I/ Khái niệm tôn giáo:
1.Tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện
thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong
tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.
Nói đến tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, trước hết và căn bản nhất
là nói đến ý thức tôn giáo. Ý thức tôn giáo đó là những quan điểm, tư tưởng tôn giáo,
những tín điều tôn giáo và tâm lý tôn giáo.
2.Bản chất
- Mặt tiêu cực: tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con
người trước tự nhiên và xã hội. Tôn giáo phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người, giải thích thế giới bằng niềm tin mà
không dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn nên nó không đưa lại cho con người
những nhận thức đúng đắn về hiện thực khách quan. Sự phản ánh bế tắc, hư ảo của
tôn giáo phần nào hạn chế khả năng lao động sáng tạo của con người.
- Mặt tích cực: Tôn giáo thể hiện nguyện vọng và con đường thực hiện giải phóng
quần chúng, trước hết là đời sống tinh thần. Trong tôn giáo chứa đựng những giá trị
nhân văn, nhân đạo, hướng thiện, nhờ đó đáp ứng một phần nào đó nhu cầu văn hóa
tinh thần, đời sống tâm linh của một bộ phận nhân dân, là nơi lưu giữ những giá trị
văn hóa của dân tộc.
II.Sự ra đời phát triển và hệ thống quan điểm
1.ra đời_ phát triển
a.Vệ Đà (nghĩa là Thông hiểu)
- Giai đoạn Veda kéo dài từ khoảng năm 1800 đến năm 500 TCN và gắn liền
với sự xâm nhập của người Aryan vào Ấn Độ. Vào thời gian này, kinh Veda (Vệ Đà)
một trong những bộ kinh thiết yếu nhất của Hindu giáo đã ra đời. Kinh Veda gồm có
4 bộ sưu tập:
+Rig Veda (nội dung ca tụng các thần linh, cuốn sách ra đời sớm nhất, có lẽ có
niên đại từ khoảng năm 1200TCN);
+Yajur (tập hợp các nghi thức lễ và tế tự),
+Sama Veda (gồm những khúc ca cầu nguyện);
+Atharva Veda (triển khai ý nghĩa ba bộ kinh kia có niên đại từ khoảng năm
900 TCN)
- Giai đoạn Veda đã đặt xong nền móng về thần điện, giáo lý, nghi thức cho
Hindu giáo. Những vị thần của giai đoạn này chủ yếu là biểu tượng của các hiện
tượng tự nhiên như Indra (Thần Sấm), Surya (Thần Mặt Trời), Vayu (Thần Gió), Agni
(Thần Lửa), Varuna (Thần Không Trung),…
-Giáo lý cơ bản của giai đoạn Veda là ý niệm cho rằng, con người thường
xuyên có các mối quan hệ với các thần linh và có sự hòa đồng với vũ trụ. Do đó, chỉ
có cúng tế, kêu cầu thì con người mới được các thần linh phù hộ trong mọi công việc.
Song hành với các buổi cầu nguyện là các cuộc hiến tế lớn. Những đồ hiến tế như thịt
động vật, sửa, rượu,… được dâng lên thần linh bằng cách đốt trên giàn lửa.
-Việc cúng tế thần linh có vai trò quan trọng, nên dần dần đội ngũ các thầy
cúng tế trở nên đông đảo và đã biến thành tầng lớp có uy tín và quyền lực nhất trong
xã hội Ấn Độ. Thế là đẳng cấp tăng lữ Bà La Môn ra đời.
b.Bà la môn:
Đạo Bà la môn hình thành trên cơ sở của Vệ Đà Giáo, khoảng 800 năm TCN.
*Sự phân chia giai cấp trong xã hội: Chia xã hội làm 5 giai cấp và ai ở giai cấp
nào thì ở mãi trong giai cấp đó suốt đời.
+Giai cấp trên hết là Tăng lữ Bà la môn
Sinh ra từ miệng của Brahma (Đấng phạm thiên), quyền vị tối cao trong xã
hội,độc quyền cúng tế
+Giai cấp thứ nhì là Sát đế lỵ
Sinh ra từ vai của Brahma, gồm vua chúa, quý tộc, trưởng giả... nắm quyền cai
rị và thưởng phạt dân chúng.
+Giai cấp thứ ba là Phệ xá
Sinh ra từ hông của Brahma, gồm các nhà thương mãi, chủ trại giàu có, nắm
kinh tế và chuyên mua bán.
+Giai cấp thứ tư là Thủ đà la
Sinh ra từ chân của Brahma,gồm nông dân và công nhân nghèo khổ
+Giai cấp thứ năm là Chiên đà la
Là giai cấp kém nhất trong xã hội,làm các nghề như : ở đợ, làm mướn...
*Giáo luật : Chia làm 3 bực : sơ khởi, trung và thượng.
+Sơ khởi là những vị sư cúng lễ thường và những vị phục sự nơi đền chùa. Họ
tụng 3 Bộ Kinh Véda đầu, gồm : Rig Véda, Yayur Véda, Sama Véda. Họ hành
lễ, chứng lễ các cuộc cúng tế, nên thườngtrực tiếp với dân chúng.
+Bực trung là những vị sư bói toán, tiên tri, thỉnh Quỉ Thần, thỉnh thoảng họ
làm vài phép linh cho dân chúng phục. Hạng nầy đọc và giảng giải Bộ Kinh
Véda thứ tư là Atharva Véda. Bộ Kinh thứ tư nầy có nội dung cao hơn 3 Bộ
Kinh trước và có những câu Thần chú.
+Bực thượng là bực cao hơn hết, gồm các vị sư không còn trực tiếp với dân
chúng. Hạng nầy chuyên nghiên cứu các lực vô hình trong vũ trụ.
Hạng Bà-La-Môn sơ khởi phải tu học 20 năm mới lên hạng trung. Hạng trung
tu học 20 năm mới lên hạng thượng.
Trên hết là một vị sư chưởng quản tôn giáo làm Giáo Chủ. Vị Giáo Chủ nầy
có 70 vị sư phụ tá.
Các Tăng lữ Bà-La-Môn phải giữ 10 Điều Giới luật :
1.
Nhẫn nhục.
2.
Làm phải (lấy điều lành mà trả điều ác).
3.
Điều độ.
4.
Ngay thật.
5.
Giữ mình trong sạch.
6.
Làm chủ giác quan.
7.
Biết rành Kinh Luật Véda.
8.
Biết rõ Đấng Phạm Thiên.
9.
Nói lời chơn thật.
10. Giữ mình đừng giận.
*Thuyết ashrama của Hindu giáo được hình thành.Gồm 4 giai đoạn mà con
người phải trải qua: giai đoạn đồ đệ Bà La Môn giáo, chủ gia đình, ẩn sĩ và tu sĩ
khuất thực.
+Gd1: Phạm hành kỳ: (giai đoạn từ 12 - 24 tuổi) là thời học các kinh Veda và
chuẩn bị để trở thành người hữu ích cho xã hội.
+Gd2: Gia trú kỳ: (giai đoạn từ 24 - 48 tuổi) trở thành “chủ hộ”, kết hôn và
nuôi dưỡng gia đình theo các quy tắc truyền thống. Tiến hành thờ cúng trong gia đình
và bố thí theo bổn phận của tín đồ Bà la môn.
+Gd3:Lâm thế kỳ: (giai đoạn từ 48 - 72 tuổi) là lúc về hưu, con người sẽ từ bỏ
việc làm và của cải vật chất để sống cuộc sống mang nét tâm linh hơn, tín đồ bước
vào giai đoạn “ẩn cư trong rừng” hay “người thầy thông thái lớn tuổi” cho người trẻ
tuổi hơn.
+Gd4: Độ thế kỳ: (giai đoạn từ 72 tuổi) tín đồ bước vào giai đoạn từ bỏ sannyasi hay xuất gia. Dấn thân vào con đường tu hành, mà tiêu chí là thoát ly sanh tử
luân hồi, tín đồ tập trung vào sự tìm hiểu và chiêm nghiệm tôn giáo.
Theo truyền thống, tín đồ sau khi chết được hỏa táng nơi khu đất quang.
Trưởng nam của người quá cố sẽ châm lửa. Sau khi thiêu, xương sẽ được ném xuống
suối hoặc xuống sông để thanh tẩy cho linh hồn người quá cố chóng siêu thoát. Tốt
nhất là xương cốt của người chết được ném xuống sông Hằng.
Như vậy, tới giai đoạn Bà La Môn giáo ba yếu tố cơ bản của Hindu giáo là
Dharma (đạo), Varna (đẳng cấp) và ashrama đã được hình thành. Sau đó, trong suốt
hơn một chục thế kỷ trước và sau công nguyên, Hindu giáo liên tục được các tác
phẩm văn học và tôn giáo như sử thi Mahabharata, sử thi Ramayana, cùng các truyền
thuyết Purana, bộ kinh Upanishad, tác phẩm triết học Vedanta bổ sung và hoàn thiện.
c.Hindu giáo (Ấn độ giáo)
Đạo Bà-La-Môn là quốc giáo của nước Ấn Độ. Nhưng khi Phật giáo của Đức
Phật Thích Ca truyền bá thì ảnh hưởng của Đạo Bà-La-Môn thu hẹp dần.
Qua nhiều lần cải cách để phù hợp phần nào trào lưu tiến hóa của dân
chúng, đến thế kỷ thứ nhứt sau Tây lịch, Đạo Bà-La-Môn biến thành Ấn Độ
giáo (nói tắt là Ấn giáo).
Ấn Độ giáo vẫn giữ những nét chánh của Đạo Bà-La-Môn, thờ Đấng Brahma,
về sau thờ thêm 2 Đấng nữa là Civa (Siva) và Vishnu hay Christna.
-
Đấng Brahma là Thần Sáng tạo,
-
Đấng Civa là Thần Tranh đấu,
-
Đấng Vishnu là Thần Bảo tồn.
Ba Đấng ấy hợp lại gọi là Tam vị Nhứt thể. (Đạo Cao Đài gọi 3 Đấng ấy là
Tam Thế Phật, cai quản 3 Nguơn : Thượng Nguơn, Trung Nguơn và Hạ
Nguơn, có đúc tượng đặt trên nóc Bát Quái Đài, Tòa Thánh Tây Ninh).
Ấn Độ giáo còn thờ các vị Thần thuở xưa khác như : - Thần Sấm Indra, Thần Mặt Trời Surya, - Thần lửa Agni, - Thần gió Vayu, - Thần không trung
Varuna.
Ấn Độ giáo vẫn giữ sự phân chia giai cấp của xã hội giống như Đạo Bà-LaMôn.
Ấn Độ giáo phân thành nhiều Chi phái, chủ yếu có 2 phái lớn là Vishnu và
Civa (Siva), đồng thời nuôi dưỡng nhiều môn phái triết học mà nổi tiếng nhứt
là 2 môn phái : Védanta và Yoga.
Để dễ dàng hòa nhập vào đông đảo dân chúng, ở giai đoạn nầy, nhiều nghi
thức tế lễ được đơn giản hóa, những sự hiến tế súc vật tốn kém được bãi bỏ.
Đến thế kỷ 19 và 20, một số nhà hoạt động nổi tiếng của Ấn Độ giáo như :
Ram Mohan Roy, Rama Krishna, Viveka Nanda, đã làm cuộc canh tân lớn đối
với Ấn Độ giáo, phục hồi những giá trị cơ bản và loại trừ các yếu tố lạc hậu và
thái quá ra khỏi tư tưởng của Đạo nầy. Chính nhờ khả năng thay đổi thích ứng
mà Ấn Độ giáo vẫn luôn luôn là tôn giáo chính của người Ấn và có ảnh hưởng
sâu xa đến mọi từng lớp dân chúng từ xưa tới nay.
III.Ảnh hưởng tới đời sống xã hội
Ảnh hưởng của Hindu Giáo
Vào thời Hindu Buddha , tiếng Phạn và chữ cái Pallawa du nhập từ Ấn Độ đã đem lại
cho cơ sở cho nhiều tộc người ở Indonesia sáng tạo chữ viết riêng của mình như chữ
Java, Sunda, Bali… .
- nhiều tác phẩm mới phỏng theo 2 bộ sử thi trên như Sri Rama , Arjuna wiwaha
-Và các chủ đề và nhân vật của hình thức nghệ thuật Wayang (rối bóng)cũng được đa
dạng thêm.
Cùng với việc tiếp thu chữ Phạn, các trường học cũng mọc lên, mặc dù rất đơn giản
và chỉ giảng dạy về đúng 1 lĩnh vực duy nhất đó là về tôn giáo .
1.4.2.2 Kiến trúc:
-Các vương triều Hindu cũng như Phật giáo đều để lại những đền thờ lớn đặc trưng,
có thể kể đến là đền Borobudur của vương triều Phật giáo Syailendra, đền Penataran,
thánh địa Trowulan của vương triều Hindu Majapahit.
Công trình kiến trúc của Hindu giáo
Prambanan
Là ngôi đền Hindu giáo lớn nhất Java, Indonesia ở mọi thời đại, Prambanan tập trung tất cả những tinh
hoa về kiến trúc, điêu khắc do vua Rakai Pikatan xây dựng, nhằm thể hiện sự hưng vượng của vương
triều lên các nét trang trí ngôi đền. Vẻ đẹp ngàn năm của Prambanan cho đến nay vẫn là một biểu
tượng rõ nét nhất trong lối xây dựng đền đài Hindu giáo ở Java.
Kiến trúc Prambanan phân thành ba khu vực: phần ngoài cùng của cụm đền là Bhurloka, tượng trưng
cho con người và cuộc sống trần tục, kế đến là Bhurvaloka tượng trưng cho giới tu hành, phần trọng
tâm nơi có các tháp chính là Svarloka tượng trưng cho đấng tối cao.
Tại Ấn độ
Cụm thánh tích Mahabalipuram, được xây dựng vào khoảng những năm 630 và
715. Đây là một cụm kiến trúc đặc biệt bao gồm nhiều ngôi đền Ấn Độ giáo to
nhỏ khác nhau được tách trực tiếp vào những tảng đá liền khối như các catha
(thiên xa) và đền thờ thần Si-va có tên là Đền ven biển xây hoàn toàn bằng đá.
Các ngôi đền đều được tạc vào các tảng đá lớn liền khối. Đền ven biển cũng
được xây toàn bằng đá, bên cạnh các ngôi đền có những tượng lớn: voi, sư tử,
bò…
"kinh thánh" của Ấn Độ Giáo dài hơn kinh thánh của Cơ Đốc và Do Thái Giáo
nhiều.
Trí tuệ được quý trọng đến mức người ta sẵn sàng làm mọi thứ để đạt được
nó. Con người trở nên hạnh phúc hơn, và sau thời gian học tập, anh cảm
thấy đủ khôn ngoan để tự mình tìm kiếm.