Tải bản đầy đủ (.ppt) (56 trang)

Sử dụng thí nghiệm có hiệu quả trong giảng dạy môn hóa học 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 56 trang )

VỀ DỰ CHUYÊN ĐỀ
TỔ HÓA - SINH

NĂM HỌC: 2014 - 2015


TRƯỜNG THCS XUÂN HÒA 2
TỔ HÓA - SINH

Người thực hiên: Nguyễn Sơn
Cước
Năm học: 2014 - 2015


Nội dung chuyên đề:
I. Đặt vấn đề
II. Thực trạng việc dạy và học
III. Giải quyết vấn đề
IV. Kết quả đạt được
V. Bài học kinh nghiệm
VI. Đề xuất


I. ĐẶT

VẤN ĐỀ

Hóa học có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của chúng
ta, nhiều vật dụng sinh hoạt trong gia đình, nhiều công cụ lao động
sản xuất đến các đồ dùng học tập, thuốc chữa bệnh, các loại phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật,…đều là những sản phẩm của hóa học.


Do vậy hóa học là môn học bổ ích, lý thú và gần gũi với cuộc sống
của chúng ta. Một trong những con đường ngắn nhất, tiện lợi nhất
và hiệu quả nhất để học sinh học tốt bộ môn hóa học, đó là khai
thác các thí nghiệm. Thí nghiệm hóa học có vai trò vô cùng quan
trọng trong công tác giảng dạy ở nhà trường phổ thông, vừa là
phương tiện trong quá trình nhận thức, vừa là cơ sở để hình thành
các khái niệm hóa học, cơ sở để học sinh lĩnh hội những hệ thống
quan điểm duy vật biện chứng khoa học về chất, cơ sở hình thành
những kiến thức kỹ năng cơ bản và thói quen làm việc khoa học.


Nhờ quan sát trực tiếp hiện tượng thí nghiệm mà học
sinh hiểu được đầy đủ, sinh động về cấu trúc, về tính chất
của chất, về mối quan hệ giữa các chất. Từ đó kiến thức ghi
nhận của học sinh được khắc sâu và học sinh sẽ nhớ lâu
những gì lĩnh hội được. Những kiến thức kỹ năng cơ bản đầu
tiên và thiết thực được hình thành, các em biết cách hoạt
động để thu thập, tra cứu và sử dụng thộng tin tư liệu một
cách hiệu quả. Nó là nền tảng vững chắc để học sinh học
tiếp lên hoặc đi vào cuộc sống lao động sản xuất.

DDạy
ạytố
ttốthôc
hôcttốtốt


Trong quá trình giảng dạy ở nhà trường bản thân luôn
chú trọng việc khai thác các thí nghiệm để việc thiếp thu
kiến thức được dễ dàng hơn, sâu sắc hơn, học sinh cảm

thấy hứng thú khi học tập bộ môn. Từ đó học sinh có niềm
tin về sự tồn tại và biến đổi của vật chất, về khả năng nhận
thức và sáng tạo của con người đã và đang góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ đó các em có ý thức
trong việc vận dụng những thành tựu của khoa học vào
cuộc sống lao động sản xuất.


Tuy nhiên thực tế cho thấy một bộ phận không nhỏ cả
giáo viên lẫn học sinh chưa coi trọng đến việc khai thác các thí
nghiệm trong quá trình nghiên cứu bài mới. Chính điều này đã
có những tác động lớn đến chất lượng bộ môn làm ảnh hưởng
đến cả quá trình học tập của học sinh. Bản thân là giáo viên
phụ trách môn hóa lớp 9 thiết nghĩ cần phải có định hướng và
phương pháp cụ thể nhằm: “sử dụng thí nghiệm có hiệu quả
trong giảng dạy môn hóa học 9”.


II. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC
1. Thực trạng việc dạy của giáo viên:
Đối với các môn học thường xuyên sử dụng các đồ dùng
dạy học như môn công nghệ, vật lý, sinh học, hóa học, trở
ngại lớn nhất đối với giáo viên là mất nhiều thời gian tìm kiếm
và chuẩn bị. Thực tế cho thấy, hầu hết các trường ở những
vùng nông thôn sâu, vùng kinh tế khó khăn thường sử dụng
phòng học làm phòng thiết bị, nhiều đồ dùng, dụng cụ, hóa
chất, tranh ảnh của nhiều môn học để chung với nhau trong
một diện tích nhỏ hẹp nên khó tìm. Bên cạnh đó khâu bảo
quản, sắp xếp, quản lý còn yếu đã có những tác động không
nhỏ đến chất lượng dạy và học, nhất là những môn học

thường xuyên sử dụng thí nghiệm như môn hóa học.


Hóa học là bộ môn khoa học thực nghiệm chuyên nghiên cứu
các chất, những biến đổi và ứng dụng của chúng, muốn biết sự
biến đổi từ chất này sang chất khác phải tiến hành thí nghiệm trực
quan mới phát hiện ra. Không có gì tạo niềm tin cho học sinh bằng
những việc làm cụ thể phù hợp với lời nói, người ta thường nói
“trăm nghe không bằng một thấy” giáo viên nói nhiều nói hay
nhưng không có chứng minh bằng thực tế thì học sinh vẫn có
những thắc mắc hoài nghi. Từ đó học sinh mất lòng tin với giáo
viên thiếu lòng tin vào khoa học dẫn tới việc lơ là trong học tập, kết
quả ngày càng đi xuống.


Nhưng khi tiến hành các thí nghiệm dù là thí nghiệm minh
họa, nghiên cứu hay khám phá thì trở ngại lớn nhất là tính
nguy hiểm luôn xảy ra và tỉ lệ thành công thấp.Trong khi đó, an
toàn khi tiến hành thí nghiệm và thực hiện thí nghiệm thành
công là yêu cầu đầu tiên, cơ bản của mọi thí nghiệm hóa học.
Giáo viên là người đầu tiên chịu trách nhiệm trước ban giám
hiệu nhà trường, phụ huynh học sinh và pháp luật về mọi sự
không may xảy ra làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng
của học sinh và của chính mình.


Qua thực tế tìm hiểu trao đổi và dự giờ đồng nghiệp ở
các bộ môn khác cho thấy: Bình thường khi lên lớp đa số giáo
viên ít sử dụng dụng cụ trực quan, chỉ khi nào có tiết dự giờ
hay thao giảng giáo viên mới có sự chuẩn bị đầy đủ. Do không

thường xuyên sử dụng và khai thác tranh ảnh, mô hình, vật
mẫu… nên giáo viên thường tỏ ra lúng túng, phạm nhiều sai
sót, còn đối với các thí nghiệm giáo viên chủ yếu làm thí
nghiệm biểu diễn đơn giản, học sinh khó quan sát được đầy
đủ, các em hầu như không được tiếp cận với các thiết bị hóa
chất.


Cho nên những kỹ năng thao tác cơ bản khi làm
thí nghiệm chưa được hình thành, nguyên nhân vì giáo
viên sợ tiếp xúc với hóa chất, sợ tốn thời gian chuẩn bị
và sợ hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm không thành
công sẽ mất uy tín với học sinh, sợ khó, sợ “cháy” giáo
án…


Trong nhiều trường hợp, kể cả khi có thí nghiệm một bộ
phận không nhỏ vẫn còn sử dụng phương pháp “đọc chép”,
nhiều thí nghiệm thay vì tổ chức hướng dẫn cho học sinh thực
hiện, đằng này giáo viên chỉ mô tả diễn biến của thí nghiệm rồi
thông báo kết quả .Thực tế cho thấy nhiều hóa chất có thể gây
bỏng, các dụng cụ như ống nghiệm, cốc bằng thủy tinh có thể
vỡ, các mãnh vỡ có thể bắn vào tay vào mắt gây sát thương.
Do vậy giáo viên e ngại hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm
hoặc chỉ làm qua loa không đến nơi đến chốn chủ yếu cho có
để tránh mang tiếng dạy chai.


2. Thực trạng việc học của học sinh:
Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học nhằm

phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.
Giáo viên là người tổ chức điều khiển các hoạt động nhận
thức của học sinh nhằm đạt mục tiêu bài học, học sinh là
người tự học, tự nhận thức, tự khám phá, tự tìm tòi các tri
thức. Tuy nhiên do một bộ phận giáo viên vẫn còn sử dụng
phương pháp đọc chép để truyền tải kiến thức tới học sinh,
làm cho học sinh càng thụ động và thói quen học vẹt vẫn tồn
tại, nhất là những môn nặng về lý thuyết.


Từ đó tính hiếu động, hay tò mò của học sinh bị giảm
đi, các em ít chịu suy nghĩ để kết hợp và vận dụng kiến thức
của nhiều môn học để giải quyết các sự việc, hiện tượng
xảy ra thường xuyên trong học tập cũng như trong cuộc
sống hàng ngày. Do không thường xuyên quan sát tiếp xúc
với các loại tranh ảnh, mô hình vật mẫu, dụng cụ, hóa
chất…Nên đa số học sinh có thái độ e dè bở ngỡ các thao
tác thường vụn về, phạm nhiều sai sót trong nguyên tắc an
toàn sử dụng hóa chất, các kỹ năng cơ bản trong thực hành
như: quan sát, so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp, kỹ
năng làm việc theo nhóm hầu như chưa được hình thành
một cách rõ ràng.


Ở gia đình các em lại thiếu sự quan tâm của người thân,
thời gian tự học ngắn, bị tác động bởi nhiều yếu tố tiêu cực, ý
thức học tập chưa được khơi dậy đúng mức, làm cho tiết học,
buổi học trở nên nhàm chán. Từ đó niềm đam mê học tập cũng
giảm đi, dẫn tới việc lười học, trốn học mãi mê lo chơi, hiệu quả
học tập ngày càng đi xuống.



III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Thí nghiệm hóa học là phương tiện trực quan quan trọng
trong giảng dạy bộ môn hóa học ở nhà trường phổ thông. Bởi
vì nó có tác dụng bồi dưỡng hứng thú học tập, nâng cao lòng
tin vào khoa học, làm phát triển năng lực nhận thức, học sinh
dễ tiếp thu kiến thức mới, nhớ lâu nội dung học tập, đồng thời
hình thành cho học sinh những kỹ năng thí nghiệm đầu tiên
một cách chính xác.


Thí nghiệm hóa học được sử dụng theo nhiều
cách khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo. Do vậy sử dụng thí nghiệm có
hiệu quả kết hợp với việc thực hiện bài mới một
cách hợp lý sẽ nâng cao chất lượng giờ dạy, một
công việc hết sức cần thiết cho học sinh ở bậc trung
học cơ sở.


1. Sử dụng thí nghiệm để hình thành tính chất của chất:

Thí nghiệm là cơ sở để xây dựng bài mới trong các loại
bài về chất cụ thể, là nguồn kiến thức chính cần khai thác để đi
đến kết luận. Nếu giáo viên chủ động sáng tạo linh hoạt trong
việc kết hợp thí nghiệm với trình bày giảng thì học sinh thích thú
hơn với bộ môn, tiết học trở nên sinh động hơn, kết quả ghi
nhận của học sinh sẽ hoàn thiện hơn. Để thí nghiệm đạt hiệu
quả, bản thân luôn yêu cầu học sinh nắm rõ mục đích từng thí

nghiệm, hiểu rõ tác dụng của từng dụng cụ, định hướng cho học
sinh quan sát những gì, vị trí nào là thuận lợi nhất.


Ví dụ: Hình thành tính chất hóa học của axit (bài tính chất hóa học
của axit)
Gv nêu vấn đề: Axit có những tính chất hóa học nào? Làm thế
nào để biết được những tính chất hóa học đó? Trước hết ta tìm
hiều axit có tác dụng với bazơ không?
Gv yêu cầu học sinh các nhóm làm thí nghiệm theo hướng dẫn
và điền kết quả vào phiếu học tập.
Hs các nhóm đồng loạt tiến hành (dụng cụ và hóa chất các
nhóm được chuẩn bị đầy đủ).
Thí nghiệm 1: Nhỏ từ từ dd axit HCl vào ống nghiệm đựng
Cu(OH)2 rắn có màu xanh.
Thí nghiệm 2: Nhỏ từ từ dd axit HCl vào ống nghiệm đựng dd
NaOH có màu đỏ (do có thêm vài giọt phenolphtalein).


Hiện tượng quan sát được:

Ở thí nghiệm 1: Chất rắn màu xanh trong ống nghiệm
tan dần tạo thành dd có màu xanh lơ.
Ở thí nghiệm 2: Màu đỏ của dd trong ống nghiệm nhạt dần
và trở nên không màu.
Các PTHH:
2HCl

+ Cu(OH)2


HCl

+ NaOH

→ CuCl2


NaCl

Năm học: 2014 - 2015

+ 2H2O
+ H 2O


Nhận xét:
Thí nghiệm 1: Dd axit tác dụng với bazơ không tan tạo
thành muối và nước.
Thí nghiệm 2: Dd axit tác dụng với bazơ tan tạo thành
muối và nước.
Kết luận:
Axit tác dụng với bazơ tạo thành muối và nước.
Giáo viên gợi ý cho học sinh tiến hành các thí nghiệm
tương tự để hình thành đầy đủ tính chất hóa học của axit.
Qua thực tế cho thấy khi tổ chức thực hiện thí nghiệm học
sinh rất thích thú và dễ dàng rút ra kết luận.


2. Sử dụng thí nghiệm để hình thành khái niệm thuốc thử
Thông thường để nhận biết dung dịch axit hay dung dịch

bazơ, học sinh nghĩ ngay đến quỳ tím hay phenolphtalein
không màu, dung dịch axit làm quỳ tím chuyển sang màu đỏ,
còn dung dịch bazơ làm quỳ tím chuyển sang màu xanh, làm
phenolphtalein không màu thành màu đỏ. Tuy nhiên trong
nhiều trường hợp người ta phải sử dụng đến những hóa chất
đặc trưng khác để phân biệt hay nhận ra các chất một việc
làm không hề dễ dàng đối với học sinh khi vốn kiến thức về
hóa học còn rất hạn chế. Trong thực tế khi được hỏi làm như
thế nào để nhận biết các chất trong các lọ khác nhau khi
chúng bị mất nhãn, hầu hết học sinh đều thú nhận không biết
phải làm gì và làm bằng cách nào.


Chúng ta đều biết một trong các quy tắc an toàn khi sử dụng
và bảo quản hóa chất là không được nếm hay ngửi trực tiếp, muốn
xác định hóa chất thuộc loại gì cần tiến hành thí nghiệm bằng
những hóa chất đặc trưng. Để góp phần giúp học sinh giải quyết
những khó khăn thường xảy ra trong suốt quá trình nghiên cứu hóa
học, trong quá trình xây dựng bài mới, bản thân sử dụng triệt để
các thí nghiệm trong sách giáo khoa nhằm hình thành khái niệm
thuốc thử.
Vd: để nhận biết dung dịch muối clorua hay axit clohidric
người ta dùng dung dịch muối bạc nitrat. Vì bạc clorua là muối duy
nhất trong nhóm muối clorua thông thường kết tủa trong nước.
Cách làm sau đây góp phần giúp học sinh hình thành một số
thuốc thử thông thường dùng để nhận biết các chất cơ bản trong
chương trình môn hóa học ở bậc trung học cơ sở.


Vd: Thí nghiệm để nhận biết dung dịch axit H2SO4 loãng và muối

sunfat
Gv nêu vấn đề: có 2 lọ đựng 2 dung dịch H2SO4 và MgSO4
riêng biệt.
Hãy làm thí nghiệm để nhận biết mỗi lọ đựng chất nào? Có thể
dùng các chất sau: NaCl, BaCl2, đinh sắt.
Hs các nhóm tiến hành thí nghiệm và ghi kết quả vào phiếu
học tập (đã trích mẫu thử từng chất )
TN 1: Nhỏ từ từ dung dịch BaCl2 lần lượt vào 2 ống nghiệm
đựng riêng biệt dung dịch H2SO4 và MgSO4
TN 2: Nhỏ từ từ dung dịch NaCl lần lượt vào 2 ống nghiệm
đựng riêng biệt dung dịch H2SO4 và MgSO4
TN 3: Cho vào mỗi ống nghiệm một đinh sắt


×