1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG TÁC PHẨM
‘‘NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG’’, Ý NGHĨA TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Có thể nói, cùng với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do Mác và
Ăngghen viết chung, Phê phán Cương lĩnh Gôta của Mác, Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước của Ăngghen, thì Nhà nước và cách
mạng của Lênin là một tác phẩm kinh điển xuất sắc của học thuyết mácxít về
nhà nước, trong đó lần đầu tiên học thuyết của C.Mác và Ph. Ăngghen về vấn
đề nhà nước được trình bày một cách có hệ thống và đầy đủ nhất. V.I Lênin
đã khẳng định vấn đề nhà nước là một trong những vấn đề căn bản của chủ
nghĩa Mác, phân tích mối liên hệ giữa nhà nước với tính chất giai cấp của xã
hội, tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, xác
định thực chất và nhiệm vụ của nhà nước vô sản và nền dân chủ vô sản, đã
phát triển sáng tạo những luận điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về nhà nước
trong điều kiện mới.
Cho đến nay mặc dù thế giới đã trải qua nhiều biến đổi phức tạp, song
những luận điểm của V.I. Lênin trong tác phẩm này vẫn tỏ rõ sức sống mạnh
mẽ, tiếp tục là kim chỉ nam soi sáng cho thực tiễn xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Tác phẩm "Nhà nước và cách mạng" được Lê-nin viết vào tháng 8, 9
năm 1917 và xuất bản thành sách riêng vào tháng 5 năm 1918.
Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh lịch sử với những nét tiêu biểu sau đây:
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền với hình thái lịch sử mới của nó
là chủ nghĩa đế quốc. Điều đó cũng đồng nghĩa với sự áp bức khủng khiếp
của nhà nước đối với quần chúng lao động ngày càng trở nên tàn khốc hơn, vì
nhà nước ngày càng liên kết chặt chẽ với các tập đoàn tư bản có quyền lực vô
2
hạn. Nó làm cho đời sống của quần chúng khốn khổ không thể chịu được và
làm cho họ càng thêm căm phẫn.
Với tốc độ phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, theo quy luật
của nền kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa, thời kỳ Chủ nghĩa Đế quốc được đặc
trưng bởi Chủ nghĩa tư bản tài chính đã trở thành trùm sỏ tài phiệt, lũng đoạn
nhà nước. Giữa chính trị, pháp lý của giai cấp tư sản có khoảng cách rất xa
với thực tiễn đời sống và nền kinh tế tư bản hiện thời. Mâu thuẫn ấy đã bộc lộ
ngày càng rõ rệt và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của quần chúng nhân
dân. Tình trạng thất nghiệp, lao động bị bóc lột tàn khốc hơn, an ninh, an toàn
trong cuộc sống không được đảm bảo, chính quyền đối lập với lợi ích nhân
dân… Tình trạng ấy ngày càng tạo nên những xung đột mạnh mẽ trong lòng
xã hội tư bản và càng khiến cho lòng căm phẫn và tinh thần cách mạng của
quần chúng sôi sục hơn bao giờ hết.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) làm cho mâu thuẫn của
chủ nghĩa tư bản gay gắt đến tột độ. Sự phân chia không đồng đều thị trường
thế giới, lợi ích từ các thị trường thuộc địa đã khiến các nước đế quốc cạnh
tranh, giằng xé lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa với các nước tư
bản chính quốc ngày càng gay gắt và sâu sắc. Vấn đề giải phóng các dân tộc
thuộc địa cũng đã trở thành vấn đề bức xúc và nổi bật. Quá trình đó đã thúc
đẩy nhanh chóng quá trình chín muồi của khủng hoảng cách mạng trong
nhiều nước đế quốc. Chính vì vậy, Lênin gọi giai đoạn này là đêm trước của
cuộc cách mạng vô sản.
Cùng thời điểm này, những thủ lĩnh của chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa
xét lại trong quốc tế II mà điển hình là Becxtanh và Cau-xky đã ra mặt chống
lại chủ nghĩa Mác, chống lại quan điểm của Mác và Ăngghen về tính tất yếu
lịch sử của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản, chống lại việc dùng
phương pháp cách mạng và sức mạnh của bạo lực cách mạng để lật đổ nhà
nước tư sản thay thế nó bằng nhà nước vô sản; Bọn vô chính phủ chủ nghĩa thì
lại theo lý luận chống lại bất kỳ một nhà nước nào, kể cả hình thức nhà nước
3
của giai cấp công nhân cách mạng là nền chuyên chính vô sản. Tiêu biểu cho
phái này là Bukharin và Ba-cu-nin với những luận điểm cơ bản là phủ nhận
mọi nhà nước, kể cả chuyên chính vô sản, phủ nhận vai trò lịch sử toàn thế giới
của giai cấp vô sản. Những khuynh hướng tư tưởng này khi thâm nhập vào
phong trào công nhân và truyền bá sâu rộng trong xã hội sẽ gây tác động ngược
chiều và gây ra hậu quả tiêu cực tai hại, có nguy cơ làm mất phương hướng
chính trị của phong trào, đầu độc tư tưởng, ý thức công nhân…
Đặc điểm cách mạng Nga ở thời điểm này cũng rất phức tạp:
Cuộc cách mạng tháng 2/1917 đã giành được thắng lợi, chính quyền
Nga Hoàng đã bị lật đổ nhưng chính quyền ở trung ương thì thuộc về tay giai
cấp tư sản còn chính quyền địa phương thuộc về tay công nông, (hình thành 2
phái, phái menxêvích – những người nguyên là giai cấp vô sản nhưng lại ủng
hộ, đi theo giai cấp tư sản; và phái bônxêvích – những người đại diện chân
chính cho giai cấp công nhân và nông dân cách mạng).
Từ tháng 2 đến tháng 6/1917 là thời kỳ rất căng thẳng. Cả những người
Menxêvích và những người Bôn xêvích còn đang chờ đợi, thăm dò lẫn nhau
(thời kỳ diễn biến hoà bình). Nhưng đến tháng 6/1917, tại Đại hội Xô-viết toàn
Nga lần thứ I - phái Men xêvích đã ra lời tuyên bố giành nốt chính quyền và đàn
áp công nông - bộ mặt phản cách mạng của chúng đã bộc lộ rõ rệt.
Từ tháng7 đến trước tháng 10 là thời điểm nóng bỏng, chính phủ TW
(phái Menxêvích) tuyên bố loại những người Bôn xêvích ra khỏi pháp luật.
Lênin-Vị lãnh tụ của của phái Bônxêvích, những người đại diện cho giai cấp
công nông phải lưu vong ra nước ngoài và đó cũng chính là thời điểm Lênin
viết tác phẩm này.
2. Tư tưởng chủ đạo
- Trình bày và phát triển có hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác
về vấn đề nhà nước.
- Phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác về CNXH, CNCS - về bản chất, đặc
trưng, sự vận động của hai giai đoạn trong hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa.
4
3. Kết cấu và nội dung cơ bản của tác phẩm
Tác phẩm Nhà nước và cách mạng gồm 6 chương, chương thứ 7 Lênin
mới viết bản thảo với tựa đề “Kinh nghiệm các cuộc cách mạng Nga 19051907” và trong lời bạt cho lần xuất bản thứ nhất Lênin đã nói rõ lý do không
hoàn thành dự định này là do phải tập trung vào việc lãnh đạo, chỉ đạo cách
mạng giành chính quyền hồi đêm trước của cuộc cách mạng tháng 10. Nhưng
chính Lênin đã bình luận rằng như thế chỉ có thể là đáng mừng thôi vì làm ra
“kinh nghiệm của cách mạng” vẫn thích thú hơn và bổ ích hơn là viết về kinh
nghiệm đó.
Nội dung chủ yếu của tác phẩm thể hiện tập trung trong 6 chương với
25 tiết. Về mặt kết cấu, đây là một tác phẩm có kết cấu hoàn chỉnh, độc lập.
- Chương I, Lênin tập trung phân tích về xã hội có giai cấp và nhà
nước. Đây là chương quan trọng thể hiện một cách đầy đủ lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước. Ở chương này, Lênin đã trình bày và phân
tích rất sâu sắc những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc,
bản chất, đặc trưng của nhà nước.
- Ba chương tiếp theo của tác phẩm tập trung bàn về nhà nước và cách
mạng từ kinh nghiệm đấu tranh cách mạng những năm 1848-1851(chương II),
kinh nghiệm Công xã Pari 1871(chương III), những giải thích của Ăngghen
(chương IV). Ở những chương này, bằng phương pháp lịch sử và phân tích
lịch sử Lênin đã chỉ rõ cách thức mà Mác và Ăngghen tổng hợp kinh nghiệm
của các cuộc cách mạng trong những năm 1848-1851, đặc biệt là Công xã
Pari để từ đó phát triển những tư tưởng của hai ông về nhà nước, về chuyên
chính vô sản.
Chương V - Lênin tập trung phân tích những cơ sở kinh tế của nhà
nước tự tiêu vong. Lý luận về chuyên chính vô sản, về hai giai đoạn của hình
thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa cũng được Lênin phân tích rất cụ thể và sâu
sắc ở chương này. Vì vậy, đây cũng là chương quan trọng chứa đựng nhiều
luận điểm cơ bản và mẫu mực.
5
Chương VI - Lênin đã vạch rõ bọn theo chủ nghĩa cơ hội đã tầm thường
hoá chủ nghĩa Mác như thế nào qua những cuộc luận chiến của chính các đại
biểu, phe phái này với nhau: luận chiến của Plê-kha-nốp chống bọn vô chính
phủ; luận chiến của Cau-xky chống bọn cơ hội chủ nghĩa và luận chiến của
Cau-xky chống Pan-nê-cúc.
4. Những tư tưởng chính trị chủ yếu
Trong phần đầu của tác phẩm, Lênin đã nói rõ rằng: “Trước tình hình
việc xuyên tạc chủ nghĩa Mác trở thành một điều phổ biến chưa từng thấy, thì
nhiệm vụ của chúng ta trước hết là phải khôi phục học thuyết chân chính của
Mác về nhà nước. Muốn thế, cần phải có một loạt đoạn trích dẫn dài trong
chính ngay những tác phẩm của Mác và Ăngghen…. Phải trích dẫn cho thật
đầy đủ để người đọc có thể tự mình có một ý niệm về toàn bộ quan điểm của
những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, về sự phát triển của những
quan điểm ấy, và cũng là để chứng minh bằng tài liệu và vạch rõ việc “chủ
nghĩa Cau-xky” hiện đang giữ địa vị thống trị, đã xuyên tạc những quan điểm
ấy như thế nào”1.
Trong sự phong phú và hết sức rộng lớn về nội dung và ý nghĩa của tác
phẩm “Nhà nước và Cách mạng”, có thể chắt lọc ra những nội dung tư tưởng
chính trị chủ yếu của tác phẩm như sau:
Thứ nhất, Lý luận về nhà nước
Với nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên học thuyết Mác-Lênin về nhà
nước được trình bày có hệ thống và đầy đủ nhất. Tất cả những luận điểm căn
bản, được coi là cốt lõi về nhà nước (nguồn gốc, bản chất, chức năng, đặc trưng
của Nhà nước) đều được thể hiện rất đầy đủ và sâu sắc trong tác phẩm này.
* Về nguồn gốc của nhà nước.
Bản thân nhà nước với sự xuất hiện và tồn tại của nó đã là một vấn đề
trung tâm của chính trị, nó trở thành một trong những dấu hiệu đặc trưng, một
trong những dấu hiệu căn bản nhất để nhận diện xã hội chính trị đã ra đời như
thế nào trong lịch sử.
1
Lênin Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mát-xco-va 1976, tr.8
6
Trong tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng” Lênin đã trích dẫn tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” của Ănghen và
nhấn mạnh rằng Ăngghen đã có những sự phân tích rất sâu sắc và đầy thuyết
phục về nguồn gốc của nhà nước. Đứng trên lập trường duy vật biện chứng,
Ăngghen đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế của sự ra đời nhà nước.
Ăngghen sau khi phân tích một cách chi tiết, đầy đủ về chế độ xã hội
thời tiền sử với những quan hệ sản xuất-xã hội cụ thể, đặc biệt là sự nảy sinh,
phát triển trong quan hệ gia đình, huyết thống, đã chỉ ra logic phát triển tất
yếu cho sự ra đời nhà nước thay thế cho tổ chức thị tộc, bộ lạc đã trở nên lỗi
thời. Theo đó, ở thời đại dã man đó diễn ra hai cuộc phân công lao động xã
hội. Cuộc phân công xã hội lớn đầu tiên tạo ra một bộ phận xã hội (những bộ
lạc du mục), có nhiều của cải hơn (nhiều sữa, nhiều sản phẩm làm bằng sữa,
nhiều thịt, da thú, lông dê…) hơn bộ phận còn lại trong xã hội. Cuộc phân
công xã hội lớn thứ hai là tách thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp – Kết quả
của sự phân công này là tạo ra của cải tăng lên nhanh chóng, nhưng với tư
cách là của cải của cá nhân, từ đó trao đổi phát triển, thành thị - nông thôn
ngày càng cách xa nhau, sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo càng cách
xa: Cùng với sự phân công mới là sự phân chia mới, xã hội thành các giai cấp
khác nhau.
Hai cuộc đại phân công ấy đó tạo cơ sở cho viêc xác lập một hoạt động
quan trọng - hoạt động trao đổi: những người du mục có nhiều của cải hơn bộ
phận còn lại của xã hội sẽ trao đổi những sản phẩm mà họ làm ra với bộ phận
còn lại: đến khi tách thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp thì những sản phẩm
riêng biệt làm ra càng nhiều thì trao đổi cũng đã trở thành tất yếu sống còn
của xã hội.
Đến thời đại văn minh đã bổ sung vào đó một sự phân công thứ ba, một
sự phân công đặc trưng, có một ý nghĩa quyết định: tách thương nghiệp ra
thành một lĩnh vực hoạt động riêng biệt. Sự phân công này sản sinh ra một
giai cấp không còn tham gia sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi sản
7
phẩm, đó là những thương nhân. Cứ thế phát triển cùng với sự phát triển của
sản xuất, sự ra đời của đồng tiền, sự chuyển hóa ruộng đất thành hàng hóa…
thì giai cấp ấy, giai cấp có nhiều tiền ấy được người ta dành cho những vinh
dự luôn luôn mới, và một quyền thống trị ngày càng lớn đối với sản xuất.
Như vậy là với sự mở rộng của thương mại, với tiền và nạn cho vay
nặng lãi, với quyền sở hữu ruộng đất và chế độ cầm cố, sự tích tụ và tập trung
của cải vào trong tay một giai cấp ít người đó diễn ra nhanh chóng, cùng một
lúc với sự bần cùng hóa ngày càng tăng của quần chúng và sự tăng thêm của
đám đông dân nghèo đãn đến mâu thuẫn, xung đột ngày càng gay gắt.
Sự đảo lộn của những điều kiện của sản xuất và những biến đổi của cơ
cấu xã hội do sự đảo lộn ấy đòi hỏi phải có những cơ quan mới, những cơ
quan mới đó phải hình thành ở bên ngoài tổ chức thị tộc, ở bên cạnh thị tộc và
do đó đối lập với thị tộc đứng ra giải quyết những sự xung đột đạt tới mức độ
gay gắt giữa người giàu và người nghèo, giữa chủ nợ và con nợ ; phân chia ra
thành những kẻ giàu có đi bóc lột và những người nghèo khổ bị bóc lột ; Cơ
quan ấy chính là nhà nước. Ăngghen kết luận: “Tổ chức thị tộc đó lỗi thời. Nó
đã bị sự phân công và hậu quả của sự phân công ấy - tức là sự phân chia của
xã hội thành giai cấp - phá tan. Nó đã bị nhà nước thay thế”2.
Trong tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng”, Lênin đã viện dẫn và phân
tích kết luận của Ăngghen: “nhà nước quyết không phải là một lực lượng
được áp đặt từ bên ngoài vào xã hội …, nhà nước là sản phẩm của xã hội
trong một giai đoạn nhất định, nhà nước là sự thừa nhận rằng xã hội đó bị
giam hãm trong vòng mâu thuẫn với chính bản thân nó mà không sao giải
quyết được; rằng nó bị phân chia thành những cực đối lập không điều hoà mà
xã hội đó bất lực không sao thoát ra khỏi. Nhưng muốn cho những cực đối lập
đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không đi đến chỗ
nuốt nhau và nuốt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần phải
có một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có thể làm dịu sự xung đột, giữ
cho sự xung đột đó nằm trong giới hạn của “trật tự” và lực lượng đó, nảy sinh
2
C.Mác và Ph.Ăng-ghen Toàn tập, t.21.,Nxb.Chính trị quốcc gia, Hà Nôi, 1995., tr.251.
8
ra từ xã hội, nhưng lại đặt mình lên trên xã hội và ngày càng trở nên xa lạ với
xã hội – chính là nhà nước”3.
Lênin nhận xét rằng, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác về vai trò lịch sử và
ý nghĩa của nhà nước, đã được diễn đạt một cách hoàn toàn rõ ràng. Từ các luận
điểm của Ăngghen đã viện dẫn, Lênin thâu tóm thành hai điểm quan trọng:
+ “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt
khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước
xuất hiện”.
+ Và “Sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp
là không thể điều hoà được”4.
Đây là luận điểm căn bản của Lênin về nguồn gốc của nhà nước. Có thể
nói, đây là sự kế thừa và khái quát một cách cô đọng hơn, xúc tích hơn của
Lênin đối với chủ nghĩa Mác. Luận điểm này cho đến nay vẫn được coi là
luận điểm gốc, điển hình, mẫu mực và khoa học về nguồn gốc của nhà nước.
* Về bản chất, đặc trưng của nhà nước.
- Bản chất của nhà nước
Từ chỗ khẳng định tính chính xác khoa học và lôgíc chặt chẽ về nguồn
gốc của nhà nước - tức nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai
cấp, Lênin đã chỉ ra bản chất của nhà nước là mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Lênin đã viện dẫn quan điểm của Mác: “nhà nước là một cơ quan thống
trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp
khác”5. Theo đó, Lênin cho rằng; “nhà nước là cơ quan thống trị của một giai
cấp nhất định, giai cấp này không thể nào điều hoà được đối với đối phương
(với giai cấp chống lại nó)6, và “Nhà nước là một bộ máy đặc biệt phục vụ
cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác”7.
V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976, tr.9.
sđd. tr.9.
5 V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976, tr.10.
6 sđd. tr.10.
7 sđd. Lời tựa, tr.10.
3
4
9
Chính từ luận điểm căn bản và hết sức trọng yếu này. Lênin đã chỉ ra
sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác của các nhà tư tưởng tư sản, tiểu thị dân. Họ đã
xuyên tạc luận điểm của chủ nghĩa Mác về bản chất giai cấp của nhà nước.
Họ cho rằng, thiết lập nhà nước tức là kiến lập một “trật tự”, mà trật tự này
hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức giai cấp bằng cách làm dịu xung đột giai
cấp. Vì vậy, theo họ, “trật tự” ấy chính là điều hoà giai cấp chứ không phải là
sự áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, và làm dịu xung đột
giai cấp là điều hoà chứ không phải là tước bỏ những phương tiện và thủ đoạn
đấu tranh của giai cấp bị áp bức.
Lênin chỉ ra sự xuyên tạc ấy bằng cách khẳng định luận điểm của Mác
rằng “nếu có thể điều hoà được giai cấp thì nhà nước không thể xuất hiện và
cũng không thể đứng vững được”8.
Với những lập luận xác đáng của mình, trong tác phẩm này Lênin đã
khẳng định lại tính chính xác, khoa học các luận điểm của chủ nghĩa Mác,
đồng thời đã vạch rõ sự sai trái, sự xuyên tạc, cố tính làm lệch lạc chủ nghĩa
Mác theo ý đồ cá nhân của bọn chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Các lý luận gia của
chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại cố tình lấy nguồn gốc kinh tế-xã hội cho
sự ra đời của nhà nước, bản chất giai cấp sâu sắc của nhà nước… là những
điểm tựa, là những xuất phát điểm, tiền đề quan trọng liên quan đến hàng loạt
các vấn đề lý luận nền tảng tiếp theo là vấn đề chuyên chính vô sản, vấn đề
bạo lực cách mạng, vấn đề xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vấn đề có
phá bỏ, đập tan nhà nước tư sản đi hay không…
- Đặc trưng của nhà nước
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước”, chính Ăngghen đã khái quát thành hai đặc trưng cơ bản của nhà nước là:
“ Đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ phân chia thần dân của nó
theo địa vực. (quản lý dân cư theo lãnh thổ)
8
sđd. tr.10.
10
Đặc trưng thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một quyền lực công
cộng”9.
Với đặc trưng thứ nhất, nhà nước ra đời đã quản lý dân cư theo lãnh
thổ, tức là "địa vực vẫn còn đó, nhưng những con người đã trở nên di động".
Điều này khác hẳn với tổ chức thị tộc trước kia. Những liên minh thị tộc cũ
do quan hệ dòng máu tạo thành và các thành viên của chúng phải gắn liền với
một địa vực nhất định.
Nhà nước ra đời lấy sự phân chia theo địa vực làm điểm xuất phát nhưng
những công dân mà nhà nước quản lý thì không kể họ thuộc thị tộc nào và bộ
lạc nào. Ở đặc trưng thứ hai của nhà nước - đặc trưng nổi bật, chỉ gắn liền với
nó được Ăngghen phân tích rất sâu sắc. Theo Ăngghen, khi nhà nước ra đời
nó gắn liền với sự xác lập một quyền lực công cộng, quyền lực nhà nước,
đó là đặc trưng nổi bật, có ý nghĩa quyết định, đặc trưng không thể có trong
xã hội thị tộc: Xã hội thị tộc với tính chất nhân dân tự tổ chức ra lực lượng
vũ trang của mình, thủ lĩnh quân sự của thị tộc, bộ lạc có quyền hành trực
tiếp đối với mỗi thành viên của cộng đồng.
Đến khi xuất hiện nhà nước thì quyền lực công cộng đặc biệt đó là
cần thiết, vì từ khi có sự phân chia xã hội thành giai cấp thì không thể có tổ
chức vũ trang tự hoạt động của dân cư được nữa. Lúc này trong phạm vi
một nhà nước đã tồn tại ít nhất là hai giai cấp đối kháng trở lên, cùng
những tầng lớp dân cư khác nữa, vì vậy để có thể bắt cả những công dân
phải phục tùng thì một đội cảnh binh trở nên cần thiết.
Quyền lực công cộng đó đều tồn tại trong mỗi nhà nước, nó không
chỉ gồm những người được vũ trang mà còn gồm những công cụ vật chất
phụ thêm nữa, như nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng bức mà tổ chức xã
hội thị tộc không hề biết đến. Việc thiết lập một quyền lực công cộng đã trở
thành một yêu cầu bức thiết đối với nhà nước vì lúc này không còn trực tiếp là
dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Và "để duy trì quyền lực
công cộng đó, cần phải có sự đóng góp của công dân, đó là thuế má".
9
C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn tập, t.21.,Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 1995., tr.253.
11
Sự phân tích đầy tính thuyết phục về vấn đề này của Ăngghen được
Lênin trích dẫn và phân tích ở luận điểm "Nắm được quyền lực công cộng và
quyền thu thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ quan của xã hội,
được đặt lên trên xã hội… họ là những đại biểu cho một quyền lực đã trở
nên xa lạ với xã hội, nên phải đảm bảo quyền này của họ bằng những đạo
luật đặc biệt, những đạo luật khiến cho họ trở thành đặc biệt thần thánh và
đặc biệt bất khả xâm phạm" 10.
Lênin đã dẫn lại những quan điểm căn bản ấy trong Tác phẩm Nhà
nước và Cách mạng. Ông phân tích rất cặn kẽ và khẳng định rằng: “Quân đội
thường trực và cảnh sát là những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà
nước”11.
Lênin chỉ rõ rằng " xã hội phân chia thành những giai cấp không thể
điều hoà được…sự vũ trang "tự động" của những giai cấp ấy sẽ dẫn tới một
cuộc xung đột vũ trang giữa họ với nhau. Nhà nước hình thành, một lực lượng
đặc biệt, tức là những đội vũ trang đặc biệt được tạo ra, và mỗi cuộc cách
mạng, khi phá huỷ bộ máy nhà nước, đã chỉ ra cho ta thấy cuộc đấu tranh giai
cấp lộ liễu, đã chỉ ra hết sức rõ ràng cho ta thấy giai cấp thống trị cố dựng lại
những đội vũ trang đặc biệt phục vụ nó, còn giai cấp bị áp bức cố tạo ra một
tổ chức mới, cùng một loại như thế, có thể phục vụ những người bị bóc lột,
chứ không phục vụ bọn bóc lột"12.
Từ đó Lênin đã vạch trần sự sai lầm của các học giả tư sản bằng cách
đặt câu hỏi. Tại sao lại nảy sinh ra sự cần thiết phải có những đội vũ trang đặc
biệt (cảnh sát, quân đội thường trực)? Các học giả tư sản lúng túng trả lời một
cách ngụy biện rằng - đó là do đời sống xã hội ngày càng phong phú và phức
tạp, ngày càng có nhiều chức năng…Lênin phê bình thẳng cánh – câu trả lời
đó xem ra có vẻ khoa học nhưng nó chỉ ru ngủ tốt những kẻ phàm tục thôi.
Thực chất nó đã xoá nhoà mất điều chủ yếu và căn bản là: Xã hội phân chia
thành những giai cấp đối địch không thể điều hoà được.
C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn tập, t.21.,Nxb.Chính trị quốcc gia, Hà Nôi, 1995., tr.254-255.
V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976., tr.12.
12 sđd. tr.13.
10
11
12
* Một phương diện khác của lý luận về nhà nước, đó là “sự tiêu vong”
của nhà nước mà thực chất là "sự tự tiêu vong" của nhà nước
Về vấn đề này, chính Ăngghen cũng đã phân tích rất sâu sắc: “…Đến
một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định,…cái xã hội biết tổ chức nền sản
xuất theo phương thức mới, trên cơ sở một sự liên hiệp tự do và bình đẳng
giữa những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào nơi
dành riêng cho nó lúc ấy; vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và
cái rìu bằng đồng.”13.
Lênin đã viện dẫn đoạn nghị luận này của Ăngghen và Người nhận xét
rằng, những lời nói của Ăngghen về “sự tiêu vong” của nhà nước rất nổi tiếng
và thường được trích dẫn luôn. Những lời nói đó làm nổi bật thật rõ chính
ngay thực chất của sự xuyên tạc thường ngày của bọn cơ hội chủ nghĩa đối
với chủ nghĩa Mác. Tiếp đến, Lênin trích đoạn nghị luận nổi tiếng của
Ăngghen về “công thức tiêu vong” của nhà nước trong tác phẩm Chống
Đuyrinh , theo đó hoạt động đầu tiên trong đó nhà nước thật sự là đại diện của
toàn thể xã hội…chiếm hữu các tư liệu sản xuất cũng đồng thời là hoạt động
độc lập cuối cùng của nó với tư cách là nhà nước. Lúc đó…sự can thiệp của
nhà nước vào xã hội trở nên thừa và biến dần đi, việc cai trị người nhường
cho việc chỉ đạo các quá trình sản xuất. Nhà nước không thể “bị xoá bỏ” bằng
ý chí chủ quan, nó chỉ có thể tiêu vong và tự tiêu vong14.
Lênin đã giành cả chương V của tác phẩm để trình bày rành mạch
những cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong. Theo đó, Lênin đã khẳng định “cơ
sở kinh tế làm cho nhà nước tiêu vong hoàn toàn là chủ nghĩa cộng sản đã đạt
tới trình độ phát triển cao”15. Tức là “khi xã hội đã thực hiện được nguyên tắc:
“làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”, nghĩa là khi người ta rất quen tôn
trọng những quy tắc cơ bản của đời sống chung trong xã hội và năng suất lao
động của người ta đã lên cao đến mức người ta sẽ tự nguyện làm hết năng
C.Mác và Ph.Ăng-ghen Toàn tập, t.21,Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 1995, tr.258.
V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976, tr.19-21.
15 V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976., tr.118.
13
14
13
lực”16. Nhưng sự phát triển ấy sẽ mau chóng như thế nào, lúc nào thì nó sẽ đi
đến chỗ đoạn tuyệt với sự phân công, sự đối lập lao động, biến được lao động
thành một nhu cầu bậc nhất của cuộc sống là điều hiện nay không thể biết
được. Lênin khẳng định, chúng ta chỉ có quyền nói rằng nhà nước tất yếu sẽ
tiêu vong, đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, còn
thời hạn bao lâu và hình thức cụ thể của sự tiêu vong ấy thì chúng ta chưa có
tài liệu để giải quyết những vấn đề như vậy.
Biểu hiện về mặt chính trị – xã hội của sự tiêu vong nhà nước cũng
được Lênin luận giải rất sâu sắc. Lênin phân tích rằng, một khi đã thoát khỏi
chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng khiếp, dã man của
chế độ bóc lột ấy thì người ta sẽ dần tôn trọng các quy tắc sơ thiểu của đời
sống chung trong xã hội, tôn trọng mà không cần có bạo lực, không cần có
cưỡng bức, trấn áp, không cần cái bộ máy cưỡng bức đặc biệt gọi là nhà nước
nữa. Mặt khác, nếu nhà nước tư sản là nhà nước theo đúng nghĩa của nó là bộ
máy trấn áp đặc biệt của thiểu số bọn bóc lột với đa số người bị bóc lột, vì vậy
phải hung ác, tàn bạo, gây ra hàng bể máu. Trái lại, nhà nước vô sản không
còn theo đúng nghĩa của nó nữa vì việc đa số người hôm qua là nô lệ làm thuê
trấn áp thiểu số người bóc lột là việc tương đối dễ dàng, đơn giản, tự nhiên, ít
tốn máu hơn, ít tốn kém hơn – sự trấn áp một thiểu số những kẻ thù của nhân
dân đồng thời là sự mở rộng dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân, vì thế bộ
máy trấn áp đặc biệt ấy cũng bắt đầu mất dần.
Trong vấn đề nhà nước “tiêu vong”, bọn vô chính phủ vin vào, khuyếch
tán lên thành luận thuyết không chính phủ, không nhà nước, cần phải xoá bỏ
ngay nhà nước. Bọn theo chủ nghĩa cơ hội thì rêu rao luận điệu “nhà nước
nhân dân tự do”- tức là tiến lên chủ nghĩa xã hội dần dần, không cần cách
mạng, không cần xoá bỏ nhà nước tư sản.
Lênin đã có những khái quát rất đặc sắc khi vạch trần sự xuyên tạc trên.
Ông nhấn mạnh rằng; Cách giải thích của bọn cơ hội đã biến chủ nghĩa Mác
thành chủ nghĩa cơ hội, “thành cái quan niệm mơ hồ về một sự thay đổi chậm
16
sđd. tr.118.
14
chạp, đều đều, tuần tự, không có đột biến, không có bão táp, không có cách
mạng…” “cách giải thích như vậy là xuyên tạc chủ nghĩa Mác một cách thô
bỉ nhất, chỉ có lợi cho riêng giai cấp tư sản.”17.
Thứ hai, Lý luận về cách mạng bạo lực và chuyên chính vô sản
Về cách mạng bạo lực
Một ý quan trọng trong lí luận về bạo lực cách mạng của chủ nghĩa
Mác là: "Bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đương thai nghén một xã hội
mới". Khi luận giải về sự tiêu vong của nhà nước, Lênin đã phân tích rất sâu
sắc về lí luận "bạo lực cách mạng". Lênin trích dẫn đoạn nghị luận nổi tiếng
của Ăngghen "…Bạo lực còn có một tác dụng khác (ngoài tác dụng gây tai
hại của nó ra) trong lịch sử, chính là tác dụng cách mạng; bạo lực, như Mác
nói, còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đương thai nghén một xã hội mới…". Từ
đó, Lênin khẳng định tính tất yếu của cách mạng bạo lực, phê phán triệt để lý
thuyết điều hoà giai cấp, lý luận phát triển dần dần lên chủ nghĩa xã hội của
chủ nghĩa cơ hội, xét lại.
Ở tác phẩm này, Lênin khẳng định rằng. “Học thuyết của Mác và
Ăngghen về tính tất yếu của cách mạng bạo lực là nói về nhà nước tư sản…
Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản (chuyên chính vô sản) không
thể bằng con đường tiêu vong được, mà chỉ có thể, theo quy luật chung, bằng
một cuộc cách mạng bạo lực thôi."18.
Cơ sở của sự khẳng định trên đã được Lênin nêu rõ: Vì tất cả các đảng
tư sản, ngay cả những đảng dân chủ nhất cũng đều phải tăng cường đàn áp
giai cấp vô sản cách mạng, củng cố bộ máy đàn áp, nghĩa là củng cố chính bộ
máy nhà nước ấy. Vì vậy, buộc cách mạng phải "tập trung mọi lực lượng phá
hoại" chống chính quyền nhà nước, phải đề ra nhiệm vụ không phải là hoàn
thiện bộ máy nhà nước, mà là phá hủy bộ máy đó đi, tiêu diệt bộ máy đó đi"19.
Kết luận của Lênin đối với nguyên lý cách mạng bạo lực như trên là có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó một mặt là sự bảo vệ chủ nghĩa Mác, mặt
V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976, tr.22.
V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976, tr.27.
19 sđd. tr..38
17
18
15
khác nó có ảnh hưởng trực tiếp tới cách mạng nước Nga lúc bấy giờ - cách
mạng đang trong giờ phút khởi sự giành chính quyền.
Lênin khẳng định: "không có cách mạng bạo lực thì không thể thay nhà
nước tư sản bằng nhà nước vô sản được. Việc thủ tiêu nhà nước vô sản, nghĩa là
việc thủ tiêu mọi nhà nước, chỉ có thể thực hiện được bằng con đường "tiêu vong
thôi"20. Với sự khẳng định rành mạch như vậy Lênin đã công kích trực tiếp vào
lý luận phát triển hòa bình từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, việc cải biến
dần dần nhà nước tư sản thành nhà nước vô sản của chủ nghĩa cơ hội.
Về chuyên chính vô sản:
Theo Lênin, một trong những tư tưởng đặc sắc và trọng yếu nhất của
chủ nghĩa Mác về nhà nước và cách mạng chính là tư tưởng "chuyên chính vô
sản"21. Lênin đã chỉ ra một định nghĩa căn bản về nhà nước: "nhà nước, tức là
giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị" 22, và nếu như vậy thì
"chuyên chính vô sản là sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản"23.
Về vấn đề này Lênin đã phân tích rất sâu sắc quan điểm của Mác trong
bức thư gửi Vaiđờmaiơ - 1852. Theo đó thì Mác khẳng định rằng: Mác không
có công phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp, điều cống hiến mới của
Mác là chứng minh rằng:
+ Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn lịch sử nhất
định trong sự phát triển của sản xuất
+ Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản.
+ Chuyên chính này cũng chỉ là một bước quá độ tiến lên CNXH
Thống nhất với quan điểm của chủ nghĩa Mác như vậy, đồng thời bảo
vệ chủ nghĩa Mác trong điều kiện xuất hiện những sự xuyên tạc của giai cấp
tư sản, của chủ nghĩa cơ hội, Lênin đã nhấn mạnh rằng : "Chỉ người nào mở
rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô
sản thì mới là người Mác-xít. Đó là điều khác nhau sâu sắc nhất giữa người
sđd. tr.28.
sđd. tr.30.
22 V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976, tr.30.
23 sđd. tr.33.
20
21
16
Mác-xít và người tiểu tư sản (và cả tư sản lớn) tầm thường. Chính phải dùng
viên đá thử vàng ấy mà thử thách sự hiểu biết thực sự và sự thừa nhận thực sự
chủ nghĩa Mác"24.
Từ đó Lênin đã vạch trần sự xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội khi họ
khẳng định rằng: Cái chủ yếu trong học thuyết của Mác là đấu tranh giai cấp,
nhưng chủ nghĩa cơ hội lại đóng khung việc thừa đấu tranh giai cấp trong
phạm vi quan hệ tư sản. Vì thế Lênin vạch rõ: Chủ nghĩa cơ hội chính là
không nâng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp lên điều chủ yếu nhất; tức là
thừa nhận đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chuyên chính vô sản, thời kỳ lật đổ và thủ tiêu hoàn toàn giai cấp tư sản.
Lênin kết luận: "kẻ nào chỉ thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi,
thì kẻ đó vẫn chưa phải là người mác-xít. Kẻ ấy có thể vẫn chưa thoát khỏi
khuôn khổ tư tưởng tư sản và chính trị tư sản. Đóng khung chủ nghĩa Mác
trong học thuyết đấu tranh giai cấp là cắt xén, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, thu
nó lại thành cái mà giai cấp tư sản có thể tiếp nhận được"25.
Trong lý luận về chuyên chính vô sản của Lênin có một điểm nhấn
quan trọng là. Lênin thống nhất chuyên chính vô sản với tư cách là nhà nước
kiểu mới, nhà nước không còn với tư cách là nhà nước, nhà nước không
nguyên nghĩa, nhà nước một nửa nhà nước. Còn về hình thức tổ chức của
kiểu nhà nước này thì Lênin chỉ ra nó có nhiều hình thức phong phú và đa
dạng. Lênin viết "những hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức khác
nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả các nhà nước ấy, vô
luận thế nào cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản. Bước chuyển từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không phải không đem lại
rất nhiều hình thức chính trị khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức
ấy tất nhiên chỉ là một, tức là chuyên chính vô sản."26.
Thứ ba, Lý luận về dân chủ
sđd. tr.42.
sđd. tr.42.
26 sđd. tr.44.
24
25
17
Dân chủ là vấn đề lớn của đời sống chính trị. Dân chủ thường được tiếp
cận từ hai góc độ khác nhau: Dưới góc độ tiếp cận là một giá trị xã hội, dân
chủ kết tinh những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc, phản ánh trình độ phát
triển mà con người và xã hội loài người đã đạt được, nó là phạm trù vĩnh viễn,
tức tồn tại song song với lịch sử xã hội loài người; Dưới góc độ tiếp cận là
một phương diện của chính trị, dân chủ gắn liền với tổ chức và hoạt động của
nhà nước, phản ánh trình độ phát triển của xã hội được tổ chức thành nhà
nước, nó sẽ mất đi khi nhà nước tiêu vong.
Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", Lênin đề cập tới dân chủ với
một sự khu biệt rõ ràng, Lênin không xem xét toàn bộ mọi phương diện của dân
chủ mà chỉ tập trung vào dân chủ chính trị; biểu hiện trực tiếp ở chế độ dân chủ và
chế độ nhà nước. Theo đó, những luận điểm quan trọng của Lênin về dân chủ chủ
yếu là xem xét chế độ dân chủ trong tương quan với kinh tế và chính trị, trong tiến
trình cách mạng và trong sự tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở góc độ tiếp cận thống nhất dân chủ với nhà nước, chế độ
dân chủ với chế độ nhà nước - tức là trong khuôn khổ của chính trị và hoạt
động chính trị, Lênin chỉ rõ "Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một
trong những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ
dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người
ta… Nhưng mặt khác chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền
bình đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang
nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước"27.
Thống nhất về bản chất của dân chủ là như vậy. Theo logic của
tiến trình cách mạng, Lênin đã chỉ rõ "phát triển dân chủ tới cùng, tìm
ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình
thức ấy trong thực tiễn, vv…- đó là một trong những nhiệm vụ cấu
thành của cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội" 28 . Và cũng theo logic đó
thì cách mạng phát triển, sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
27
28
V.I.Lênin Toàn tập, t.33.,Nxb.Tiến bộ,Mát-xco-va, 1976, tr.123.
sđd. tr.97.
18
cũng đồng nghĩa với việc xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, dân chủ phát triển đến độ hoàn bị, nhà nước tiêu vong, chế độ
dân chủ cũng tiêu vong. Cả Ăngghen và Lênin đều cho rằng "thủ tiêu
nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ, và nhà nước tiêu vong cũng
là chế độ dân chủ tiêu vong" 29 .
Một vấn đề quan trọng trong lý luận về dân chủ của Lênin ở tác
phẩm này là Lênin đã vách ra thực chất của dân chủ tư sản là "dân chủ
cho một thiểu số rất nhỏ, dân chủ cho người giàu". Đó là một nền dân
chủ với rất nhiều hạn chế mà "tổng cộng lại thì các thứ hạn chế đó sẽ
loại bỏ, gạt bỏ người nghèo ra ngoài chính trị, không cho họ tham gia
tích cực vào chế độ dân chủ", "đó là thứ dân chủ bó hẹp, chà đạp lên
người nghèo một cách kín đáo, và vì vậy, hoàn toàn giả dối và dối
trá" 30 .
Còn chuyên chính vô sản, dân chủ vô sản "không chỉ mở rộng rất
nhiều chế độ dân chủ - mà còn lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ
cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn
nhà giàu.". Chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản là "dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp
bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ
đối với bọn chúng" . Và đến xã hội cộng sản - là lúc xã hội đạt tới "một
nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế" - đó cũng là lúc
chế độ dân chủ tiêu vong. 31 .
Thứ tư, Lý luận về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản :
Có thể nói, đến tác phẩm "nhà nước và cách mạng" Lênin đã phát triển
hoàn thiện lý luận chủ nghĩa Mác về hai giai đoạn của hình thái kinh tế-xã hội
cộng sản chủ nghĩa. ở đây Lênin phân tích một cách rành mạch, khúc triết
từng nội dung cụ thể:
sđd. tr.101.
sđd. tr.107-108.
31 Xem V.I.Lê-nin Toàn t?p, t.33.,Nxb.Ti?n b?,Mát-xco-va, 1976., tr.109.
29
30
19
Trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gô-ta" Mác đã đưa ra luận điểm
nổi tiếng là: "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa có một thời
kỳ chuyển hóa cách mạng từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Thích ứng với thời kỳ này là thời kỳ chính trị quá độ, và nhà nước
trong thời kỳ này không phải là cái gì khác, ngoài nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản". Khi phân tích luận điểm này Lênin chỉ rõ: trước
đây thì vấn đề này được đặt ra với cách hiểu; giai cấp vô sản muốn tự giải
phóng, phải lật đổ giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, lập nên chuyên
chính cách mạng của mình. Giờ đây vấn đề đặt ra là "một xã hội tư bản chủ
nghĩa đang phát triển lên chủ nghĩa cộng sản, không thể nào chuyển lên xã
hội cộng sản chủ nghĩa được nếu không có một "thời kỳ quá độ chính trị", và
trong thời kỳ đó, nhà nước chỉ có thể là chuyên chính cách mạng của giai cấp
vô sản"32.
Từ đó, Lênin phân tích cụ thể những luận điểm của Mác về giai đoạn
đầu (giai đoạn thấp) của xã hội cộng sản chủ nghĩa và chỉ rõ: đó là xã hội vừa
mới thoát thai từ chủ nghĩa tư bản và về mọi phương diện vẫn còn mang dấu
vết của xã hội cũ, nó chưa có thể thực hiện được công bằng và bình đẳng, mặc
dù nó không còn tình trạng người bóc lột người. Và như thế ở giai đoạn này
"pháp quyền tư sản" chưa bị xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xóa bỏ một phần tức xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà pháp quyền tư
sản bảo vệ, còn nó vẫn tồn tại với tư cách là yếu tố điều tiết việc phân phối
sản phẩm và phân phối lao động. (xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân nhưng vẫn
còn duy trì phân phối sản phẩm theo lao động chứ chưa theo nhu cầu).
Tiếp tục, Lênin phân tích giai đoạn cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa và
chỉ ra những đặc trưng cơ bản là:
+ Lực lượng sản xuất phát triển phi thường, của cải xã hội tuôn ra tràn
đầy, xã hội đã thực hiện được nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu".
32
sđd. tr.106.
20
+ Hết thảy mọi người đã học được cách quản lý và thực sự đã tự mình
quản lý nền sản xuất xã hội, dân chủ đạt đến độ hoàn bị, nhà nước tiêu vong.
Khi phân tích những đặc trưng trên Lênin cũng đã đề cập việc các nhà
tư tưởng tư sản thường hay cho rằng: chế độ xã hội như vậy là thuần túy ảo
tưởng và chế giễu việc muốn lấy của cải của xã hội bao nhiêu cũng được mà
không cần kiểm tra lao động gì cả. Lênin phê phán rằng, đó là những người
ngu dốt. Ngu dốt vì không một người xã hội chủ nghĩa nào lại đi hứa rằng,
giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ đến, còn dự kiến nó sẽ đến thì việc
đó phải giả định rằng năng suất lao động lúc đó sẽ khác với năng suất lao
động ngày nay, và sẽ không còn con người tầm thường ngày nay nữa. Còn
thời điểm ngày nay mà lại cứ lấy vấn đề đó ra làm trung tâm, chỉ chú trọng
đến vấn đề đó thì thật là buồn cười. Sự phân biệt ấy là phân biệt một cách
khoa học, về mặt khoa học thì cần có sự phân biệt rạch ròi như vậy. Cái vĩ đại
của Mác ở đây là Mác đã áp dụng triệt để phép biện chứng duy vật, học
thuyết về sự phát triển, từ đó xem chủ nghĩa cộng sản là một cái gì phát triển
từ chủ nghĩa tư bản mà ra.
Trong lý luận về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản của Lênin được
trình bày ở tác phẩm này có một điểm nhấn quan trọng là: ở phần tài liệu
chuẩn bị cho tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", Lênin khi đọc luận điểm
của Mác trong "Phê phán cương lĩnh Gô-ta" đã đánh dấu bên lề như sau:
I, Những cơn đau đẻ kéo dài
II, Giai đoạn đầu của xã hội CSCN
III, Giai đoạn cao của xã hội CSCN
Đây là tư tưởng đặc sắc của Lênin về các giai đoạn của hình thái kinh
tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa, là sự bổ sung và hoàn thiện chủ nghĩa MácLênin về vấn đề này, mà theo đó giai đoạn "những cơn đau đẻ kéo dài" chính
là một cách nói hình ảnh về giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai đoạn
mà ngày nay chúng ta đang tiến hành.
5. Ý nghĩa của tác phẩm
21
Ý nghĩa lí luận của tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng” là vô cùng to
lớn. Có thể nói, những quan điểm, những luận điểm nền tảng, mấu chốt trong
lí luận về nhà nước và cách mạng theo quan điểm của chủ nghĩa mác-Lênin
được trình bày, thể hiện đậm nét nhất trong tác phẩm này. Vì thế, đây là cơ
sở, là căn cứ, là điểm đến quan trọng cho các nghiên cứu hiện nay khi viện
dẫn các quan điểm Mác-xít về vấn đề nhà nước và cách mạng.
Tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng” của V.I.Lênin là một công trình
đồ sộ, bao quát từ cả sự tổng kết thực tiễn và khái quát lý luận về Nhà nước
và Cách mạng, do đó nó có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn. Tác phẩm còn
là một thể hiện kiểu mẫu về việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong
điều kiện mới.
Có thể nói, tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng” là sự chuẩn bị về lý
luận, phương pháp luận trực tiếp cho việc giành thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga vĩ đại. Và cho đến ngày nay, sau những biến chuyển lớn lao
của lịch sử. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về nhà nước và cách mạng
được phân tích, luận giải trong tác phẩm vẫn là những giá trị nền tảng, những
nguyên lý đúng đắn và được thực tiễn chứng minh. Riêng đối với nước ta, tác
phẩm có giá trị to lớn cho việc xây dựng lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn đời sống chính trị, xã hội ngày nay đã có những biến chuyển
lớn lao. Các thế lực Chủ nghĩa tư bản vẫn đang ngày đêm ráo riết tấn công
vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tấn công vào những giá trị nền tảng của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Chúng không ngừng xuyên tạc, thậm chí dùng mọi chiêu bài, thủ
đoạn nhằm phủ định hoàn toàn chủ nghĩa Mác-Lênin. Trước thực tế đó, tấm
gương mẫu mực của người chiến sỹ cộng sản trung kiên trong việc bảo vệ
những giá trị đúng đắn, khoa học chủ nghĩa Mác của Lênin lại càng có ý
nghĩa thiết thực. Lênin đã thực sự dũng cảm, trí tuệ và bản lĩnh trong những
cuộc luận chiến quyết liệt với chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại để bảo vệ
chủ nghĩa Mác cách mạng, đặc biệt là về những vấn đề nhà nước và cách
22
mạng. Một trong những sản phẩm của cuộc đấu tranh không khoan nhượng ấy
là tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, một trong những tác phẩm đồ sộ, có
giá trị to lớn cho đến ngày hôm nay và đến tận mai sau. Giờ đây, chúng ta
cũng cần phải thấm nhuần tinh thần cách mạng triệt để ấy, từ đó quyết tâm
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, khoa học chân chính, trước sức tấn
công ngày càng trở nên quyết liệt của các thế lực thù địch. Đó là nhiệm vụ
cách mạng của những người cộng sản chúng ta.
Nhà nước Việt Nam cũng đang trong tiến trình đổi mới, chúng ta phấn
đấu xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân. Không ngừng cải cách, đổi mới và hoàn thiện các tổ chức bộ
máy nhà nước theo hướng tinh giản, gọn nhẹ và hiệu quả… Thì những giá trị
nền tảng trong tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng” của Lênin vẫn có ý nghĩa
thiết thực, đặc biệt là những tư tưởng về bộ máy nhà nước trong thời kỳ quá
độ, về tổ chức, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa… Đó là những giá trị
thực tiễn, ý nghĩa thực tiễn đích thực của tác phẩm trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay.