1
MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................................................1
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................................................2
1. Sự thành lập nhà nước phong kiến phân quyền.............................................................................2
1.1.Cơ sở kinh tế............................................................................................................................2
1.2. Nhà nước phong kiến phân quyền ra đời...............................................................................4
2. Nhà nước phong kiến tập quyền thời kỳ trung kỳ trung đại (XI-XV)...........................................5
2.1.Sự ra đời của thành thị và kinh tế công thương.......................................................................5
2.2.Sự suy yếu của giai cấp quý tộc phong kiến...........................................................................7
2.3. Sự thiết lập nhà nước phong kiến tập quyền..........................................................................8
3. Chế độ phong kiến theo mô hình quân chủ chuyên chế..............................................................11
3.1. Ở Anh ..................................................................................................................................12
3.2.Ở Pháp..................................................................................................................................13
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................17
MỞ ĐẦU
Lịch sử xã hội loài người là một quá trình phát triển tự nhiên, khách
quan không phụ thuộc vào ý muốn của con người. và theo Mác xã hội loài
người đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội (HTKT-XH) nối tiếp nhau
trong lịch sử. Năm HTKT-XH mà Mác đưa ra đó là: HTKT-XH cộng sản
nguyên thuỷ, HTKT-XH chiếm hữu nô lệ, HTKT-XH phong kiến, HTKTXH tư bản chủ nghĩa và HTKT-XH cộng sản nguyên thuỷ. Với học thuyết
2
về HTKT-x Mác đã chỉ ra được nguồn gốc, động lực phát triển của xã hội
loài người đó là sự cải tiến của công cụ lao động và đấu tranh giai cấp.
Quan điểm này đã khắc phục những sai lầm, hạn chế của các nhà triết học
duy tâm, kinh tế học thần bí trước đây khi giải thích về sự phát triển của
lịch sử loài người. Tuy nhiên ở trên thế giới không phải nước nào cũng trải
qua tuần tự năm hình HTKT-XH này mà tuỳ vào điều kiện, đặc điểm của
mỗi nước mà có thể bỏ qua một hai vài hình thái kinh tế. Nhưng ngay trong
bản thân một hình thái KTXH thì cũng có sự khác nhau về sự vận động của
nó và quá trình diễn biến phức tạp khác nhau. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất đến một giới hạn nhất định thì đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải
thay đổi theo cho phù hợp và đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở kinh tế dẫn đến sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng xã hội. Và điều này
được thể hiện rõ nét trong xã hội phong kiến tây Âu thời trung đại
NỘI DUNG
1. Sự thành lập nhà nước phong kiến phân quyền
1.1.Cơ sở kinh tế
Ở Tây Âu thế kỷ VI – XI là thời kỳ hình thành và củng cố quan hệ
sản xuất phong kiến Tây Âu. Trong giai đoạn này, cùng với sự hình thành
chế độ sở hữu ruộng đất lớn của phong là sự hình thành hai giai cấp cơ bản
trong xã hội là lãnh chúa và nông nô, bộ máy nhà nước của giai cấp thống
trị được thiết lập và hoàn thiện dần để duy trì sự bóc lột của lãnh cháu đối
với nông nô, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, ngay từ trong quá trình hình thành, chế độ phong kiến Tây
Âu diễn ra khác biệt so với nhiều nơi trên thế giới, khác với phương Đông.
3
Sự thiết lập phong kiến Tây Âu là sự kết hợp của hai xu hướng tan rã, một
là sự tan rã của chế độ thị tộc bộ lạc, hai là sự tan rã của chế độ chiếm hữu
nô lệ. Từ hai yếu tố ấy đã tạo nên sức công phá mạnh mẽ từ bên trong lẫn
bên ngoài của đế quốc LaMã.
Xét trên yếu tố chủ quan, chúng ta thấy rằng đó là sự kết hợp của
phong trào đấu tranh của nô lệ, dân nghèo nó đã phá huỷ nền tảng kinh tế xã hội. Giai cấp địa chủ, chủ nô La Mã tìm cách cứu vãn chế độ kinh tế
(đại điền trang) đã nới rộng ách áp bức đối với nô lệ cụ thể như:giao ruộng
đất, công cụ lao động cho nô lệ để họ tự sản xuất. Nhưng nô lệ phải sống
tập trung và có những rằng buộc nhất định đối với lãnh chúa như phải sống
trên phần đất được nhận, đóng hoa lợi cho lãnh chúa và thực hiện các nghĩa
vụ khác. Như vậy, nô lệ giờ đây được “tự do” hơn và thân phận của họ đã
chuyển từ nô lệ sang lệ nông (nông nô). Điều này đã dẫn đến tình trạng số
lượng nông nô lúc này chiếm số lượng lớn và ngày một tăng lên trong khi
số lượng nô lệ ngày một giảm sút.
Xét về yếu tố khách quan, đó là quá trình tấn công và xâm lược của
người Giécma. Tuy nhiên, khi người Giécman tràn vào đế quốc LaMã thì
lúc này họ vẫn đang ở trong tình trạng thị tộc bộ lạc với trình độ nền văn
minh thấp hơn hẳn người La Mã. Nhưng giai cấp chủ nô LaMã đã không
còn đủ sức duy trì, chống lại sự xâm lược của người Giécman nên nhanh
chóng sụp đổ. Người Giécman chiếm đất, lập vương quốc mới của mình.
Người Giécman từ bên ngoài tràn vào đế quốc La Mã chiếm đất của người
La Mã lập nên nhà nước mới của mình.Và như vậy đã diễn ra một cuộc
đồng hoá ngược, người Giécman tiếp thu những tiến bộ của người La Mã,
họ chuyển từ chế dộ thị tộc bộ lạc sang xã hội có giai cấp và nhà nước.
4
Cùng với kinh tế nông nghiệp (nền kinh tế chủ đạo của Tây Âu) thì
sự ra đời một số thành thị và hoạt động của các nghành thủ công nghiệp
đến thế kỷ V – VI đã bị phá hoại, tàn lụi không còn hoạt động được nữa.
Nông thôn giờ đây bao trùm Tây Âu, thành thị không còn và hoạt động của
thủ công nghiệp thì nô lệ phải tự sản xuất tất cả những gì cần thiết cho lãnh
chúa và cho bản thân mình (phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất). Trong khi
đó, lãnh chúa phong kiến vẫn sống bằng sự bóc lột cưỡng bước đối với
nông nô. Người nông nô là lực lượng sản xuất chính, bị lệ thuộc chặt chẽ
vào ruộng đất của lãnh chúa, họ không phải nông dân tự do mà là nông dân
lệ thuộc (nhưng không phải bị lệ thuộc hoàn toàn vào lãnh chúa mà họ vẫn
có những cái quyền của riêng mình như đất đai, tư liệu sản xuất, lãnh chúa
cũng không có quyền bán hoặc giết họ như trước đây- đây lại là sự tiến
bộ).
1.2. Nhà nước phong kiến phân quyền ra đời
Toàn bộ nền tảng kinh tế - xã hội mới của Tây Âu phong kiến đã đặt
ra một yêu cầu cấp bách là phải thiết lập một chế độ chính trị mới phù hợp
với tính chế và trình độ nền kinh tế mang nặng tính tự nhiên, tự túc-tự cấp
đang chiếm địa vị thống trị trong xã hội.
Lúc này, các lãnh chúa có nhiều đất đai (có thể do nhà nước ban cấo
hoặc có thể do chiếm đoạt) từ đó đã hình thành nên những lãnh địa rộng
lớn. Lãnh địa là vùng đất thuộc quyền sở hữu cử một lãnh chúa nào đó.
Trong lãnh địa, lãnh chúa được quyên thành lập quân đội riêng, cố đồng
tiền riêng, luật pháp riêng và có cả nhà thờ để tiến hành các hoạt động
thống trị về tinh thần.
5
Như vậy, lãnh chúa vừa có điều kiện về kinh tế vừa có đủ điều kiện về
tinh thần để xây dựng một chính quyền riêng, phát triển một các độc lập
khiến cho ngay cả chính quyền Trung ương cũng không can thiệp được. Các
lãnh chúa trở thành những ông vua con trong lãnh địa của mình, còn nhà
vua cũng chỉ là một lãnh chúa mà thôi. Quyền lợi giằng buộc giữa nhà vua
với các lãnh chúa rất lõng lẻo. Một số lãnh chúa khi mạnh lên họ không
muốn lệ thuộc nữa mà có xu hướng chống lại chính quyền trung ương, họ
tách ra thành những quốc ra riêng. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng cát
cứ, phân quyền của chế độ phong kiến Tây Âu. Tình trạng này rất bất ổn,
loạn lạc xảy ra liên miên và kéo dài từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIV. Trong
quảng thời gian này chế độ phong kiến Tây Âu vẫn căn bản là chế độ phong
kiến phân quyền, mặc dù từ thế kỷ XI thành thị ra đời, tầng lớp thị dân ra
đời và hoạt đống khá tích cự tạo nên nhân tố kinh tế - xã hội mới nhưng lúc
đó uy lực của thị dân và vua chưa đủ mạnh để tập trung quyền lực thống
nhất quốc gia xây dựng chế độ phong kiến tập quyền. Từ thế kỷ XIII Vua và
Thị dân cũng chỉ bắt đầu cuộc đấu tranh tiến tới tập quyền, quá trình đấu
tranh để tập quyền chỉ mới diễn ra ở một số quốc gia tiêu biểu có nên kinh tế
thành thị phát triển mạnh, có những điều kiện thuận lợi hơn: Anh Pháp, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha chứ chưa phải toàn bộ Tây Âu.
2. Nhà nước phong kiến tập quyền thời kỳ trung kỳ trung đại (XI-XV)
2.1.Sự ra đời của thành thị và kinh tế công thương
Từ thế kỷ X Tây Âu đã có những chuyển biến về kinh tế – xã hội và
từ đó dẫn đến những biến đổi trong thiết chế chính trị, trong hệ thống tổ
chức nhà nước phong kiến chuyển biến lớn nhất của tu thời này chính là sự
6
phát triển của sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến sự tách dời giữa thủ công
nghiệp với nông nghiệp. Hiện tượng này diễn ra chính là do sức sản xuất
trong các lãnh địa phong kiến ngày càng phát triển, người nông nô có hứng
thú nhiều hơn đối với lao động sản xuất do đó họ ra sức cải tiến kỷ thuật
thâm canh, tăng năng xuất cây trồng, nhờ đó mà năng xuất tăng trong nông
nghiệp, dẫn đến sản phẩm nông nghiệp có dư thừa đủ công cấp cho những
người không sản xuất nông nghiệp, là những thợ tủ công có chuyên môn
hoá hơn nữa khi cuộc sống đã ổn định thì nhu cầu cuộc sống con người
tăng lên nhất là nhu cầu về sản phẩm thủ công (hàng hoá tiêu dùng cần có
đẹp hơn, bền hơn…) Có một số người nông nô không sản xuất nông nghiệp
nữa mà chỉ sản suất thủ công nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của xã hội,
lúc đầu những người thợ thủ công chỉ sản suất hàng hoá trong lãnh địa của
mình (bán ngay tại chính lãnh địa dẫn đến sự cản trở sự phát triển của sản
suất, hoạt động sản suất trao đổi hàng hoá trong một lãnh địa nhỏbé, sau đó
thợ thủ công có chuyên môn hía tách dần ra khỏi lãnh địa tập trung đến
những nơi thuận lợi cho buôn bán, những thợ thủ công tập trung nhiều dần
hình thành thị trấn (dần phát triển lên thành thị trung đại). Như vây, một
hoạt động kinh tế mới đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ đối lập với kinh
tế lãnh địa phong kiến đóng kín tự cung tự cấp. Nông nghiệp chủ đạo trong
chế độ phong kiến cùng với sự xuất hiện các hoạt động kinh tế mới của
thành thị là sự ra đời của tầng lớp xã hội mới, tiến bộ và tích cực hơn đó
chính là tầng lớp thị dân. Thị dân nhỏ bé so với người nông nô nhưng đại
diện cho hoạt động kinh tế hàng hoá mới.
Do yêu cầu sản xuất, trao đổi sản phẩm mà thị dân muốn thoát khỏi
sự lệ thuộc lãnh chúa phong kiến để tự do hoạt động và để tự do phát triển
7
nền kinh tế riêng . Do vây, cần có một thị trường thương mại rộng lớn,
thống nhất, và hệ thống đo lường (thuế khoá, tiền tệ). Thị dân tiến hành
đấu tranh để tạo ra những yếu tố cần thiết cho sự phát triển riêng của mình,
hơn nữa thời kỳ trung kỳ trung đại thế lực của Giáo hội kitô lớn mạnh – bộ
phận của chính quyền phong kiến (tăng lữ là bộ phận giai cấp phong kiến).
2.2.Sự suy yếu của giai cấp quý tộc phong kiến
Qúa trình đấu tranh của thị dân đãn đến hậu quả quan trọng nhất là
làm suy yếu rất nhiều lãnh chúa phong kiến nền kinh tế của Tây Âu bị phá
hoại, đất đai bị chiếm đoạt hoặc bị bán đi, chi phí cho chiến tranh rất tốn
kém, chính sự suy yếu của lãnh chúa đã làm cho quyền lợi của lãnh chúa
phong kiến suy yếu ngày càng trầm trọng.
Phong trào đấu tranh của nô lệ nghèo, thị dân diễn ra khắp nơi, liên
tục ở Anh , Pháp, Đức đã tiến công trực diện giai cấp phong kiến, làm cho
các lãnh chúa phong kiến càng trở nên trầm trọng hơn, ngược lại với sự suy
yếu của lãnh chúa là sự lớn mạnh của vua và triều đình trung ương, đằng
sau lạư hỗ trợ tích cực của tầng lớp thị dân. Vì vậy, vua và triều đình có thế
lực, điều kiện hơn để khôi phục quyền lực thống trị, thống nhất quốc gia
lập thiết lập chế độ phong kiến tập quyền đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của
tây Âu đương thời.
Sự suy yếu của lãnh chúa phong kiến, sự ra đời của tầng lớp thị dân
và cuộc đấu tranh tập quyền về chính trị còn góp phần giải phóng chế độ
nông nô người nông nô lúc này không bị lệ thuộc quá nhiều vào lãnh chúa
như trước đây, không còn bị trói chặt bởi ruộng đất như trước dây, hơn nữa
người nông nô có thể chuộc thân phận tự do của mình bằng tiền, họ có thể
8
đấu tranh thoát khỏi lãnh chúa để trở thành những người nông dân tự do,
thành công dân mới của nhà nước mới – nhà nước tập quyền.
Khi các hoạt động kinh tế tiền tệ ra đời và phát triển mạnh lan rộng ra
các vùng nông thôn, giai cấp lãnh chúa còn tồn tại và chưa bị phá sản phải
thay đổi hình thức địa tô hiện vật sang địa tô bằng tiền. Hình thức nộp tiền
thây cho sản phẩm càng làm cho mối quan hệ giữa lãnh chúa với nông nô
trở nên lỏng lẽo và dễ tan vỡ. Lãnh địa phong kiến bị tan rã, nông nô liên
hệ nhiều hơn với thành thị, hoạt động kinh tế nông nghiệp gắn liền với kinh
tế hàng hoá. Nông nô sản xuất ra những hàng hoá có chất lượng cao có thể
mang ra thành trị bán, họ cung cấp nguyên liệu cho thủ cong nghiệp, mối
quan hệ giữa nông thônvà thành thị ngày càng được mở rộng và lãnh chúa
không thể đứng ngoài cuộc, họ bị lôi kéo vào cuộc sống kinh tế mới, họ mở
cửa hoạt động của lãnh địa mình, liên hệ với thị dân. Như vậy, tính chất
nền kinh tế đã bị thay đổi, các lãnh địa phong kiến đóng kín và biệt lập đã
bị công phá bởi kinh tế hàng hoá, bộ mặt nông thôn đã thay đổi. Tất cả
những điều đó (cơ sở của sự tồn tại các lãnh địa) đã bị phá vỡ do vậy chính
quyền phân quyền cũng không có điều kiện tồn tại.
Mác nhận xét: “Tiền tệ là chất xúc tác làm hoà tan các danh giới của
lãnh địa, khi các lãnh địa phong kiến tan rã, quyền lực của lãnh chúa suy
yếu thì cần thiết có thiết chế mới tập thể quản lý xã hội để duy trì sự phát
triển kinh tế, văn hoá và quản lý xã hội”.
2.3. Sự thiết lập nhà nước phong kiến tập quyền
Từ những chuyển biến lớn lao của cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội Tây
Âu thời kỳ trung đại mà thiết chế chính trị của chế độ phong kiến có sự
9
thay đổi quan trọng. Vua và trều đình cần tăng cường quyền lực để cai trị
cả quốc gia, để khống chế các lãnh chúa phong kiến dưới quyền. Để làm
được điều này Vua cần có quyền lực kinh tế, phải có nhiều tiền bạc để xây
dựng lực lượng quân đội mạnh, trang bị vũ khí và có lực lượng ủng hộ thật
sự. Khi đó, lực lượng thị dân rất cần cho nền chính trị thống nhất. Do vậy,
Vua triều đình đã dựa và tầng lớp thị dân để thực hiện mục đích của mình.
Trong khi đó thị dân lại rất cần chỗ dựa công khai về mặt chính quyền để
tiếp tục phát triển hơn nữa nền kinh tế và cuộc sống của mình ở các thành
thị. Từ đó đã dẫn đến sự liên minh giữa Vua, triều đình với thị dân và cả
với nông nô để tạo nên một lực lượng xã hội vững mạnh, to lớn chống lại
các lãnh chúa phong kiên cát cứ. So sánh lực lượng giữa phe ủng hộ chính
quyền tập quyền và phe phân quyền thì chênh lệnh rất rõ ràng, ưu thế
nghiêng về phe tập quyền với sự lớn mạnh của thị dân và thực lực kinh tế
của họ, sự khôn ngoan tháo vát của họ chính là chỗ dựa vững chắc cho
thắng lợi của cuộc đấu tranh sẽ thuộc về phe tập quyền.
Cuộc đấu tranh để thành lập chế độ phong kiến tập quyền diễn ra từ
thế kỷ XII – XV, nhưng cũng chỉ ở những quốc gia nào có thành thị trung
đại phát triển mạnh, tầng lớp thị dân đông đảo và hoạt động tích cực (Anh,
Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha). Ở những quốc gia mâu thuẫn giữa xu
hướng phân quyền và tập quyền đã trở nên gay gắt không thể điều hoà, thị
dân đã cố vấn cho triều đình cả về sách lược, chiến lược khôn khéo nhờ đó
mà sức mạnh của nhà Vua tăng lên rõ rệt. Triều đình xây dựng được lực
lượng quân đội mạnh, tính chuyên nghiệp cao, được huấn luyện rất kĩ, có
kỷ luật chặt chẽ nghiêm minh, tạo sức chiến đấu cao. Vì thế, có thể đập tan
các lực lượng phong kiến vốn đã suy yếu rất nhiều, buộc các lãnh chúa
10
phong kiến phải quy phục, các lãnh địa phong kiến từng bước bị phá vỡ.
Giờ đây quan lại ở các địa phương cũng do triều đình cắt cử. Như vậy, cả
kinh tế lẫn chính trị của các lãnh địa phong kiến đã hoà vào nền kinh tế
chung của quốc gia thống nhất, các lãnh địa trở thành một đơn vị hành
chính của nhà nước trung ương tập quyền. Và đến đây quyền lực thực tế đã
tập trung vào tay nhà vua và triều đình. Bộ máy nhà nước trung ương tập
quyền được thiết lập, vua là người đứng đầu quốc gia có quyền hành cao
nhất, hệ thống quan lại được thiết lập tới tận các địa phương, hoạt động
thống nhất và tập trung. Sau khi thành lập chế độ phong kiến tập quyền nhà
nước phong kiến mới sẽ thi hành một loạt các chính sách về cải cách pháp
luật, chính trị, tài chính, quân sự để đưa quốc gia phát triển lên giai đoạn
cao nhất của chế độ phong kiến tập quyền (tiêu biểu là Anh và Pháp).
Như vậy, thời kì trung trung đại do những biến đổi lớn về kinh tế - xã
hội mà kiên trúc thượng tầng của phong kiến cũng thay đổi lớn. Những nhà
nước phong kiến tập quyền dần dần được thành lập, quyền lực chính trị đã
thật sự trở về tay Vua và triều đình trung ương. Sự thành lập chế độ phong
kiến tập quyền là kết quả tất yếu của những bước phát triển liên tiếp của
lịch sử Tây Âu mà trước hết là sự phát triển kinh tế - xã hội trong đó quan
trọng nhất là sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Khi nhà nước
phong kiến tập quyền đã được thiết lập, quyền lực của nhà nước được cũng
cố vững mạnh thì nó sẽ tạo ra điều kiện thắng lợi, những nhân tố mới cần
thiết làm thay đổi cuộc sống van hoá tinh thần của xã hội.
Về mặt văn hoá nếu thời kỳ trung kỳ con người Tây Âu chìm đắm
trong đêm trường trung cổ, từ giai cấp thống trị đến quần chúng nhân dân
lao động đều tăm tối, dốt nát mù chữ, sự mê muội. Thống trị đời sống tư
11
tưởng xã hội Tây Âu là chủ nghĩa kinh viện giáo điều duy tâm, thần bí do
giáo hội nắm giữ, thì đến thời kỳ trung kỳ trung đại khi thnàh thị ra đời, thị
dân xuất hiện với những yêu cầu mới về cuộc sống họ đã làm bùng nỗ cuộc
đấu tranh vào hệ tư tưởng của, chống lại sự u mê lạc hậu, họ đề cao tư tưởng
tự do khoáng đãng, một nền chính trị dân chủ của các thành thị đã làm cho
cả Tây âu như bừng tỉnh, đón nhận ánh sáng văn minh mới của văn học,
nghệ thuật, của kiến thức khoa học, những tư tưởng triết học tiên bộ … dẫn
đến sự hồi sinh của nền văn hoá mới trước tiên ở các thành thị sau đó lan ra
chính quyền phong kiến. Rất nhiều thành tựu văn hoá quan trọng đã bắt đầu
xuất hiện, nền văn hoá Tây Âu trung kỳ có sự khởi sắc và tiến bộ. Tuy
nhiên, nó còn bị hạn chế rất nhiều về nội dung, trình độ thể hiện của con
người còn bị quan hệ kinh tế kìm hãm, khống chế, ngăn cản. Nhưng với
những thành tựu văn hoá quý báu mà nó đã tạo ra là tiền đề cho các giai
đoạn sau này phát triển nhất là khi giai cấp tư sản Tây Âu ra đời. Tây Âu
bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ phát triển cuối cùng của chế độ phong
kiến với hang loạt những nhân tố mới với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế hàng hoá dẫn đến sự thay đổi mới trong cơ cấu chính trị một lần nữa.
3. Chế độ phong kiến theo mô hình quân chủ chuyên chế
Từ thế kỷ XV (cuói thế XIV) quan hệ kinh tế - xã hội mới ra đời và
phát huy tác dụng của nó trong lòng phong kiến Tây Âu. Sự phát triển của
sức sản xuất, cũng như ảnh hưởng của nó có tác động đến quan hệ xản xuất.
Quá trình tích luỹ tư bản diễn ra ở nhiều nơi đưa đến sự thành lập nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa. Quá trình tích luỹ tư bản ở châu âu diễn ra dưới nhiều
hình thức khác nhau, đa dạng tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
12
3.1. Ở Anh
Hình thức phổ biến nhất là “rào ruộng cướp đất” trong quá trình tích
luỹ cổ điển các chủ đất trước thì cho nông dân thuê ruộng đất của mình,
nay thu lại tất cả ruộng đất tập trung thành khu vực rộng lớn, xoá bỏ hình
thức chủ đất cho thuê bằng hình thức mới. Chủ đất thuê nhân công vào lao
động tự do, biến ruộng đất thành đồng cỏ chăn nuôi. Trong nông nghiệp
sản xuất nguyên liệu cho thủ công nghiệp co giá trị hơn nhiều. Đồng ruộng
giờ đây thành những cánh đồng trồng cỏ. Người lao động được thuê chăm
sóc cỏ, nuôi cừu cát lông…và như vậy họ từ người nông dân trở thành
người làm công ăn lương tức là những công nhân nông nghiệp. Địa vị chủ
đất cũng có sự thay đổi, các chủ đất giờ đây biến thành các quý tộc mới (tư
sản hoá) chuyển từ hình thức bóc lọt địa tô sang hình thức bóc lột thăng dư.
Như vậy trong lòng xã hội đã xuất hiện giai cấp, tầng lớp mới.
Quá trình tích luỹ tư bản ở nước Anh diễn ra suốt từ thời HenRi VII
(1485-1509) đến tận vương triều Alidabét. Quá trình tích luỹ này có tác
dụng làm cho bộ mặt nước Anh phồn vinh , nhất là kinh tế công thương
nghiệp phát triển. Từ những kết quả mà qúa trình tích luỹ tư bản đạt được,
nước Anh đã dần dần chiếm lĩnh thị trường thương mại đường biển và thay
thế Hà Lan chiếm vị trí độc tôn về thương mại đường biển.
Quá trình cạnh tranh thị trường và buôn bán ở châu Âu đã làm cho giai
cấp tư sản Anh ngày một lớn mạnh lên. Tuy nhiên , trái với sự giàu có về
tiềm lực kinh tế thì giai cấp tư sản Anh lại không có quyền lợi về chính trị
trong khi đó họ là người cung cấp tiền của, đóng góp nhiều cho ngân sách
nhà nước. Nên nhà nước phải bảo hộ cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.
13
Như vậy, nhà nước quân chủ tập quền đã có hai chỗ dựa vững chắc là
giai cấp công thương có sức mạnh về kinh tế và giai cấp quý tộc phong
kiến có cơ sở xã hội. Để thực hiện được mục đích của mình thì chính
quyền ra sức tăng cường quyền lực của chính quyền trung ương, lập ra
thượng viện và nghị viện để cho các tầng lớp dưới được tham gia chính
quyền mà cụ thể là giai cấp tư sản (đại diện cho đẳng cấp III) tham gia vào
hạ viện. Nhưng quyền lực nhà vua vẫn được duy trì. Vì vậy, nền chính trị ở
nước Anh thế kỷ XVI là nền quân chủ tập quyền, nhà vua năm mọi quyền
thực tế, việc thảo luận ở thượng viện và hạ viện chỉ có tính chất tham khảo
đối với nhà vua và quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc và nhà vua.
3.2.Ở Pháp
Thời kỳ Făng xoa (1515 – 1547) chế độ quân chủ chuyên chế được
xác lập, cũng như nhiều nhà nước tây Âu khác nền quân chủ chuyên chế ở
nước Pháp là biểu hiện của sự liên minh tạm thời giữa quý tộc phong kiến,
tầng lớp giáo sĩ và tăng lữ và giai cấp tư sản mới hình thành.
Trụ cột của chính quyền phong kiến nước Pháp chính là quý tộc cũ,
những cuộc cách mạng giá cả, do thế lực kinh tế của lãnh chúa, quý tộc
phong kiến suy yếu. để bù đắp cho cuộc sống xa hoa, quý tộc Pháp tập
trung về kinh đô, đảm nhiệm những chức vụ trong bộ máy nhà nước trung
ương tập quyền, ra sức ủng hộ chính quyền quân chủ chuyên chế.
Tầng lớp giáo sĩ cũng muốn theo thiên chúa giáo có đủ uy quyền và
sức mạnh để họ đánh bại phái tân giáo đang hoành hành dữ dội ở châu âu.
14
Giai cấp tư sản mới hình thành là tầng lớp ủng hộ tích cực nhất đối với
chính quyền chuyên chế. Vì chính trị tập quyền mới có thể tạo ra một thị
trường thống nhất tạo điều kiện chio kinh tế công thương nghiệp phát triển.
Do được ba lực lượng xã hội quan trọng trên ủng hộ nên Făngxoa I
đã thi hành nhiều chính sách để tăng cường hơn nữa bộ máy tập quyền,
thâu tóm mọi quyền lực vào tay mình.
* Những chuyển biến trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng
Hậu kỳ trung đại, giai cấp tư sản mới hình thành là đại biểu cho nền
kinh tế mới, hàng hoá tiền tệ. Giai cấp tư sản mâu thuẫn ngày càng kịch liệt
với phong kiến và họ đã tiến hành đấu tranh để tranh giành địa vị cho mình.
Nhưng trong buổi đầu họ còn non yếu, chưa có địa vị xứng đáng do vậy trong
cuộc đấu tranh đó họ đã phải sử dụng mưu mẹo của mình. Trước hết họ dựa
vào lực lượng phong kiến này để chống lại lực lượng phong kiến khác, ngoi
đân địa vị chính trị. Về sau giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh, nên đã tiến
hành đấu tranh cho cái mới. Họ tấn công trực tiếp vào tầng lớp phong kiến
bảo thủ, giáo hội. Lực lượng yếu nhất phe này đó là tầng lớp tăng lữ và giáo
hội thiên chúa giáo. Cuộc đấu tranh này rất cần thiết đối với giai cấp tư sản vì
nó ít đổ máu, nhẹ nhàng và đem lại hiệu quả to lơn.
Đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng sẽ đem lại sự giảm sút uy tín,
thế lực của giáo hội phong kiến nói riêng và giai cấp phong kiến nói chung.
Giai cấp tư sản rất cần một nền văn hoá của riêng mình, nó phù hợp với đời
sống tinh thần và nền kinh tế mới chứ không phải nền văn hoá tối tăm lạc hậu
do giáo hội thiên chúa giáo đang thống trị. Muốn vậy giai cấp tư sản phải
vay, phải mượn thành tựu văn hoá cổ, khôi phục lại giá trị văn hoá Hy-La. đề
cao cuộc sống trần thế, sống phải hượng thụ. Cuộc sống là hiện tại chứ khống
15
phải là ở trên thiên đàng như giáo hội đã đưa ra. Họ đề cao vai trò cá nhân, tự
tưởng tự do dân chủ, với lối nghĩ, lối sống thoáng đạt, giải phóng con người
khỏi hệ thống lý luận kìm kẹp của giáo hội. Tất cả đó đã tạo nên một thời kỳ
văn hoá sôi động ở tây Âu thời hậu kỳ trung đại đó là thời kỳ văn hoá phục
hưng voi nhiều thành tựu đạt được trong thời gian này.
Tiếp theo đó là phong trào cải cách tôn giáo. Các học thuyết tôn giái
của Luthơ, của Camvanh đã tấn công thẳng vào giáo hội thiên chúa giáo.
Giai cấp tư sản muốn có một tôn giáo phù hợp ít tón kèm về thời gia và
nghi lễ không phức tạp để họ còn có thời gia tập trung cho làm ăn.
Cùng với đó là những khám phá mới về vũ trụ, về trái đất. nếu như
trước đây giáo hội cho rằng trái đất đứng yên và do thượng đế tạo ra.
Nhưng với những khám phá mới của giai cấp tư sản đã chứng minh và làm
đảo lộn tất cả những gì mà giáo hội đưa ra trướng đó.
Như vậy thời kỳ hậu kỳ trung đại giai cấp tư sản đã tiến hành hai
cuộc tập dượt đấu tranh bóc trần bộ mặt của giai cấp quý tộc phong kiến,
tăng lữ. Khi mà thế lực của tầng lớp quý tộc cũng như tăng lữ ngày một
suy yếu thì cũng chính là quá trình ngày càng đi lên của giai cấp tư sản.
Cuộc đấu tranh giữa ai thắng ai vẫn chưa ngã ngũ nhưng nó đã tạo điều
kiện cho sự thắng thế hoàn toàn của giai cấp tư sản trong giai đoạn sau.
KẾT LUẬN
Toàn bộ lịch sử phong kiến tây Âu thời kỳ trung đại là một quá trình
lịch sử đầy biến động của chế độ phong kiến. Nếu như ở châu Á, chế độ
phong kiến sau khi ra đời cho đến khi diệt vong thì tồn tại trong khoảng
thời gia đó tương đối ổn định với mô hình nhà nước trung ương tập quyền.
Tuy nhiên ở Châu Âu là là một quá trình phát triển liên tục là cuộc đấu
16
tranh thành lập chế đô phong kiến phân quyền trong buổi đầu, tiếp theo đó
là sự hình thành nhà nước phong kiến tập quyền và đến thời hậu kỳ trung
đại là sự ra đời của nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế.
Tất cả quá trình ấy của chế độ phong kiến tây Âu thời trung đại xét
cho cùng đó là sự phst triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quan hệ sản
xuất phải thay đổi theo cho phù hợp với lực lượng sản xuất. Hay khái quá
lên đó là mối quan hệ biện chứng về sự thay đổi từ cơ sở kinh tế xã hội dẫn
đến sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng của xã hội.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử thế giới đại cương_nxb ĐhQG_2000
2. Một số chuyên đề về lịch sử thế giới
3. Bài giảng của các thầy cô trong chương trình cao học