ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP VÀ CHÍNH SÁCH BẢO MẬT
THÔNG TIN KHÁCH HÀNG
1.1. Khái quát chung về nghề luật
Theo nghĩa rộng nhất, nếu hiểu nghề luật là nhưng nghề có liên quan đến luật,
có thể kể ra nhiều công việc như: Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, công chứng
viên, thừa phát lại, chấp hành viên, điều tra viên, giám định viên, chuyên viên pháp
lý, cố vấn pháp lý, giáo viên dạy luật, cán bộ nghiên cứu pháp luật… Qua đó theo
nghĩa rộng, có thể thấy nghề luật thật phong phú và đa dạng và trong xã hội pháp
quyền, tất cả các nghề luật đều cần được tôn vinh một cách xứng đáng.
a. Thẩm phán
Thẩm phán là một chức danh tư pháp, người được bổ nhiệm làm thẩm phán là
người có đủ điều kiện theo quy định pháp luật, được quyền nhân danh Nhà nước để
xét xử các vụ án. Thẩm phán – theo nghĩa lý tưởng được hiểu là người được quyền
ra quyết định cuối cùng để mang lại sự công bằng cho mọi người, cứu người vô tội
và trừng phạt kẻ ác trên cơ sở pháp luật.
b. Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp (tại hầu hết các nước trên thế giới
thường được gọi là công tố viên), kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân
dân buộc tội hoặc kiểm sát quá trình tố tụng tại phiên toà. Viện trưởng Viện kiểm
sát được quyền ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra lệnh bắt giữ, tham gia
điều tra vụ án, truy tố người phạm tội.
c. Công chứng viên
Công chứng viên là người làm việc tại các Phòng công chứng, có quyền xác
nhận tính hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng…
d. Thừa phát lại
Thừa phát lại là một chức danh tư pháp, tên gọi "thừa phát lại" là một thuật
ngữ có gốc Hán - Việt và có tính lịch sử, nó được tồn tại ở miền Nam Việt Nam
trong thời kỳ trước năm 1975, chỉ một người công lại (một người không phải nhân
viên nhà nước nhưng lại mang trong mình quyền lực nhà nước vì người đó được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm). Trong vốn từ ngữ Việt Nam hiện nay, cũng có người
đề xuất có tên khác như thừa hành viên.
e. Luật sư
Theo nghĩa hẹp, nói đến nghề luật trên góc độ cung cấp dịch vụ tư vấn pháp
luật là chúng ta nói đến nghề luật sư. Nghề luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất thể
hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật. Luật sư không giống như những
1
nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn
thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy tắc đạo đức nghề
nghiệp. Đây là một nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động
sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật của mỗi quốc gia, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan,
tổ chức. Luật sư có thể hành nghề tự do hoặc làm việc tại các tổ chức hành nghề
luật sư hoặc các tổ chức khác. Thu nhập của luật sư là từ các khoản thù lao do
khách hàng trả.
Trong khuông khổ chương trình này, đối tượng mà tác giả muốn hướng tới là
nghề tư vấn pháp luật mà trọng tâm là Luật sư và trợ giúp viên pháp lý. Trên thực
tế, những nghề nghiệp mà tác giả liệt kê ở trên thực chất đều có thể tư vấn pháp luật
bởi lẽ những người làm các công việc đó hầu hết rất am hiểu về pháp luật, họ có thể
đưa ra những nhận định pháp lý, những “lời khuyên pháp lý” trong các vụ việc cụ
thể. Tuy nhiên, xem xét trên phương diện chức năng chính thì Luật sư, trợ giúp viên
pháp lý là những chủ thể chính cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật có thu phí hoặc
miễn phí.
Nghề luật sư có các đặc điểm riêng biệt so với các nghề khác. Trước hết đây
là nghề tự do, hình thành từ nhu cầu minh oan, bảo vệ cho người thân hoặc bạn bè
bị nhà cầm quyền giam giữ hay bị trừng phạt một cách độc đoán, vô cớ. Hoạt động
này do người có trình độ, uy tín, lòng trắc ẩn, vị tha và tự nguyện đứng ra thực hiện,
sau đó phát triển thành một nghề tự do có điều lệ, có quy chế do Nhà nước quy định
hoặc thừa nhận. Đây là nghề tự do bởi người hành nghề cũng như các tổ chức hành
nghề không phải các tổ chức Nhà nước hay các cán bộ, công chức mà là người cung
cấp dịch vụ pháp lý. Nghề luật sư có chức năng xã hội là bảo vệ công lý, phát triển
kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nghề luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý, tham gia tố tụng để bào chữa cho
các bị can, bị cáo, bảo vệ cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong
vụ án hình sự, làm người đại diện hoặc bảo vệ cho các đương sự trong vụ án dân sự,
hành chính; tư vấn pháp luật, tư vấn giao dịch và hợp đồng cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức; đại diện ngoài tố tụng cho cá nhân, cơ quan, tổ chức; thực hiện các dịch vụ
pháp lý khác theo yêu cầu của khách hàng.
Nghề luật sư là nghề góp phần tích cực duy trì công lý và bảo vệ pháp luật.
2
Về duy trì công lý: Luật sư tham gia góp phần bảo vệ và giải phóng con người vì tự
do của con người, vì các giá trị tự nhiên và phẩm chất xã hội của con người trên cơ
sở tôn trọng chân lý khách quan, dựa vào các quy luật tự nhiên xã hội, dựa vào lợi
ích của cộng đồng, của dân tộc và vì hoà bình trên thế giới.
Về bảo vệ pháp luật: Luật sư tôn trọng và tuân thủ pháp luật, góp phần tuyên
truyền pháp luật, hướng cho mọi người thực hiện các hành vi ứng xử trên cơ sở các
quy định của pháp luật, chống mọi biểu hiện vi phạm pháp luật.
Nghề luật sư là nghề liên quan đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, của cá nhân, tổ chức. Các hoạt động của luật sư trước hết
hướng tới công lý, bảo vệ các giá trị vật chất và tinh thần của Nhà nước, lợi ích của
dân tộc, tránh mọi biểu hiện xâm phạm độc lập, chủ quyền, tự do và an ninh của
Nhà nước, chống mọi biểu hiện và hành vi xâm phạm đến tài sản của Nhà nước
cũng như luôn luôn bảo vệ các giá trị quốc gia. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư
là bảo vệ các quyền, lợi ích chân chính của mọi công dân, cá nhân như tài sản, danh
dự, nhân phẩm… Hoạt động của luật sư cũng liên quan đến việc bảo vệ quyền, lợi
ích của các tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh thuộc mọi thành phần khác nhau trong nền kinh tế quốc dân…
Nghề luật sư là nghề cao quý bởi hàm chứa những mục đích và phẩm chất
cao đẹp đòi hỏi người hành nghề luật sư phải có trình độ và năng lực cao, có văn
hoá và đạo đức trong sáng.
Ở Việt Nam, nghề luật sư có từ thời Pháp thuộc. Lúc bấy giờ (trước năm
1930) các luật sư người Pháp chiếm độc quyền hành nghề bào chữa và cho đến khi
có sắc lệnh của Tổng thống Pháp ngày 25/5/1930, thực dân Pháp mới tổ chức Hội
đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn, khi đó luật sư người Việt Nam mới được tham
gia biện hộ.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân,
ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngay sau đó, Nhà nước đã có những văn bản pháp lý
đầu tiên quy định chế độ bào chữa, điều kiện công nhận luật sư. Nhưng do thời kỳ
này nền kinh tế xã hội còn yếu kém, đất nước vừa trải qua giai đoạn chiến tranh, vì
vậy nghề luật sư chưa được phát triển.
Pháp lệnh luật sư năm 1987 được ban hành là cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc phát triển và hoạt động của luật sư ở nước ta. Pháp lệnh này quy định một
người tốt nghiệp đại học pháp lý hoặc có trình độ tương đương đại học pháp lý,
3
được một đoàn luật sư kết nạp công nhận và cấp thẻ hành nghề thì trở thành luật sư
và được phép hành nghề luật sư. Năm 2001 Pháp lệnh luật sư được thay thế và đến
năm 2006 Luật luật sư được ban hành, với các quy định đầy đủ về hành nghề luật
sư, điều kiện gia nhập Đoàn luật sư… đã tạo điều kiện thuận lợi cho nghề luật sư tại
Việt Nam phát triển. Luật luật sư năm 2006 quy định người muốn được công nhận
là luật sư thì sau khi tốt nghiệp đại học luật (không chấp nhận trình độ tương đương
đại học luật như quy định của Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987) còn phải trải qua một
khoá đào tạo luật sư, qua thời gian tập sự (18 tháng) và đạt kết quả kỳ kiểm tra hết
tập sự hành nghề luật sư. Hiện nay, thời gian tập sự rút ngắn lại còn 12 tháng những
thay vào đó thời gian học khóa đào tạo luật sư lại kéo dài lên 12 tháng.
Luật luật sư cũng đặc biệt chú trọng hơn đến tiêu chuẩn về phẩm chất đạo
đức đối với luật sư, bằng cách quy định rõ những trường hợp không đủ tư cách đạo
đức để trở thành luật sư, những trường hợp vi phạm về phẩm chất đạo đức phải xoá
tên khỏi danh sách luật sư và cấm hành nghề luật sư.
Bên cạnh đó, theo quy định của Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 thì cán
bộ, công chức cũng có thể là luật sư, có nghĩa là một người có thể vừa hành nghề
luật sư vừa thực hiện nghĩa vụ, quyền hạn của một công chức. Quy định như vậy
ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động luật sư, vừa tạo ra một bộ phận luật
sư không chuyên tâm với nghề, một bộ phận cán bộ, công chức không mẫn cán
trong công vụ. Để khắc phục tình trạng này, theo quan điểm chuyên nghiệp hóa và
đảm bảo các quy luật khách quan, Pháp lệnh luật sư năm 2001 cho đến Luật luật sư
năm 2006 quy định cán bộ, công chức không được hành nghề luật sư 1.
1.2. Đạo đức nghề luật
Theo cách hiểu thông thường, đạo đức là những nguyên tắc chuẩn mực quy
định hành vi xử sự của con người trong đời sống cộng đồng được xã hội thừa nhận.
Theo từ điển Tiếng Việt, đạo đức là những quy tắc, xử sự của con người phù
hợp với lợi ích chung của xã hội, của tập thể và của một cộng đồng, được hình
thành trên cơ sở những quan niệm, những quan điểm của một cộng đồng người về
cái thiện, cái ác, sự công bằng về nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự và về
những phạm trù khác thuộc đời sống tinh thần xã hội.
Từ đó, có thể hiểu một cách đơn giản đạo đức nghề luật là toàn bộ những
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mà người làm nghề luật phải tuân theo trong khi
hành nghề. Đạo đức nghề luật là thước đo phẩm chất đạo đức và trách nghiệm nghề
1 Bài viết “Số lượng luật sư còn quá ít” đăng tải trên
4
nghiệp và là khuôn mẫu cho sự tu dưỡng, rèn luyện để tạo lập và giữ gìn uy tín nghề
nghiệp của những người hành nghề luật.
Đạo đức nghề luật trước hết là một loại đạo đức xã hội và là một loại đao đức
nghề nghiệp vì thế nó mang đầy đủ các yếu tố của đạo đức xã hội, đạo đức nghề
nghiệp nói chung. Tuy nhiên nó có tính đặc thù khác với đạo đức xã hội như sau:
Thứ nhất, đạo đức nói chung là một phạm trù xã hội, hình thành trên cơ sở
nhận thức của con người về thiện – ác, tốt – xấu. Vì vậy, mỗi xã hội có một đạo đức
riêng của nó. Tuy nhiên khác với phạm trù là một đạo đức xã hội, đạo đức nghề luật
không hoàn toàn dựa vào cái thiện, cái ác mà lấy pháp luật làm nền tảng. Chính vì
thế, đạo đức nghề luật chỉ hình thành trong lĩnh vực hoạt động pháp luật. Dù vậy,
cũng cần lưu ý, đạo đức nghề luật chỉ phát huy được tính hiệu quả của nó trên nền
tảng pháp luật nhân tính, công bằng và khách quan. Hay nói cách khác, nếu pháp
luật phi nhân tính, xâm phạm thô bạo đến quyền con người, thì nó không thể làm
“nền tảng” cho đạo đức nghề luật.
Thứ hai, về đối tượng, đạo đức nghề luật hướng tới điều chỉnh những chủ thể
đặc biệt – những người am hiểu pháp luật, thực hành pháp luật, thậm chí nhân danh
Nhà nước để điều chỉnh, thiết lập lại các mối quan hệ bị phá vỡ. Kết quả thực hành
pháp luật của các chủ thể này ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích người dân, xã hội và
quốc gia. Trong khi đạo đức nói chung hướng đến điều chỉnh nhiều chủ thể khác
nhau trong xã hội.
Thứ ba, đạo đức nghề luật được pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật
với nội dung quy định giới hạn quyền, nghĩa vụ và chế tài đối với các chủ thể vi
phạm trong quá trình hành nghề luật. Đây là điểm khác biệt đặc trưng của đạo đức
nghề Luật so với đạo đức là phạm trù chung. Đạo đức nói chung không “pháp điển
hóa” các nguyên tắc xử sự thành các quyền, nghĩa vụ hay chế tài.
a. Đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán
Thẩm phán là một trong nhưng chức danh tư pháp biên chế trong tổ chức Tòa
án nhân dân, do đó cũng phải có đầy đủ đạo đức của người cán bộ, công chức ngành
Tòa án
Điều 15 Luật Cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ, công chức phải thực hiện
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ”.
Mỗi một ngành nghề việc thể hiện phẩm chất đạo đức khi thực hiện nhiệm vụ
có những nét đặc thù riêng.
5
- Với quân đội, phẩm chất đạo đức được thể hiện: “Quân đội ta trung với
Đảng, hiếu với dân; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành; khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
- Với Công an nhân dân: “Đối với Tổ quốc phải tuyệt đối trung thành; đối với
dân nhân phải kính trọng lễ phép; đối với địch phải cương quyết khôn khéo; đối với
đồng đội phải thân ái, giúp đỡ; đối với công việc phải tận tuỵ…”
- Với ngành y: “Lương y như từ mẫu”.
- Đối với ngành Tòa án thì: “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”….
Khi nói chuyện với Cán bộ ngành Tư pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng
chưa đủ. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải gần
dân, hiểu dân, giúp dân, học dân; học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công
bằng. Thêm nữa phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính
sách của Chính phủ... tóm lại, các chú phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần
dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.
+ Cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân phải thực hiện Phụng công, thủ
pháp, chí công, vô tư;
+ Cán bộ, công chức ngành Tòa án phải thực hiện đúng chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện đúng chức trách, nhiệm
vụ, công vụ của cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật; nghiêm chỉnh chấp
hành và thực hiện đúng các quy chế, quy định làm việc và nội quy cơ quan;
+ Cán bộ, công chức ngành Tòa án không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện
để nâng cao năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ứng xử có văn hoá
để hoàn thành nhiệm vụ, công vụ được giao;
+ Khi thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, công chức, viên chức phải mặc gọn gàng,
lịch sự; cán bộ, công chức, viên chức có trang phục riêng thì thực hiện theo quy
định của pháp luật.
+ Lễ phục của cán bộ, công chức, viên chức là trang phục chính thức được sử
dụng trong những buổi lễ, cuộc họp trọng thể, các cuộc tiếp khách nước ngoài; lễ
phục của nam cán bộ, công chức, viên chức: bộ comple, áo sơ mi, cravat; lễ phục
của nữ cán bộ, công chức, viên chức: áo dài truyền thống, bộ comple nữ; đối với
cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số, trang phục ngày hội dân tộc
cũng coi là lễ phục.
+ Cán bộ, công chức, viên chức phải đeo thẻ khi thực hiện nhiệm vụ; thẻ cán
bộ, công chức, viên chức phải có tên cơ quan, ảnh, họ và tên, chức danh, số hiệu
6
của cán bộ, công chức, viên chức. Bộ Nội vụ hướng dẫn thống nhất mẫu thẻ và cách
đeo thẻ đối với cán bộ, công chức, viên chức.
+ Cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ phải thực hiện các quy
định về những việc phải làm và những việc không được làm theo quy định của pháp
luật; trong giao tiếp và ứng xử, cán bộ, công chức, viên chức phải có thái độ lịch sự,
tôn trọng. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, mạch lạc; không nói tục, nói tiếng lóng,
quát nạt.
+ Có quan hệ tốt với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân vì vậy, trong
giao tiếp và ứng xử với nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức phải nhã nhặn, lắng
nghe ý kiến, giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về các quy định liên quan đến giải
quyết công việc.
+ Việc sắp xếp, bài trí phòng làm việc phải bảo đảm gọn gàng, ngăn nắp, khoa
học, hợp lý. Không lập bàn thờ, thắp hương, không đun, nấu trong phòng làm việc.
Cơ quan có trách nhiệm bố trí khu vực để phương tiện giao thông của cán bộ, công
chức, viên chức và của người đến giao dịch, làm việc. Không thu phí gửi phương
tiện giao thông của người đến giao dịch, làm việc…2
b. Đạo đức nghề nghiệp của Kiểm sát viên
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp... có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”
Với chức năng hiến định, ngành kiểm sát nhân dân mang trọng trách rất lớn
trước Đảng, trước Nhà nước và nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ công lý và sự bình
yên cho đời sống nhân dân. Tính từ ngày 26/7/1960, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
Lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đến nay đã hơn 50 năm trôi qua,
lời dạy của Bác đối với cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn nguyên giá trị thực
tiễn; là phương châm giáo dục, bồi dưỡng cán bộ của Ngành kiểm sát; là kim chỉ
nam, là chuẩn mực đạo đức để mỗi cán bộ Ngành kiểm sát nhân dân phấn đấu, rèn
luyện và trưởng thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Mỗi cán bộ kiểm sát phải
công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.
2 />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=20395570’; Trần Văn Tú - Phó Chánh
án TAND tối cao
7
Công minh, chính trực được hiểu là sự công bằng, minh bạch, chính nghĩa,
trung trực. Theo đó, chuẩn mực đạo đức đầu tiên đối với người cán bộ kiểm sát khi
thực thi nhiệm vụ là giữ cái tâm cho sáng, cái đức cho trong, minh bạch, ngay thẳng
trong công việc, để đảm bảo sự công bằng, bảo vệ cái đúng, bảo vệ công lý và chính
nghĩa. Không vì bất kỳ sự tác động nào mà nao núng, thiên vị dẫn đến giải quyết
công việc có điều khuất tất, bất công. Để thực hiện được điều đó, người cán bộ Kiểm
sát phải rèn luyện ý thức, tác phong và phương pháp làm việc một cách khách quan,
thận trọng và khiêm tốn. Khi thực thi nhiệm vụ, người cán bộ kiểm sát phải làm sao
giữ cho mình sự nhìn nhận, đánh giá một cách công tâm, trung thực, tôn trọng sự thật
khách quan. Tuyệt đối không vì định kiến cá nhân hay những tác động tiêu cực mà
mà có cái nhìn phiến diện trong xử lý công việc, xa rời sự thật, thậm chí suy diễn, bóp
méo sự thật vì sự thiên vị của mình. Yêu cầu về tính khách quan không chỉ đòi hỏi
người cán bộ Kiểm sát không có sự thiên vị, mà còn phải hết sức thận trọng và khiêm
tốn, bởi nếu chủ quan, kiêu ngạo, thiếu sự cẩn trọng, tỉ mĩ cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến những nhận định, đánh giá phiến diện, không đúng, gây ra sự
nhầm lẫn, sai sót trong công việc. Kiểm sát viên phải đáp ứng đủ các đức tính sau:
Phải công minh, thực thi nhiệm vụ một cách công bằng và sáng suốt, không
thiên vị cá nhân, không tư lợi bất chính;
Phải chính trực, ngay thẳng, trung thực mà kiên quyết bảo vệ cái đúng, bảo vệ
chính nghĩa, bảo vệ công lý;
Phải khách quan phân biệt rõ phải trái, xác định được đúng sai, đâu là sự thật,
đâu là gian dối, tránh suy diễn, xuyên tạc thực tế theo định kiến cá nhân mà dẫn đến
sai lầm;
Phải thận trọng, tận tâm, tận lực để xem xét, giải quyết công việc một cách toàn
diện, đầy đủ, tránh sai, tránh sót dù là nhỏ nhất;
Phải khiêm tốn, biết tôn trọng bản thân, phân biệt rõ được sự khen, sự chê, mà
rút kinh nghiệm để tích cực học hỏi, phấn đấu rèn luyện bản thân tốt hơn.
Có thể thấy năm đức tính Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu với người cán bộ
kiểm sát là những chuẩn mực tiên quyết để hình thành nên đạo đức của người cán
bộ kiểm sát. 3
c. Đạo đức nghề nghiệp của Luật sư
Đạo đức nghề luật sư là những quy tắc, chuẩn mực có vai trò rất quan trọng đối
với luật sư và kể các những người làm nghề tư vấn pháp luật trong các tổ chức hành
3 Nguyễn Thị Bạch Tuyết
8
nghề luật sư, vì thế nó không chỉ đánh giá đơn thuần thông qua lời nói mà còn được
cụ thể hóa trong văn bản pháp luật mang tính nguyên tắc, mệnh lệnh, và tính bắt buộc
thực hiện. Ở Việt Nam đạo đức nghề luật được nêu cụ thể trong một số văn bản:
Thứ nhất, Luật Luật sư số 65/2006/QH1 của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006;
Thứ hai, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư số 20/2012/QH13
cuả Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4
thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012;
Thứ ba, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam của Liên
đoàn luật sư Việt Nam do Hội đồng luật sư toàn quốc (ban hành kèm theo quyết định
số 68/QH-HĐLSTQ ngày 20 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng luật sư toàn quốc).
Nghề luật sư ở Việt Nam là một nghề cao quý, bởi hoạt động nghề nghiệp của
luật sư nhằm mục đích góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ; góp phần phát triển kinh tế, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.
Tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp là nền tảng cơ bản của nghề luật
sư. Luật sư phải có bổn phận tự mình nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn; nêu
gương trong việc tôn trọng, chấp hành pháp luật; tự giác tuân thủ các quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề, trong lối sống và giao tiếp
xã hội.
Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư quy định những chuẩn mực
về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, là thước đo phẩm chất đạo đức và trách nhiệm
nghề nghiệp của luật sư.
Quy tắc 1. Bảo vệ công lý và nhà nước pháp quyền
Luật sư có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Bằng hoạt động nghề nghiệp của
mình, luật sư góp phần bảo vệ công lý và xây dựng nhà nước pháp quyền theo Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam.
Quy tắc 2. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan
Luật sư phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích
vật chất, tinh thần hoặc bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp.
Quy tắc 3. Bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng
Luật sư có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý cung cấp cho khách
hàng, tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, các
9
kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng
theo quy định của pháp luật, Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư.
Quy tắc 4. Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí
Trợ giúp pháp lý miễn phí là lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của luật
sư. Luật sư có nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và các
đối tượng khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam
bằng sự tận tâm, vô tư và trách nhiệm nghề nghiệp như các vụ việc có nhận thù lao.
Quy tắc 5. Xứng đáng với sự tin cậy của xã hội
Luật sư có nghĩa vụ phát huy truyền thống tốt đẹp của nghề luật sư, thường
xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, giữ gìn phẩm chất và uy tín nghề
nghiệp; thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa trong hành nghề và lối sống để luôn
tạo được và xứng đáng với sự tin cậy, tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề
luật sư.
Quy tắc 6. Nhận vụ việc của khách hàng
6.1. Luật sư không phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, chủng tộc, tôn giáo,
quốc tịch, tuổi tác, khuyết tật, tình trạng tài sản khi tiếp nhận vụ việc của khách hàng;
6.2. Luật sư tôn trọng sự lựa chọn luật sư của khách hàng; chỉ nhận vụ việc
theo khả năng chuyên môn, điều kiện của mình và thực hiện vụ việc trong phạm vi
yêu cầu hợp pháp của khách hàng;
6.3. Luật sư có nghĩa vụ giải thích cho khách hàng biết về quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của họ trong quan hệ với luật sư; về tính hợp pháp trong yêu cầu của
khách hàng; những khó khăn, thuận lợi trong việc thực hiện dịch vụ; quyền khiếu
nại và thủ tục giải quyết khiếu nại của khách hàng đối với luật sư;
6.4. Khi nhận vụ việc của khách hàng, luật sư, tổ chức hành nghề luật sư phải
xác định rõ các quyền, nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Quy tắc 7. Thù lao
Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư phải tư vấn cho khách hàng những quy
định của pháp luật về căn cứ tính thù lao, phương thức thanh toán thù lao; thông báo
rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng và mức thù lao, chi phí này phải được
ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Quy tắc 8. Thực hiện vụ việc của khách hàng
8.1. Luật sư chủ động, tích cực giải quyết vụ việc của khách hàng và thông
báo tiến trình giải quyết vụ việc để khách hàng biết;
8.2. Trong khi thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, luật sư
không để tiền bạc hoặc lợi ích vật chất khác chi phối đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp làm sai lệch mục đích của nghề luật sư;
10
8.3. Luật sư không từ chối vụ việc đã nhận, trừ trường hợp bất khả kháng,
hoặc pháp luật hay Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư cho phép hoặc
được khách hàng đồng ý;
8.4. Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ký nhận và có trách nhiệm bảo quản,
giữ gìn tài liệu, hồ sơ mà khách hàng giao cho mình; hoàn trả tài liệu, hồ sơ khi
khách hàng yêu cầu hoặc khi đã giải quyết xong vụ việc và có thỏa thuận về việc trả
lại, trừ trường hợp khách hàng chưa thanh toán hết thù lao, chi phí và việc giữ lại tài
liệu, hồ sơ phù hợp với hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký kết.
Quy tắc 9. Từ chối nhận và thực hiện vụ việc của khách hàng
9.1. Luật sư từ chối nhận vụ việc của khách hàng trong các trường hợp sau đây:
9.1.1. Luật sư không đủ khả năng chuyên môn hoặc điều kiện thực tế để thực
hiện vụ việc;
9.1.2. Khách hàng thông qua người khác yêu cầu luật sư mà người này có biểu
hiện lợi dụng tư cách đại diện cho khách hàng để mưu cầu lợi ích cá nhân làm ảnh
hưởng đến uy tín của luật sư và quyền lợi hợp pháp của khách hàng;
9.1.3. Khách hàng yêu cầu dịch vụ pháp lý của luật sư với ý định lợi dụng dịch
vụ đó cho mục đích khác hoặc khách hàng không tự nguyện mà bị phụ thuộc theo
yêu cầu không chính đáng của người khác;
9.1.4. Có căn cứ rõ ràng xác định khách hàng đã cung cấp chứng cứ giả hoặc
yêu cầu của khách hàng không có cơ sở, trái đạo đức, trái pháp luật;
9.1.5. Có sự xung đột về lợi ích theo Quy tắc 11.1 mà không giải quyết được
nếu tiếp nhận vụ việc đó;
9.1.6. Khách hàng có thái độ không tôn trọng luật sư và nghề luật sư và không
thay đổi thái độ này.
9.2. Luật sư từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc trong các trường hợp sau đây:
9.2.1. Khách hàng đưa ra yêu cầu mới mà yêu cầu này không thuộc phạm vi
hành nghề luật sư hoặc trái đạo đức, trái pháp luật;
9.2.2. Khách hàng không chấp nhận ý kiến tư vấn giải quyết vụ việc đúng
pháp luật, phù hợp với đạo đức do luật sư đưa ra, mặc dù luật sư đã cố gắng phân
tích thuyết phục;
9.2.3. Khách hàng vi phạm cam kết theo hợp đồng dịch vụ pháp lý mà các bên
không thể thỏa thuận được hoặc quan hệ giữa luật sư với khách hàng bị tổn hại
không phải do lỗi của luật sư;
9.2.4. Có sự đe dọa hoặc áp lực về vật chất hoặc tinh thần từ khách hàng hoặc
người khác buộc luật sư phải làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp mà luật sư
không thể đối phó;
11
9.2.5. Khách hàng sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư để thực hiện hành vi
trái pháp luật;
9.2.6. Có căn cứ xác định khách hàng đã lừa dối luật sư;
9.2.7. Phát hiện vụ việc thuộc trường hợp quy định tại Quy tắc 9.1;
9.2.8. Các trường hợp phải từ chối do quy định của pháp luật hoặc trường hợp
bất khả kháng khác.
Quy tắc 10. Đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp lý
10.1. Khi đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp lý theo Quy tắc 9.2,
luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thông báo bằng văn bản cho khách hàng trong
thời hạn hợp lý để khách hàng có điều kiện tìm luật sư khác, đồng thời giải quyết
nhanh chóng các vấn đề liên quan đến việc chấm dứt Hợp đồng dịch vụ pháp lý đã
ký kết;
10.2. Khi đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp lý, luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư có thái độ tôn trọng, xử sự ôn hòa, không dùng lời lẽ có tính chất
xúc phạm đối với khách hàng, làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của nghề luật
sư, danh dự và uy tín của khách hàng.
Quy tắc 11. Giải quyết xung đột về lợi ích
11.1. Xung đột về lợi ích trong hành nghề luật sư là sự đối lập về quyền lợi vật
chất hay tinh thần đã xảy ra hoặc có khả năng xảy ra giữa hai hay nhiều khách hàng
của luật sư; giữa luật sư, nhân viên, vợ, chồng, con, cha mẹ, anh em của luật sư với
khách hàng trong cùng một vụ việc hoặc trong những vụ việc khác có liên quan đến
vụ việc đó;
11.2. Ứng xử của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong trường hợp có xung
đột về lợi ích:
11.2.1. Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư không nhận vụ việc của khách hàng
mới có sự đối lập về quyền lợi với khách hàng mà luật sư đảm nhận theo Hợp đồng
dịch vụ pháp lý đang còn hiệu lực thực hiện trong cùng một vụ án hoặc vụ việc
khác theo quy định của pháp luật;
11.2.2. Không nhận vụ việc của khách hàng nếu biết vợ, chồng, con, cha mẹ,
anh em của luật sư đang cung cấp dịch vụ pháp lý cho người mà luật sư biết rõ là có
quyền lợi đối lập với khách hàng đó;
11.2.3. Luật sư trong một tổ chức hành nghề không đồng thời nhận vụ việc
của các khách hàng có quyền lợi đối lập nhau;
11.2.4. Từ chối trong các trường hợp khác có xung đột về lợi ích nếu có quy
định của pháp luật.
Quy tắc 12. Giữ bí mật thông tin
12
Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ
pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý
hoặc theo quy định của pháp luật; luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp
có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà
họ biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Quy tắc 13. Tiếp nhận khiếu nại của khách hàng
13.1. Khi tiếp nhận yêu cầu khiếu nại của khách hàng, luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư có thái độ ôn hòa, nhã nhặn, chủ động thương lượng, hòa giải với
khách hàng; nếu không có kết quả thì hướng dẫn khách hàng thủ tục khiếu nại tiếp
theo để quyền lợi của khách hàng được giải quyết theo quy định của pháp luật, bảo
vệ uy tín của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư.
13.2. Việc trả lời khiếu nại của khách hàng được thực hiện bằng văn bản.
Quy tắc 14. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng
14.1. Chủ động xúi giục, kích động khách hàng kiện tụng hoặc thực hiện
những hành vi khác trái pháp luật;
14.2. Sử dụng tiền bạc, tài sản của khách hàng trong khi hành nghề vào mục
đích riêng của cá nhân luật sư;
14.3. Gợi ý hoặc đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản của khách hàng
cho luật sư hoặc cho những người thân thích, ruột thịt của luật sư;
14.4. Nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác từ người thứ ba để thực
hiện hoặc không thực hiện vụ việc gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng;
14.5. Đòi hỏi từ khách hàng hoặc người có quyền, lợi ích liên quan với khách
hàng bất kỳ khoản tiền chi thêm hoặc tặng vật nào ngoài khoản thù lao và các chi
phí kèm theo đã thỏa thuận, trừ trường hợp khách hàng tự nguyện thưởng cho luật
sư khi kết thúc dịch vụ;
14.6. Tạo ra các tình huống xấu, những thông tin sai sự thật, bất lợi cho khách
hàng để lôi kéo, đe dọa, làm áp lực nhằm tăng mức thù lao đã thỏa thuận hoặc mưu
cầu lợi ích bất chính khác từ khách hàng;
14.7. Sử dụng thông tin biết được từ vụ việc mà luật sư đảm nhận để mưu cầu
lợi ích cá nhân;
14.8. Thuê người môi giới khách hàng để giành vụ việc cho mình;
14.9. Thông tin trực tiếp cho khách hàng hoặc dùng lời lẽ ám chỉ để khách
hàng biết về mối quan hệ cá nhân của mình với cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng hoặc công chức nhà nước có thẩm quyền khác, nhằm mục đích
13
gây niềm tin với khách hàng về hiệu quả công việc như là một tiêu chí để khuyến
khích khách hàng lựa chọn luật sư;
14.10. Cố ý làm cho khách hàng nhầm lẫn về khả năng và trình độ chuyên
môn của mình; đưa ra những lời hứa hẹn tốt đẹp để lừa dối khách hàng;
14.11. Cam kết bảo đảm kết quả vụ việc nhằm mục đích lôi kéo khách hàng
hoặc để tính thù lao theo kết quả cam kết;
14.12. Lợi dụng nghề nghiệp để quan hệ tình cảm nam nữ bất chính với khách
hàng làm ảnh hưởng tới danh dự luật sư và nghề luật sư;
14.13. Đòi hỏi tiền bạc hoặc lợi ích vật chất khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho
các khách hàng được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật;
14.14. Từ chối vụ việc đã đảm nhận theo yêu cầu của tổ chức trợ giúp pháp lý,
của các cơ quan tiến hành tố tụng, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật, Quy
tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư, trường hợp bất khả kháng hoặc theo
yêu cầu của khách hàng. Trong trường hợp có căn cứ từ chối, luật sư phải có văn
bản thông báo cho tổ chức trợ giúp pháp lý, các cơ quan tiến hành tố tụng và khách
hàng biết.
Quy tắc 15. Bảo vệ danh dự, uy tín của giới luật sư
Luật sư có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ danh dự, uy tín của giới luật sư như bảo vệ
danh dự, uy tín của cá nhân mình; giữ gìn sự đoàn kết nội bộ, góp phần xây dựng đội
ngũ luật sư trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tôn trọng và tin cậy của xã hội.
Quy tắc 16. Tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp
16.1. Luật sư phải có thái độ thân ái và tôn trọng đồng nghiệp. Việc phê bình
đồng nghiệp được thực hiện một cách thận trọng, khách quan, đúng nơi, đúng lúc
với tinh thần xây dựng;
16.2. Luật sư có ý thức hợp tác và giúp đỡ đồng nghiệp trong hành nghề cũng
như trong cuộc sống; góp ý kịp thời khi thấy đồng nghiệp làm điều sai trái, ảnh
hưởng đến uy tín nghề nghiệp luật sư;
16.3. Khi nhận vụ việc, nếu biết đã có đồng nghiệp nhận vụ việc này từ trước,
luật sư tránh tác động để khách hàng chọn lựa mình; nếu khách hàng từ chối đồng
nghiệp và chọn lựa mình, luật sư có trách nhiệm yêu cầu khách hàng phải cung cấp tài
liệu chấm dứt Hợp đồng dịch vụ với đồng nghiệp trước khi luật sư nhận vụ việc đó.
Quy tắc 17. Tình đồng nghiệp trong giới luật sư
17.1. Tình đồng nghiệp là nhu cầu tình cảm, đạo đức của luật sư và truyền
thống của dân tộc, cần được thể hiện cụ thể trong quan hệ công việc cũng như trong
các sự kiện hiếu, hỉ, ốm đau, hậu sự, tai nạn, rủi ro liên quan đến đồng nghiệp;
14
17.2. Luật sư không để tình đồng nghiệp bị chi phối bởi kết quả thắng - thua
trong hành nghề hoặc các quan hệ xã hội khác làm ảnh hưởng đến tình đoàn kết của
giới luật sư.
Quy tắc 18. Cạnh tranh nghề nghiệp
Luật sư thực hiện các biện pháp cạnh tranh nghề nghiệp lành mạnh theo quy
định của Luật Luật sư và pháp luật liên quan, theo Điều lệ của Liên đoàn Luật sư
Việt Nam, Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư, qua đó tăng cường
niềm tin của khách hàng và công chúng đối với giới luật sư, cùng nhau góp phần
thúc đẩy nghề luật sư Việt Nam phát triển.
Quy tắc 19. Ứng xử khi có tranh chấp quyền lợi với đồng nghiệp
19.1. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền lợi với đồng nghiệp, luật sư
cần thể hiện thiện chí thương lượng, hòa giải để giữ tình đồng nghiệp; trước khi
khiếu nại, khởi kiện đồng nghiệp, luật sư cần thông báo cho Ban Chủ nhiệm Đoàn
luật sư nơi luật sư là thành viên biết;
19.2. Khi được luật sư thông báo về việc khiếu nại, khởi kiện đồng nghiệp,
Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư cần có ý kiến hòa giải kịp thời để không ảnh hưởng tới
tình đồng nghiệp cũng như quyền khiếu nại, khởi kiện của luật sư theo quy định của
pháp luật.
Quy tắc 20. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với đồng nghiệp
20.1. Xúc phạm danh dự hoặc hạ thấp uy tín của đồng nghiệp; thực hiện hành
vi gây áp lực, đe dọa hoặc sử dụng các thủ thuật trái pháp luật và Quy tắc Đạo đức
và Ứng xử nghề nghiệp luật sư để gây bất lợi đối với đồng nghiệp, giành lợi thế cho
mình trong hành nghề;
20.2. Thông đồng với luật sư của khách hàng có quyền lợi đối lập với khách
hàng của mình để cùng mưu cầu lợi ích cá nhân bất chính;
20.3. Tiếp xúc, trao đổi riêng với khách hàng đối lập về quyền lợi với khách
hàng của mình để giải quyết vụ việc mà không thông báo cho luật sư đồng nghiệp
(nếu có) bảo vệ quyền lợi cho khách hàng đó;
20.4. Môi giới khách hàng cho đồng nghiệp để đòi tiền hoa hồng;
20.5. Áp dụng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để nhằm mục đích
giành giật khách hàng như:
20.5.1. So sánh năng lực nghề nghiệp của mình hoặc tổ chức hành nghề của
mình với các luật sư khác, tổ chức hành nghề khác nhằm mục đích tạo niềm tin để
tác động, chi phối quyền lựa chọn luật sư của khách hàng;
15
20.5.2. Áp đặt hoặc cố tình chi phối làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách
quan trong hành nghề của đồng nghiệp có quan hệ phụ thuộc với luật sư như quan
hệ thầy - trò, cấp trên - cấp dưới, huyết thống, thân thuộc;
20.5.3. Xúi giục khách hàng từ chối đồng nghiệp để nhận vụ việc về cho mình;
20.5.4. Sử dụng các nhân viên của mình làm người tiếp thị trước trụ sở các cơ
quan tiến hành tố tụng, trại tạm giam, cơ quan nhà nước và các tổ chức khác nhằm
mục đích mồi chài, dụ dỗ, lôi kéo khách hàng.
Quy tắc 21. Quan hệ của luật sư với tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư và
tổ chức hành nghề luật sư
21.1. Luật sư có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ danh dự, uy tín, chấp hành Điều lệ,
nghị quyết, quyết định, quy chế của Liên đoàn Luật sư, Đoàn luật sư và các nội quy,
quy định, quyết định của tổ chức hành nghề luật sư.
21.2. Luật sư có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
21.2.1. Bào chữa chỉ định khi được Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
phân công trong các vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng;
21.2.2. Tham gia tư vấn miễn phí, học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ và các sinh
hoạt khác theo quy định của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư và tổ chức hành
nghề luật sư;
21.2.3. Nộp phí thành viên đầy đủ, đúng hạn và chấp hành nghiêm chỉnh các
quy định về phí thành viên theo Luật Luật sư, Điều lệ của Liên đoàn và Đoàn luật
sư và Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư;
21.2.4. Tham gia các hoạt động và công tác khác do tổ chức hành nghề luật sư,
tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư chủ trì hay khởi xướng;
21.3. Trong hành nghề, luật sư không được sử dụng các chức danh khác của
mình ngoài danh xưng luật sư để mưu cầu lợi ích trái pháp luật.
Quy tắc 22. Quan hệ với người tập sự hành nghề luật sư
22.1. Luật sư hướng dẫn phải tận tâm, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn
của mình đối với người tập sự hành nghề luật sư;
22.2. Luật sư hướng dẫn không được làm những việc sau đây:
22.2.1. Phân biệt, đối xử mang tính cá nhân với những người tập sự hành nghề
luật sư;
22.2.2. Đòi hỏi tiền bạc, lợi ích vật chất từ người tập sự hành nghề luật sư
ngoài khoản phí đã đóng theo quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam;
22.2.3. Lợi dụng tư cách luật sư hướng dẫn để buộc người tập sự hành nghề
luật sư phải làm những việc không thuộc phạm vi tập sự nhằm phục vụ cho lợi ích
cá nhân của người hướng dẫn.
16
Quy tắc 23. Ứng xử của luật sư trong quan hệ với cơ quan tiến hành tố
tụng
23.1. Luật sư phải nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và các quy định có liên
quan trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng; có thái độ hợp tác, lịch sự,
tôn trọng những người tiến hành tố tụng mà luật sư tiếp xúc khi hành nghề;
23.2. Luật sư có thể trao đổi ý kiến về nghiệp vụ với người tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án, nếu xét thấy cần thiết và có lợi cho khách hàng
nhưng phải giữ tính độc lập, không bị chi phối hoặc lệ thuộc vào ý kiến khác mình
làm ảnh hưởng tới việc xây dựng quan điểm, phương án bào chữa, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của khách hàng;
23.3. Tại phiên tòa, luật sư chấp hành nội quy phiên tòa, tôn trọng hội đồng
xét xử, đại diện viện kiểm sát; có thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa khi thực
hiện quyền xét hỏi người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; không
suy đoán chủ quan mang tính chất kích động, quy chụp, kết tội người khác hoặc có
những lời lẽ gây bất lợi cho khách hàng của mình; không cố tình trì hoãn, gây trở
ngại cho việc xét xử bằng những phương cách bất hợp lý hay trái đạo đức;
23.4. Trong luận cứ bào chữa, bảo vệ quyền lợi, luật sư phải chỉ ra những
chứng cứ pháp lý và căn cứ pháp luật có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc giải quyết
vụ án được khách quan, đúng pháp luật, đồng thời kiên quyết bảo vệ ý kiến, luận cứ
chính đáng và hợp pháp của mình;
23.5. Luật sư luôn giữ bình tĩnh và có quyền có những phản ứng, yêu cầu thỏa
đáng, hợp lệ, đúng pháp luật trước những thái độ, hành vi sai trái, thiếu tôn trọng
luật sư hay khách hàng của luật sư tại phiên tòa cũng như trong quá trình tố tụng.
Quy tắc 24. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với các cơ
quan tiến hành tố tụng
24.1. Câu kết qua trung gian hoặc trực tiếp quan hệ với người tiến hành tố
tụng (kể cả người tham gia tố tụng) nhằm mục đích lôi kéo họ vào việc làm trái
pháp luật trong giải quyết vụ việc;
24.2. Cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ mà luật sư biết rõ là sai sự thật;
tham gia hay hướng dẫn khách hàng tạo thông tin, tài liệu, chứng cứ sai sự thật để
cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thực hiện những hành vi khác với mục
đích lừa dối cơ quan tiến hành tố tụng;
17
24.3. Tự mình hoặc giúp khách hàng thực hiện những hành vi bất hợp pháp
nhằm trì hoãn hoặc gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ việc;
24.4. Dùng lời lẽ mang tính chất chỉ trích, xúc phạm cá nhân trong quá trình
tham gia tố tụng;
24.5. Lợi dụng tư cách người tham gia tố tụng tại phiên tòa theo quy định của
pháp luật để phát biểu những lời lẽ gây phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích xã
hội, đoàn kết dân tộc, tôn giáo hoặc tuyên truyền, phổ biến những quan điểm trái
pháp luật hay đạo đức xã hội;
24.6. Phản ứng tiêu cực bằng hành vi tự ý bỏ về khi tham gia tố tụng tại phiên
tòa làm ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của khách hàng, ảnh hưởng tới hoạt động
của Hội đồng xét xử;
24.7. Phát biểu những điều biết rõ là sai sự thật trên phương tiện thông tin đại
chúng hoặc nơi công cộng về những vấn đề có liên quan đến vụ việc luật sư đảm
nhận, nhằm gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng.
Quy tắc 25. Ứng xử của luật sư trong quan hệ với các cơ quan nhà nước khác
25.1. Khi quan hệ với các cơ quan nhà nước khác với tư cách đại diện ngoài tố
tụng, luật sư tư vấn hoặc thực hiện dịch vụ pháp lý khác cho khách hàng, luật sư
phải tuân thủ những quy định phù hợp trong Quy tắc 23, Quy tắc 24;
25.2. Trong quan hệ với cơ quan nhà nước, để thực hiện công việc cho khách
hàng, luật sư cần có thái độ lịch sự, tôn trọng, kiên quyết từ chối những hành vi móc
nối, trung gian trái pháp luật, trái đạo đức và lương tâm nghề nghiệp;
25.3. Luật sư có trách nhiệm giải thích cho khách hàng các quy định pháp luật
về khiếu nại, tố cáo nhằm khuyến nghị khách hàng tránh việc khiếu nại, tố cáo trái
pháp luật, gây tốn kém thời gian, tiền bạc của Nhà nước, của người dân và ảnh
hưởng đến quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội;
25.4. Luật sư không tìm cách nhằm kéo dài, gây khó khăn cho việc giải quyết
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Quy tắc 26. Quan hệ với các cơ quan thông tin đại chúng
26.1. Luật sư cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng trong việc
tuyên truyền pháp luật, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm và các tiêu cực xã
hội;
26.2. Luật sư có thái độ tôn trọng và hợp tác với các cơ quan thông tin đại
chúng trong việc cung cấp thông tin trung thực, chính xác, khách quan theo yêu cầu
18
của các cơ quan này, nếu những thông tin đó không làm ảnh hưởng tới quy tắc bảo
mật theo quy định của pháp luật và quyền lợi hợp pháp của khách hàng;
26.3. Luật sư không được sử dụng cơ quan thông tin đại chúng để cố ý phản
ánh sai sự thật nhằm mục đích cá nhân, động cơ khác hoặc tạo dư luận nhằm bảo vệ
quyền lợi không hợp pháp của khách hàng hoặc phát ngôn gây ảnh hưởng đến an
ninh và lợi ích quốc gia.
Quy tắc 27. Quảng cáo
Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư quảng cáo theo quy định của pháp luật và
phải chịu trách nhiệm về các cam kết trong quảng cáo về chất lượng dịch vụ đối
với xã hội.
1.3. Sự cần thiết phải rèn luyện đạo đức nghề nghiệp
Nhìn chung, trong mọi lĩnh vực nghề nghiệp, ngoài việc tuân theo các quy
định pháp luật nói chung thì người hành nghề cũng còn phải tuân theo các nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức trong lĩnh vực đó. Tuy nhiên, tùy theo từng lĩnh vực nghề
nghiệp mà có những hình thức biểu hiện (thành văn hoặc bất thành văn), mức độ,
yêu cầu khác nhau về đạo đức nghề nghiệp.
Người phương Tây có câu: “Thêm một trường học, bớt một nhà tù” và những
người hoạt động trong lĩnh vực pháp lý cũng có câu: “Thêm một tổ chức trợ giúp
pháp lý, bớt đi nhiều vi phạm pháp luật”. Người hành nghề luật là người biết và
hiểu được các quy định của pháp luật, họ mang kiến thức của mình hướng dẫn cho
người dân thực hiện đúng pháp luật. Để biết được tại sao đạo đức lại rất cần cho
nghề luật sư, trước hết cần hiểu đạo đức là những hành vi ứng xử của con người
thông qua chuẩn mực xã hội và được xã hội thừa nhận. Đạo đức nghề luật được
hiểu là những quy tắc chuẩn mực ứng xử của con người và thực hiện một cách
chuyên nghiệp dưới giám sát của các chuyên gia pháp lý. Đối với nghề luật sư, đạo
đức được coi là gốc, là cốt lõi của nghề.
Trong bất kì một ngành nghề nào cũng phải có một tấm lòng, một phẩm chất
đạo đức tốt. Đối với nghề luật cũng vậy, để trở thành một luật sư giỏi, có uy tín
trước công chúng thì phải có đạo đức.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi
mọi mối quan hệ xã hội phải được điều chỉnh bằng pháp luật, đặc biệt là mối quan
hệ giữa những người hành nghề luật nói chung với các chủ thể khác.
Những người hành nghề luật cần quan tâm tới các quan hệ pháp luật liên quan
đến lợi ích của một hoặc một số người dân cụ thể như tính mạng, danh dự, nhân
19
phẩm, quyền lợi về kinh tế, chính trị…Vì vậy, cho dù với tư cách là Luật sư bào
chữa, Kiểm soát viên hay Thẩm phán thì cả 3 chủ thể ở 3 vị trí, 3 chức năng khác
nhau đều phải đảm bảo giải quyết vụ việc công bằng, khách quan, đúng pháp luật để
bảo đảm quyền và lợi ích của những bên liên quan.
Để làm được điều này, trước hết các chủ thể hành nghề luật phải nhận thức
được vị trí, chức năng nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Sau đó, họ cần phải biết
thực hiện nhiệm vụ đó, nắm rõ quy tắc hành nghề và một yếu tố quan trọng là cách
xử sự của người hành nghề luật với người liên quan vì nghề luật được coi là nghề có
nhiều cám dỗ.
1.4. Chính sách bảo mật thông tin khách hàng
1.4.1. Tại sao phải bảo mật thông tin khách hàng
Bảo mật thông tin là việc giữ kín các thông tin liên quan đến các vụ việc của
khách hàng, không tiết lộ cho người khác. Những thông tin bảo mật là những thông
tin liên quan đến khách hàng như tên, tuổi, ngày sinh, địa chỉ, số điện thoại liên
hệ…. hoặc thông tin liên quan đến các tình tiết trong vụ việc của khách hàng.
Khách hàng, người có nhu cầu tư vấn pháp lý sẽ có sự tin tưởng nhất định khi
đến với các tổ chức hành nghề luật sư hoặc các tổ chức trợ giúp pháp lý. Để vụ việc
được giải quyết tốt nhất thì họ phải cung cấp rất nhiều thông tin, trong đó bao gồm
bí mật đời tư nên việc giữ bí mật của khách hàng là một nguyên tắc được đặt lên
hàng đầu của các nhà làm luật.
Việc bảo mật thông tin sẽ giúp khách hàng đảm bảo quyền riêng tư cá nhân,
tránh những xung đột về lợi ích đối với các khách hàng khác của tổ chức hành nghề
luật sư hoặc tổ chức trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, khách hàng sẽ có niềm tin và
sẵn sàng chia sẻ câu chuyện của mình một cách chân thực.
Đối với luật sư/tư vấn viên thì việc bảo mật thông tin khách hàng là một trong
những quy tắc hành nghề của Luật sư nên họ cần phải tuân thủ các quy tắc đạo đức
nghề nghiệp theo đúng quy định của Nhà nước. Hơn nữa, bảo mật các thông tin
khách hàng chính là tôn trọng khách hàng và thể hiện sự thiện chí, mong muốn và
giúp đỡ họ tháo gỡ những vướng mắc có liên quan đến vấn đề pháp lý. Do đó, thực
hiện tốt việc bảo mật thông tin này sẽ tạo dựng niềm tin đối với khách hàng khi đến
văn phòng.
1.4.2. Các yêu cầu của việc bảo mật thông tin khách hàng
Như đã phân tích ở trên, bảo mật thông tin khách hàng vô cùng quan trọng vì
thế, cần xây dựng một chính sách bảo mật cụ thể cho các hoạt động của văn phòng
20
luật nói riêng và các đơn vị, tổ chức hay cá nhân làm luật nói chung. Nếu không có
chính sách bảo mật thì việc giữ gìn thông tin khách hàng sẽ không được đảm bảo.
Các nhà làm luật sẽ không biết sẽ phải giữ kín loại thông tin nào, không được nói
với ai, cần phải nói với ai khiến cho người quản lý văn phòng, cấp trên khó có thể
kiểm soát các hoạt động và giải quyết các vấn đề vướng mắc hoặc tranh chấp có thể
xảy ra giữa khách hàng và các đơn vị, tổ chức hay cá nhân nhà làm luật.
Khi xây dựng chính sách bảo mật cần hướng đến một số yêu cầu như sau:
-
Quy định việc bảo mật thông tin trong các cam kết và trách nhiệm thực hiện đối với
thành viên, nhân viên của văn phòng luật, tổ chức, đơn vị thực hành luật ngay trong
thỏa thuận bảo mật khi tổ chức đó tuyển thành viên, nhân viên;
-
Thành viên trong tổ chức thực hành luật cần cam kết đảm bảo việc bảo mật thông
tin của khách hàng, nếu thành viên phụ trách việc phỏng vấn, nghiên cứu vụ việc
mà để lộ các thông tin khách hàng sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hậu quả mà
mình gây ra;
-
Chính sách bảo mật được quy định cụ thể trong cách thức đón tiếp khách hàng và
địa điểm tiếp đón. Nếu khu vực đón tiếp không phù hợp có thể khiến buổi phỏng
vấn không đạt được hiệu quả. Lý do khiến chất lượng của mỗi buổi phỏng vấn
không cao là do khách hàng cảm thấy không thoải mái khi trình bày trước đông
người hoặc bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn hay chỉ đơn giản họ không muốn người khác
nghe thấy cuộc nói chuyện của họ. Vì thế, đối với văn phòng luật cũng cần thiết kế
khu vực riêng dành cho phỏng vấn khách hàng cũng như có chính sách đón tiếp
khách hàng phù hợp đảm bảo bí mật cho thông tin khách hàng ngay từ khi tiếp xúc
ban đầu.
-
Chính sách bảo mật trong lưu trữ hồ sơ cũng rất quan trọng. Đối với mỗi vụ việc
cần có một file lưu trữ riêng tuân thủ quy định về lưu trữ tài liệu của văn phòng.
Lưu trữ tài liệu cũng cần được chuyên nghiệp hóa, có người phụ trách riêng công
việc này. Thành viên văn phòng không được mang hồ sơ khách hàng ra khỏi văn
phòng nhằm tránh việc hồ sợ bị phân tán hoặc thất lạc. Việc quy định hủy hồ sơ
cũng cần đảm bảo theo đúng quy trình, thời hạn và cách thức, tránh tiêu hủy hồ sơ
không đúng cách dẫn đến thông tin khách hàng bị tiết lộ ra ngoài.
21
-
Ngoài ra, có một số trường hợp đặc biệt phải tiết lộ thông tin:
Có quyết định của tòa án;
Các quyết định khác phải có hiệu lực pháp luật;
Trường hợp khẩn cấp (trong y tế): khi có sự nguy hiểm đến tính mạng của khách
hàng.
Trong trường hợp bắt buộc phải tiết lộ thông tin khách hàng cho các cơ quan
yêu cầu, người quản lý văn phòng, nơi thực hành luật cần phải xem xét kỹ quyết
định đó, lý do và hiệu lực thi hành quyết định. Khi cung cấp thông tin cần cho họ
biết sự quan trọng của việc bảo mật thông tin. Đồng thời phải lập biên bản về việc
cung cấp thông tin vì khách hàng có thể kiện tư vấn viên hoặc văn phòng vì đã vi
phạm chính sách bảo mật.
22
KỸ NĂNG TIẾP XÚC, PHỎNG VẤN VÀ TƯ VẤN KHÁCH HÀNG
2.1. Kỹ năng tiếp xúc với khách hàng
2.1.1. Mục đích của buổi tiếp xúc khách hàng
Tổ chức buổi tiếp xúc khách hàng, người có nhu cầu tư vấn để tiếp nhận yêu
cầu tư vấn pháp luật thành công, được khách hàng tín nhiệm lựa chọn là bước khởi
đầu không dễ dàng trong quy trình tư vấn pháp luật. Có được kỹ năng tiếp xúc
khách hàng tốt là một trong những đòi hỏi quan trọng đặt ra cho luật sư cũng như
người tư vấn pháp luật trong hoạt động tư vấn.
Trước khi tổ chức buổi tiếp xúc khách hàng, Luật sư, người tư vấn pháp luật
cần đặt ra câu hỏi công việc của mình làm hướng đến mục đích gì. Việc trả lời câu
hỏi này sẽ là cơ sở để Luật sư, người tư vấn pháp luật xác định các công việc sẽ tiến
hành, phương pháp tổ chức buổi tiếp xúc khách hàng, định hướng trong việc dẫn dắt
buổi làm việc. Một số mục đích sau được nhận diện là những mục đích điển hình
mà các Luật sư, người tư vấn pháp luật thường hướng đến trong buổi tiếp xúc khách
hàng tiếp nhận yêu cầu tư vấn:
-
Tìm hiểu bối cảnh liên quan đến đề nghị cung cấp dịch vụ tư vấn của
khách hàng
Mỗi khách hàng đến gặp Luật sư, người tư vấn pháp luật đều có những “câu
chuyện” pháp lý riêng và Luật sư, người tư vấn phải là người gợi mở, nắm bắt và
hiểu được “câu chuyện” pháp lý đó. Những thông tin thu nhận được từ khách hàng
sẽ là gợi mở quan trọng để Luật sư hình dung ra một sự việc đã và sẽ diễn ra, một
kế hoạch hoặc dự định kinh doanh mà khách hàng chuẩn bị thực hiện. Nhìn chung,
không phải mọi khách hàng đều biết cách “kể” hoặc “nói” về vụ việc, sự kiện, kế
hoạch của mình. Họ có thể mang đến cho Luật sư, người tư vấn những mắt xích,
những “mảnh ghép” manh mún của một “bức tranh” và với những mạch cảm xúc,
tùy theo từng vụ việc, kế hoạch kinh doanh họ trình bày, cung cấp cho Luật sư theo
cách riêng của mình và công việc của Luật sư là lắp ghép những mắt xích, những
mảnh ghép đó lại với nhau thành một chuỗi mắt xích, thành một bức tranh hoàn
thiện để có nguyên liệu trong quá trình tác nghiệp về sau. Trên thực tế các Luật sư
thường đối mặt với thực tế là có rất nhiều khách hàng không biết đâu là thông tin
cần thiết, quan trọng cần cung cấp cho Luật sư. Họ có thể lặp đi lặp lại những nhóm
thông tin mà họ cho là quan trọng xong đối với Luật sư, người tư vấn những thông
tin đó có giá trị thấp hoặc hoàn toàn không có giá trị gì để Luật sư có thể sử dụng
trong quá trình tư vấn. Trong những trường hợp này, để có thể nắm bắt được những
thông tin hữu ích Luật sư, người tư vấn phải có định hướng cho khách hàng thông
qua cách câu hỏi, những gợi mở, phải tổng hợp và chốt lại những thông tin quan
trọng để có cơ sở thực hiện việc tư vấn.
-
Hiểu được mong muốn của khách hàng
23
Luật sư phải đặt những câu hỏi để làm rõ mong muốn, nguyện vọng, mục
đích của khách hàng. Hiểu được những điều này sẽ giúp luật sư hiểu thêm hơn về
bối cảnh sự việc, động lực thúc đẩy khách hàng đến với luật sư. Có những khách
hàng thẳng thắn, trực tiếp đưa ra yêu cầu hoặc thể hiện mong muốn của mình. Tuy
nhiên, có những khách hàng vì những lý do nhất định, không nói ra mục đích của
mình mà thay bằng những đề xuất, đề nghị Luật sư thực hiện một công việc nhất
định. Dù được thể hiện bằng cách thức nào chăng nữa thì việc Luật sư hiểu được
mong muốn của khách hàng sẽ giúp Luật sư đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của
khách hàng; “Cần thiết phải hiểu rằng, việc làm vừa lòng khách hàng chính là làm
vừa lòng người sẽ quảng cáo cho Luật sư6”. Việc tìm hiểu mục đích, mong muốn,
nguyện vọng của khách hàng còn giúp luật sư dự liệu, ước lượng được các công
việc có thể phải thực hiện khi chính thức cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng,
đồng thời xác định xem mong muốn, nguyện vọng thực sự của khách hàng Luật sư
có thể đáp ứng hay không, có phù hợp với lĩnh vực hoạt động của Luật sư/tổ chức
hành nghề Luật sư nơi Luật sư đang làm việc; có phù hợp với phương thức cung
cấp dịch vụ pháp lý và khách hàng có thuộc nhóm đối tượng khách hàng mà Luật sư
hướng tới hay không.
Trên thực tế khách hàng có đến gặp Luật sư có thể có khá nhiều mục đích
khác nhau. Điều quan trọng là Luật sư phải nhạy bén, sáng suốt trong việc xác định
mục đích, mong muốn của khách hàng để tổ chức buổi tiếp xúc khách hàng cho phù
hợp. Với sự phát triển về số lượng và chất lượng ngày càng tăng của các tổ chức
hành nghề Luật sư tại Việt Nam hiện nay là điều kiện thuận lợi để khách hàng có
thể lựa chọn tổ chức hành nghề Luật sư và/hoặc Luật sư có khả năng cung cấp dịch
vụ pháp lý hiệu quả nhất. Nghề Luật sư không phải là nghề mà khả năng tự thân
quảng cáo bằng các hình thức truyền thông mang lại hiệu quả cao. Khách hàng
thường khảo sát, đánh giá khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý của Luật sư thông qua
buổi tiếp xúc khách hàng. Vậy khách hàng thường sử dụng những phương thức gì
để có thể bước đầu đánh giá được khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý của tổ hành
nghề Luật sư và/hoặc Luật sư ? Một số phép thử sau đã được khách hàng sử dụng
và phát huy hiệu quả, và phát huy hiệu quả đặc biệt khi Luật sư không ý niệm được
về mục đích của khách hàng, không chủ động chuẩn bị những hành trang cần thiết
24
cho công việc của mình: i) Đặt ra những câu hỏi liên quan đến vụ việc; ii) Đề nghị
Luật sư cung cấp thông tin về những vụ việc tương tự mà Luật sư đã tư vấn; iii) Đề
nghị Luật sư dự liệu những công việc phải tiến hành để có thể thực hiện được yêu
cầu của khách hàng; iv) Đề nghị Luật sư đưa ra những đánh giá bước đầu về khả
năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng; v) Đặt ra những tình huống để đánh giá khả
năng tiếp nhận thông tin, khai thác và sử lý thông tin ngay tại buổi tiếp khách hàng.
- Hình thành quan hệ pháp lý với khách hàng
Xét ở góc độ hẹp việc hình thành quan hệ pháp lý với khách hàng được hiểu
là việc Luật sư thiết lập những mối liên quan giữa Luật sư và khách hàng. Khi Luật
sư tiếp nhận thông tin về bối cảnh vụ việc cũng là khi Luật sư gánh trên vai trọng
trách về việc bảo mật thông tin cho khách hàng. Do đó trước khi bắt đầu thông tin
cụ thể từ khách hàng Luật sư thường trao đổi với khách hàng về trách nhiệm bảo
mật thông tin để khách hàng yên tâm, cởi mở trong việc trao đổi với Luật sư. Sự
truyền tải thông điệp về sự đáng tin cậy trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý thường
là công việc các Luật sư hướng đến để tạo dựng những “lớp xi măng” đầu tiên giúp
tạo dựng, gắn kết quan hệ giữa khách hàng và Luật sư.
Xét ở góc độ rộng hơn việc tiếp xúc khách hàng thường hướng đến mục đích
thiết lập quan hệ pháp lý giữa khách hàng và Luật sư bằng hợp đồng dịch vụ pháp
lý. Để có cơ sở thỏa thuận và ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý Luật sư cần thu thập
thông tin liên quan đến khách hàng, mong muốn khách hàng/ yêu cầu cung cấp
dịch vụ pháp lý và trao đổi các nội dung cần thiết khác của hợp đồng dịch vụ pháp
lý. Một số buổi tiếp xúc khách hàng, Luật sư và khách hàng có thể dừng lại trước
khi đến giai đoạn trao đổi về hợp đồng dịch vụ pháp lý, một số buổi tiếp xúc khách
hàng khác có thể mới chỉ bước đầu tiếp cận đến giai đoạn này thông qua việc khách
hàng đề nghị Luật sư cung cấp bàn chào dịch vụ trên cơ sở đó Luật sư và khách
hàng có thể trao đổi cụ thể hơn và ghi nhận bằng hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với
một số vụ việc với tình tiết đơn giản hoặc khá rõ ràng, với những yêu cầu cung cấp
dịch vụ pháp lý liên quan đến những thủ tục pháp lý không quá phức tạp. Luật sư và
khách hàng có thể thỏa thuận và ký kết ngay hợp đồng dịch vụ pháp lý tại buổi tiếp
xúc khách hàng.
2.1.2. Các kỹ năng có ảnh hưởng đến buổi tiếp xúc khách hàng
Để đảm bảo hiệu quả của buổi tiếp xúc khách hàng các kỹ năng sau cần được
Luật sư chú trọng, thường xuyên rèn luyện: i) Kỹ năng lắng nghe; ii) Kỹ năng giao
25