn của Trung quốc với công luận quốc tế.
22
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là: đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân, giải phóng dân tộc. Lựa chọn con đƣờng phát triển của dân tộc là đi tới xã hội
cộng sản. Con đƣờng đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thuộc địa. Độc
lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa.
Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp: Vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết,
trƣớc hết, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. “Yêu tổ quốc, yêu nhân
dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân
dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu thêm”. Giải
phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp. Giữ vững độc lập của mình đồng
thời phải tôn trọng độc lập của các dân tộc khác.
Đất nƣớc Việt Nam có chủ quyền rất rõ ràng, đƣợc thế giới công nhận. Vùng
biển bao gồm 5 bộ phận cấu thành: vùng nội thuỷ, vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Quần đảo Hoàng Sa(Đà Nẵng) và
Trƣờng Sa(Khánh Hoà) là thuộc chủ quyền của Việt Nam, các quốc gia khác
không đƣợc xâm phạm. Vùng biển nƣớc ta trong nhiều thế kỉ qua đều xảy ra tranh
chấp với các nƣớc láng giềng. Nguyên nhân của việc tranh chấp trên là do vị trí địa
lý thuận lợi của biển Đông, là con đƣờng hàng hải quan trọng. Biển Đông có rất
nhiều khoáng sản và thuỷ hải sản, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế nƣớc
nhà, đặc biệt là phát triển kinh tế biển. Bên cạnh đó, biển Đông còn có vai trò địa
chiến lƣợc quan trọng trong việc bảo vệ quốc phòng và an ninh quốc gia, chính vì
thế các thế lực bên ngoài mới thƣờng xuyên tranh chấp.
Để giải quyết các tranh chấp trên, Đảng và Nhà nƣớc ta giải quyết bằng giải
pháp hoà bình, tuân theo tƣ tƣởng của Bác, bảo vệ chủ quyền của mình đồng thời
cũng giữ vững chủ quyền, độc lập của nƣớc khác. Chúng tôi cũng có đề ra một số
phƣơng hƣớng giải quyết tích cực trong nƣớc. Nhƣ là tăng cƣờng tuyên truyền,
23
giáo dục thế hệ trẻ nắm rõ chủ quyền quốc gia, tăng cƣờng sức mạnh quân sự của
Việt Nam, lập ra các quỹ hỗ trợ các cƣ dân sống ở các đảo bám đất giữ vững chủ
quyền,…..
Thông qua bài tiểu luận, chúng tôi hy vọng phần nào giúp mọi ngƣời nắm rõ
về chủ quyền lãnh thổ Việt Nam. Để có cách nhìn đúng đắng, khách quan trong
tình thế các thế lực thù địch sử sụng các thủ đoạn để trục lợi.
24
PHỤ LỤC
Đƣờng lƣỡi bò của Trung Quốc
Giàn khoan Hải Dƣơng 981
25