Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CHUC NANG VIỆT MINH TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.29 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tiếp nối các mặt trận dân tộc thống nhất trước đó, Mặt trận Việt Minh đã
đoàn kết dân tộc, toàn dân chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền do
Đảng ta lãnh đạo. sự hình thành và phát triển của Mặt trận Việt Minh đã có
nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam qua các thời kì lịch sử, đặc biệt là
trong Cách mạng tháng Tám. Mặt trận Việt Minh đã tập hợp được đông đảo
quần chúng nhân dân, hình thành nên lực lượng chính trị hùng hậu của cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng; động viên được sức mạnh cả dân tộc, thực
hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, phân hóa và cô lập kẻ thù nhằm chĩa mũi
nhọn đấu tranh đánh đổ chúng. Trên cơ sở phát triển các đoàn thể cứu quốc
trong Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng đã từng bước hình
thành và phát triển, tạo nên sức mạnh tổng hợp để nổi dậy khởi nghĩa giành
chính quyền khi thời cơ đến. Mặt trận Việt Minh có công lớn trong việc phát
triển lực lượng vũ trang cách mạng, trong việc chỉ đạo phong trào kháng Nhật
cứu nước, tạo tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám, trong việc triệu tập
và tiến hành thành công Quốc dân Đại hội Tân Trào ngày 16 và 17/8/1945, huy
động nhân dân tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, giành được thắng lợi. Trong những ngày Tổng khởi nghĩa, lá cờ đỏ sao
vàng năm cánh của Mặt trận Việt Minh tung bay trong cả nước và trở thành
Quốc kỳ của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, được Quốc hội khoá I thông
qua. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh là một sáng tạo của Đảng và Hồ Chí
Minh, là một điển hình thành công trong công tác mặt trận của Đảng ta. Trong
quá trình phát triển, Mặt trận Việt Minh không chỉ thực hiện chủ trương của
Đảng đề ra, đóng vai trò là tổ chức đoàn kết toàn dân tộc mà còn có vai trò tổ
chức, lãnh đạo khởi nghĩa trong cách mạng tháng Tám, thực hiện chức năng
chính quyền ở nhiều nơi.
Vì lí do trên, tôi đã chọn đề tài “NHÌN NHẬN LẠI CHỨC NĂNG CỦA
MẶT TRẬN VIỆT MINH TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945” làm đề
tài tiểu luận.
1




2. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và năng lực bản thân, tôi chỉ tìm hiểu khái quát về
vai trò, chức năng mới của Mặt trận Việt Minh trong cách mạng tháng Tám và đưa
ra một số ví dụ điển hình về vai trò đó.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp logic
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
4. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung cơ bản của đề tài được cấu trúc
như sau:
I. Quá trình thành lập Mặt trận Việt Minh
II. Vai trò Mặt trận Việt Minh trong cách mạng tháng tám
III. Chức năng mới của Mặt trận Việt Minh trong cách mạng tháng Tám

2


NỘI DUNG
I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP MẶT TRẬN VIỆT MINH
1. Sự chuyển biến về chiến lược và chủ trương đoàn kết, tập hợp lực
lượng dân tộc.
Chiến tranh thế giới thứ hai chính thức bùng nổ từ khi phát xít Đức tấn công
Ba Lan (1/9/1939). Ngay sau đó, nước Pháp lao vào cuộc chiến tranh đế quốc phi
nghĩa, chính phủ Pháp ra lệnh giải tán đảng cộng sản, các đảng dân chủ tiến bộ ở
trong nước cũng như các thuộc địa. Ở Đông Dương, chúng thực hiện chính sách

kinh tế thời chiến nhằm mục đích tăng cường vơ vét sức người sức của của nhân
dân Đông Dương cho cuộc chiến tranh ở chính quốc. Khi Nhật nhảy vào Đông
Dương thì Pháp cấu kết với phát xít Nhật thống trị Đông Dương đặt nhân dân vào
cảnh “một cổ hai tròng”. Ách áp bức bóc lột của đế quốc phát xít đè nặng lên tất cả
tầng lớp nhân dân và toàn thể dân tộc. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế
quốc phát xít Pháp – Nhật ngày cầng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết thì mũi nhọn
chính của cách mạng phải chĩa thẳng vào bọn phát xít, nhiệm vụ giải phóng dân tộc
phải trở thành nhiệm vụ bức thiết, hàng đầu của nhân dân Việt Nam.
Nhanh chóng bắt kịp những chuyển biến mới về thời cuộc, hội nghị trung
ương 6 đã chỉ rõ đặc điểm cơ bản của tình hình Đông Dương lúc đó là chiến tranh
và các chính sách phát xít của Pháp – Nhật sẽ thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của
xã hội thuộc địa nửa phong kiến lên đến tột cùng. Từ sự phân tích đó, hội nghị đã
nhận định cách mạng Đông Dương vẫn gồm hai nhiệm vụ là chống đế quốc và
chống phong kiến nhưng chống đế quốc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chủ yếu
nhất “đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao,
tất cả mọi vấn đề của cách mạng, kể cả vấn đề điền địa phải nhằm mục đích ấy mà
giải quyết”
Vì thế, hội nghị đã quyết định thành lập mặt trận thống nhất phản đế Đông
Dương thay cho mặt trận dân chủ Đông Dương. Để đoàn kết lực lượng, hội nghị
chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu
ruộng đất của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng và thay khẩu hiệu thành lập
3


chính quyền xô viết của công-nông-binh bằng khẩu hiệu thành lập chính quyền dân
chủ cộng hòa.
Về vấn đề đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương đã được xác định: “lực lượng của mặt trận là công nhân,
nông dân đoàn kết với các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh
chốc lát hoặc trung lập giai cấp tư sản bản xứ, trung tiểu địa chủ do giai cấp công

nhân lãnh đạo. Hội nghị đã nhấn mạnh công nông là hai lực lượng chính của cách
mạng, sự đồng minh chặt chẽ của công nông là vấn đề sống chết của cách mạng,
không có sự đồng minh ấy, cách mạng không thể thắng lợi được”.
Như vậy, chủ trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng
đầu và tăng cường đoàn kết, tập hợp lực lượng trong mặt trận dân tộc thống nhất đã
được đặt ra từ Hội nghị trung ương 6 (11/1939) được Hội nghị trung ương 7
(11/1940) tiếp tục khẳng định và Hội nghị trung ương 8 (5/1941) bổ sung, hoàn chỉnh.
Ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc nhận định, cuộc chiến tranh này lôi kéo tất
cả các nước đế quốc tham gia và trở thánh thời cơ cho các dân tộc thuộc địa, trong
đó có Việt Nam. Vì vậy, người đã tìm mọi cách trở về tổ quốc (1/1941) nắm tình
hình và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người triệu tập và chủ trì Hội nghị
trung ương 8 (5/1941). Hội nghị nhận định “đế quốc Pháp- Nhật chẳng những áp
bức giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng nó áp bức bóc lột cả dân tộc, không
chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản hay địa chủ, một anh thợ hay dân cày đều
cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi của
tất cả giai cấp bị cướp giật, vận mệnh dân tộc nguy nan không lúc nào bằng. Pháp
– Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc
Đông Dương”. Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách
mạng tư sản dân quyền, giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa mà trước
mắt chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp là giải phóng dân tộc. Đó không phải là bỏ
nhiệm vụ điền địa cũng không phải đi lùi lại một bước mà “chỉ là bước một bước
ngắn hơn để có sức mà bước dài hơn”. Từ nhận định này, hội nghị khẳng định
nhiệm vụ chủ yếu và trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc: “trong lúc
này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập
4


tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những quốc gia dân tộc còn mãi chịu kiếp
ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”. Để hoàn thành nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, hội nghị chỉ rõ,

trước hết cần phải tập trung lực lượng cách mạng trong toàn Đông Dương, không
phân biệt công nhân, nông dân,phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, không phân biệt
tôn giáo, sắc tộc, hễ ai có lòng yêu nước thương nòi thì cùng nhau tập hợp trong
mặt trận, đem toàn lực đóng góp cho mặt trận đấu tranh giành quyền độc lập tự do.
Hội nghị cũng tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và nêu
thêm khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện “người
cày có ruộng” và sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
2. Sự hình thành mặt trận Việt Minh
Hội nghị trug ương 8 vạch rõ sách lược của Đảng ta trong thời kì này là phải
vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao thức tỉnh được tinh
thần dân tộc xưa nay trong nhân dân nên không thể gọi là Mặt trận dân tộc thống
nhất phản đế Đông Dương như trước được nữa mà phải “đổi ra cái tên khác có tính
chất dân tộc hơn và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế hiện tại”. Từ đó,
thuận theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, hội nghị đã thống nhất thành lập
Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh ( Mặt trận Việt Minh) để thay cho Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương. Đó là mặt trận của riêng nhân dân Việt
Nam vì thế mang tính chất dân tộc rõ nét
Thực hiện nghị quyết trung ương 8, ngày 25/10/1941, Mặt trận Việt Minh
công bố Tuyên ngôn, chương trình và Điều lệ. Giương cao ngọn cờ dân tộc, Mặt
trận Việt Minh đã khẳng định “liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng
phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi
Pháp- Nhật, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng nên một nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa”. Chương trình cứu nước của Việt minh gồm 44 điểm thực ra là
hệ thống các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa- giáo dục, xã hội, ngoại giao
và những chính sách đối với mỗi tầng lớp cụ thể trong xã hội. Tinh thần cơ bản của
chương trình là “cốt để thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào mong ước:
5



1- Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập;
2- Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”
Như vậy, trong tôn chỉ đã quy định điều kiện gia nhập Việt Minh là Việt
Minh kết nạp từng đoàn thể không phân biệt dâng phái, của người Việt Nam hay
của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, không phân biệt xu hướng chính trị, hễ thừa
nhận mục đích, tôn chỉ và chương trình của Việt Minh thì được gia nhập vào Việt
Minh. Về hệ thống tổ chức, Việt Minh chỉ có hệ thống ngang chứ không có hệ
thống dọc, đơn vị cơ sở là Việt Minh các làng xã, xí nghiệp, nhà máy. Ban chấp
hành Việt Minh do các đoàn thể cử ra, cấp nào có ban chấp hành cấp ấy, Việt Minh
toàn quốc có Tổng bộ lãnh đạo. Phương pháp tổ chức quần chúng rất mềm dẻo,
linh hoạt, thích hợp với từng lúc, từng nơi. Ngoài những tổ chức có tính cách mạng
rõ rệt (mang tên Cứu quốc) còn có những đoàn thể hoạt động công khai, bán công
khai như hội tương tế, hội hiếu hỉ, nhóm đọc sách…Đặc biệt, Ban chấp hành trung
ương còn lưu ý không nên dùng phương pháp tổ chức đảng mà tổ chức quần chúng
nên cần phải rộng rãi, nhẹ nhàng.
Về mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận: Đảng là một bộ phận của mặt trận
thống nhất, là bộ phận trung kiên nhất, bộ phân lãnh đạo mặt trận, bên cạnh đảng
còn có các đoàn thể quần chúng cứu nước, các đảng phái cách mạng khác của
người Việt Nam. Còn mặt trận có nhiệm vụ cụ thể hóa các chủ trương của Đảng,
phổ biến rộng rãi trong quần chúng và tập hợp những người yêu nước xung quanh
Đảng. Một trong những biểu hiện rõ nét của mối quan hệ này là năm 1943, đảng
đưa ra “đề cương văn hóa Việt Nam” định hướng, tập hợp đông đảo nhà văn
hóa,văn nghệ trí thức đi theo con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng
chính bản thân mình. Trên cơ sở đó, Hội văn hóa cứu quốc ra đời, trở thành một bộ
phận của Mặt trận Việt Minh. Đảng lãnh đạo Việt Minh bằng đường lối chiến lược,
sách lược và cả bằng chính lực lượng đảng viên tham gia trong mặt trận ở các cấp.
Kể từ khi thành lập, trong suốt quá trình vận động cách mạng Việt Nam, những
chủ trương, nghị quyết của đảng nhằm xây dựng lực lượng đều được quán triệt
trong các văn kiện của Việt Minh. Việt Minh trở thành trung tâm thu hút mọi
người Việt Nam yêu nước, là đại diện cho lòng yêu nước của cả dân tộc “toàn bộ

6


phong trào chống phát xít Pháp – Nhật của nhân dân ta mang tên là phong trào
Việt Minh, cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc ta”(2)
II. VAI TRÒ MẶT TRẬN VIỆT MINH TRONG CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM
1. Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Vai trò của Mặt trận Việt Minh thể hiện rõ trong việc xây dựng căn cứ địa
Cao Bằng và khu giải phóng Việt Bắc sau này.
Căn cứ địa Cao Bằng được Bác thành lập khi người về nước trực tiếp chỉ đạo
cách mạng. Trước đó, khi ở còn ở Tĩnh Tây, Trung Quốc người gặp đoàn cán bộ
cách mạng Việt Nam sang đây lánh nạn, Người đã chọn được 40 người, mở lớp
huấn luyện, đào tạo rồi cho họ trở về châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình thuộc
tỉnh Cao Bằng để bước đầu xây dựng thí điểm các đoàn thể yêu nước, xây dựng thí
điểm Mặt trận Việt Minh và từng bước chuẩn bị để xây dựng Cao Bằng thành căn
cứ địa cách mạng quan trọng của cả nước. Tháng 1/1941, Người về nước, chọn
hang Pác Bó để chỉ đạo cách mạng Việt Nam, triệu tập và chủ trì Hội nghị trung
ương 8, thành lập Mặt trận Việt Minh và phát triển Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng
trước tiên. Quá trình phát triển của Mặt trận Việt Minh gắn liền với sự mở rộng của
căn cứ địa Cao Bằng. Từ lực lượng yêu nước ban đầu, tiến hành xây dựng các đội
vũ trang, đặc biệt là đội Nam tiến, Tây tiến, Đông tiến để nối liền căn cứ địa Cao
Bằng với căn cứ địa Bắc Sơn- Vũ Nhai. Đến tháng 11/1943, hai căn cứ địa quan
trọng nhất đã được nối liền, là cơ sở cho việc ra đời của khu giải phóng Việt Bắc
sau này. Như vậy, các căn cứ địa đều được xây dựng trước hết bằng công tác kiên
trì xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng nhân dân, thông qua các tổ chức yêu
nước trong Mặt trận Việt Minh. Cơ sở đó được xây dựng đến đâu thì lực lượng bán
vũ trang và lực lượng vũ trang phát triển đến đó hình thành nên các căn cứ địa cho
cuộc cách mạng. Sau đó, căn cứ địa mới mở rộng và phát triển hoàn chỉnh dần
thông qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng

vũ trang và cả chính quyền cách mạng của nhân dân.

7


Từ sau khi căn cứ địa Cao Bằng và Bắc Sơn- Vũ Nhai được nối liền đã phát
triển nhanh chóng, Mặt trận Việt Minh từ cao bằng mở rộng sang các tỉnh miền núi
phía bắc, hình thành nên các căn cứ địa khắp các tỉnh. Các khu căn cứ địa ngày
càng mở rộng hình thành nên các vùng giải phóng rộng lớn ở vùng miền núi phía
bắc, đặc biệt là ở 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang và
Thái Nguyên. Trước tình hình đó, dưới sự chỉ đạo của Bác Hồ, 4/6/1945, tổng bộ
Việt Minh 6 tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái đã tuyên bố chính thức thành lập
khu giải phóng Việt Bắc dưới sự lãnh đạo của Ban chỉ huy lâm thời do Hồ Chí
Minh đứng đầu. Trong khu giải phóng đã thực hiện thí điểm chương trình cứu
nước 44 điểm của Mặt trận Việt Minh, giờ thu gọn lại thành chính sách 10 điểm.
Từng bước kiện toàn bộ máy từ trung ương đến địa phương theo nguyên tắc phổ
thông đầu phiếu, thực hiện những chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội để xây dựng
khu giải phóng việt bắc thành căn cứ địa hoàn chỉnh nhất trong cách mạng tháng
Tám 1945.
2. Xây dựng lực lượng chính trị
Khi mới thành lập, Mặt trận Việt Minh mới chỉ hoạt động trong phạm vi 3
châu của tỉnh Cao Bằng, sau đó phát triển ra 9 châu và có 3 châu “hoàn toàn”. Đến
11/1942 trên cơ sở phong trào hoạt động có hiệu quả trong khắp tỉnh Cao Bằng đã
dẫn đến thành lập Ủy ban Mặt trận Việt Minh tỉnh Cao Bằng, rồi Ủy ban Việt
Minh Liên tỉnh Cao-Bắc-Lạng rồi cả khu Việt bắc gồm 6 tỉnh Cao- Bắc- Lạng- HàTuyên- Thái. Đến lúc này đã đặt ra vấn đề cần phát triển Mặt trận Việt Minh nhanh
chóng hơn nữa trên phạm vi cả nước chứ không riêng một vùng và đặc biệt chú
trọng sự tham gia của binh lính và trí thức. Vì thế, đầu năm 1943, đảng đề ra “đề
cương văn hóa Việt Nam” để tập hợp lực lượng trí thức yêu nước cùng nhau đứng
dưới ngọn cờ độc lập. Đến năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc ra đời, và một bộ
phận trí thức tiến bộ thành lập Đảng dân chủ Việt Nam(dưới sự giúp đỡ của Đảng

Cộng sản). Cả hai tổ chức này đều trở thành bộ phận của Mặt trận Việt Minh làm
cho mặt trận chống phát xít càng thêm rộng rãi, phá bỏ âm mưu của bọn phát xít
định lôi kéo tư sản và trí thức theo chúng.

8


Đến trước khi Nhật đảo chính Pháp, về cơ bản Mặt trận Việt Minh chỉ được
xây dựng khu vực miền Bắc và Bắc trung bộ còn Nam Bộ và Nam trung bộ thì
một phần do địch khủng bố gắt gao, một phần do tiếp thu chủ trương của Đảng còn
chậm nên chưa phát triển. Đến trước tổng khởi nghĩa tháng Tám. Mặt trận Việt
Minh đã đưa ra khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, kịp thời đáp ứng nguyện vọng nhân
dân trong nạn đói lịch sử: “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”, dấy lên phong trào
phá kho thóc mạnh mẽ khắp bắc bộ và trung bộ. qua phong trào, ảnh hưởng của
Mặt trận Việt Minh lan rộng trong cả nước, những tổ chức cứu quốc phát triển
nhanh chóng. Hầu hết các tỉnh đã có cơ sở Việt Minh. Chỉ trong thời gian ngắn,
Mặt trận Việt Minh đã thực sự trở thành một phong trào dân tộc rộng rãi và mạnh
mẽ trên cả nước, được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến các làng xã, nhà máy lôi
cuốn đông đảo nhân dân tham gia đấu tranh vì độc lập dân tộc.
Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất và thực hiện chính sách phân hóa kẻ thù càng trở nên cấp thiết. Nhận thức
được điều đó, ngày 12/4/1945, Mặt trận Việt Minh ra lời kêu gọi “Mấy lời tâm
huyết ngỏ cùng các vị quan chức Việt Nam” và “Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các
vị thư huynh ái quốc”. Các văn kiện này đã góp phần quan trọng đẩy nhanh quá
trình phân hóa một bộ phận người Việt Nam, cùng với các hoạt động sôi nổi khác
của Việt Minh đã hình thành cơ sở Việt Minh trong các công sở và các đơn vị lính
bảo an. Chính điều này đã góp phần vào việc giành chính quyền ở các địa phương
trong Tổng khởi nghĩa diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn.
Như vậy, Mặt trận Việt Minh đã hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị lực lượng
chính trị đông đảo cho cách mạng và lực lượng ấy đã đóng vai trò cực kì quan

trọng trong thành công của cách mạng tháng Tám.
3. Xây dựng lực lượng vũ trang
Song song với việc phát triển lực lượng chính trị, Mặt trận Việt Minh cũng
chú ý đến việc phát triển lực lực lượng vũ trang và lực lượng bán vũ trang. Lực
lượng bán vũ trang là lực lượng vừa làm nhiệm vụ chính trị quân sự vừa sản xuất
chiến đấu, bảo vệ lực lượng chính trị trong các cuộc đấu tanh như lực lượng dân
quân du kích, tự vệ… lực lượng bán vũ trang này được xây dựng ở hầu hết các địa
9


phương và hoạt động gắn liền với lực lượng chính trị. Bộ phận thứ hai là lực lượng
vũ trang ở các căn cứ địa, được phát triển từ đội du kích Bắc Sơn và sau đó là các
đội cứu quốc quân.
Dưới ngọn cờ Việt Minh, tại các vùng căn cứ địa cách mạng, công cuộc
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền được xúc tiến
gấp rút. Các đội cứu quốc quân được thống nhất thành Việt Nam cứu quốc quân.
Năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, Đảng ta nhận định
“năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt hơn để
sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi cuối cùng”. Trên cơ sở nhận định đó, Đảng
xác định toàn bộ công tác đảng phải nhằm vào việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Tiếp nhận chủ trương của Đảng, 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “sửa soạn
khởi nghĩa”, sau đó, Đảng cộng sản Đông Dương kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí,
đuổi thù chung”. Nhân dân khắp nơi hưởng ứng lời kêu gọi tích cực phát triển các
đội tự vệ, tổ chức tập luyện quân sự chuẩn bị khởi nghĩa. Đúng lúc đó, Hồ Chí
Minh từ Trung Quốc về nước đã kịp thời ra lệnh hoãn lại. Người phân tích “đây là
thời kì cách mạng hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa
chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ
để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa thì quân địch
sẽ tập trung đối phó”. Từ nhận định đó, người chủ trương thành lập đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp tổ chức và lãnh đạo– lực lượng

vũ trang chính quy nhưng có tên là “tuyên truyền” vì nhiệm vụ chính trị trọng hơn
quân sự. Từ 34 chiến sĩ ban đầu, sau 1 tuần đã phát triển thành 1 đại đội với 3
trung đội, đẩy mạnh tuyên truyền, cổ vũ và thúc đẩy phong trào cách mạng trong
quần chúng cả nước. Đến 5/1945, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và
cứu quốc quân đã thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
III. CHỨC NĂNG MỚI CỦA MẶT TRẬN VIỆT MINH TRONG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Mục đích của đảng khi thành lập Mặt trận Việt Minh là nhằm đoàn kết mọi
lực lượng yêu nước, kết nạp tất cả các tổ chức yêu nước ủng hộ cương lĩnh cứu
nước của Việt Minh để họ tham gia, đóng góp vào phong trào cách mạng giải
10


phóng dân tộc. Mặt trận Việt Minh cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng
vào trong quần chúng nhân dân và xây dựng lực lượng cách mạng. Nhưng trên
thực tế, trong quá trình vận động cách mạng tháng Tám, Mặt trận Việt Minh đã thể
hiện vai trò lãnh đạo cách mạng và sáng tạo trong cuộc đấu tranh giành chính
quyền ở các địa phương.
1. Mặt trận Việt Minh có vai trò quan trọng trong việc thành lập lực
lượng vũ trang, bán vũ trang.
Trong quá trình xây dựng lực lượng cho cách mạng, quá trình phát triển của
Mặt trận Việt Minh, quá trình xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, không thể tách rời. Căn cứ địa cách
mạng được xây dựng trước hết là từ công tác kiên trì xây dựng cơ sở chính trị
trong quần chúng thông qua việc hình thành và phát triển của các đoàn thể trong
Việt Minh, hình thành nên lực lượng chính trị rộng lớn. Các cơ sở đó xây dựng đến
đâu thì lực lượng vũ trang và bán vũ trang phát triển đến đó. Phát triển lực lượng
vũ trang góp phần bảo vệ lực lượng chính trị trước các cuộc đàn áp của kẻ thù,
đánh đổ chính quyền cơ sở, lập nên chính quyền của nhân dân. Khi đó, căn cứ địa
được mở rộng và hoàn chỉnh dần, các bộ phận tự bảo vệ lẫn nhau trước các đợt tấn

công của địch. Phương châm xây dựng này thích hợp với hoàn cảnh của cách mạng
nước ta lúc bấy giờ, chủ yếu là do so sánh lực lượng giữa ta và địch quá chênh
lệch, ta chỉ có vũ khí chính trị, tinh thần trong khi lực lượng quân sự của địch rất
mạnh vì vậy phải xây dựng lực lượng cách mạng từ không đến có, từ nhỏ đến lớn,
từ yếu đến mạnh để chống lại chúng. Phương pháp này đã phát huy hiệu quả tối đa
khi lực lượng cách mạng của ta ngày càng lớn mạnh. Từ 34 chiến sĩ ban đầu trong
đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày đầu thành lập đã phát triển
lên thành 5000 chiến sĩ giải phóng quân đến trước ngày Tổng khởi nghĩa bùng nổ.
đó là chưa kể đến đông đảo lực lượng tự vệ, dân quân du kích ở các địa phương.
Lực lượng vũ trang phát triển mạnh chính là cơ sở để Đảng ta đưa ra quyết định sử
dụng lực lượng quân sự kết hợp với lực lượng chính trị khởi nghĩa giành chính
quyền trong cách mạng tháng Tám. Có được thành tích đó, không thể không nhắc
đến vai trò của Mặt trận Việt Minh.
11


2. Mặt trận Việt Minh đã thực hiện chức năng chính quyền sau thắng lợi
của khởi nghĩa từng phần ở nhiều nơi.
Hội nghị trung ương 8 đã khẳng định hình thái vận động của cách mạng
nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
cả nước : “Nay mai đây, khi cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng
chiến của nhân dân Trung Quốc xảy ra hoàn toàn có lợi cho cuộc cách mạng Đông
Dương thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng
phần trong từng địa phương cũng có thể giành thắng lợi mà mở đường cho cuộc
khởi nghĩa to lớn”. Điều này tiếp tục khẳng định chủ trương của Đảng là giành
chính quyền bằng khởi nghĩa vũ trang và đánh dấu bước sáng tạo của đảng về bước
đi đến tổng khởi nghĩa. Nhưng khởi nghĩa từng phần là khởi nghĩa trung gian, là
điều chưa có tiền lệ trong cách mạng nên gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết
yêu cầu cách mạng, về hình thức tổ chức của chính quyền trung gian. Vì vậy, Đảng
chỉ mới đưa ra chủ trương còn chung chung “làm trung gian để bước lên thành lập

tổ chức chính quyền của nhân dân cách mạng, hình thức quá độ đó có thể là các
trưởng ban công nhân, trưởng ban nông dân cách mạng ở các nông thôn” hay sau
đó, Đảng đưa ra hình thức “ủy ban dân tộc giải phóng”. Đến 4/1945, Tổng bộ Việt
Minh ra chỉ thị “việc tổ chức các ủy ban dân tộc giải phóng” thì hình thức chính
quyền trung gian mới được lí giải cụ thể. Theo đó, ủy ban dân tộc giải phóng là ủy
ban dân tộc thống nhất ở các làng xã, xí nghiệp, là hình thức tiền chính phủ, trong
đó nhân dân được học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng. ủy ban dân tộc
giải phóng được tổ chức ở tất cả các cấp từ xã, huyện, tỉnh và trên hết là ủy ban
dân tộc giải phóng toàn quốc. Vì vậy trong quá trình khởi nghĩa từng phần, nhân
dân lập nên ủy ban nhân dân cách mạng, uỷ ban công nhân cách mạng, ủy ban dân
tộc giải phóng để quản lí địa phương. Thậm chí, có những nơi không lập cơ quan
nào mà chính Mặt trận Việt Minh cơ sở đứng ra làm nhiệm vụ, thực hiện chức
năng của chính quyền cách mạng, quản lí và điều hành mọi công việc, xúc tiến cho
sự ra đời của chính quyền cách mạng thực sự.
Đặc biệt, Mặt trận Việt Minh đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành khu giải phóng Việt Bắc. Sau khi thành lập, Mặt trận Việt Minh còn có vai
12


trò là người hoạch định các chính sách mới nhằm xây dựng và củng cố khu giải
phóng vững mạnh về mọi mặt để làm bàn đạp tiến lên giải phóng toàn quốc thông
qua việc rút gọn chương trình 44 điểm thành 10 chính sách lớn. 10 chính sách này
được thực hiện thí điểm tại Việt Bắc đã phát huy vai trò to lớn, làm thay đổi hoàn
toàn bộ mặt của khu giải phóng, hơn 1 triệu đồng bào các dân tộc được hưởng
những chính sách mới do cách mạng mang lại. Khu giải phóng Việt Bắc được xem
là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới sau này. Đó chính là cơ sở để Đại hội
quốc dân Tân Trào quyết định lấy 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh làm
chính sách đối nội, đối ngoại của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ.
3. Sự sáng tạo trong việc vận dụng nhiều hình thức giành chính quyền
trong tổng khởi nghĩa.

Ngày 14/8/1945, Nhật hoàng đầu hàng Đồng minh, thắng lợi của quân đội
Liên Xô và lực lượng Đồng minh đã tạo ra cơ hội rất tốt cho các nước thuộc địa,
phụ thuộc của Nhật ở châu Á nổi dậy giành chính quyền. Trong đó có Việt Nam.
Như vậy, điều kiện khách quan đã chín muồi. Hơn nữa, trải qua 15 năm đấu tranh
dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua quá trình chuẩn bị lâu dài, gian khổ, đặc biệt là
qua cao trào kháng Nhật, lực lượng quần chúng và Đảng tiền phong đã chuẩn bị
sẵn sàng cho cuộc quyết chiến. Thời cơ khách quan và chủ quan đã chín muồi, là
thời cơ “ngàn năm có một”, “thời cơ rất quý và hiếm, nếu bỏ qua nó sẽ không bao
giờ có nữa”. Lúc này, cách mạng Việt Nam đứng trước thời cơ lớn nhưng cũng gặp
phải không ít khó khăn khi phải đối phó với nhiều kẻ thù bên ngoài và sự nổi dậy
của lực lượng tay sai trong nước. Vận mệnh dân tộc đòi hỏi Đảng ta phải hành
động kịp thời, kiên quyết và khéo léo, phải huy động sức mạnh và trí tuệ toàn dân
tộc để giành thắng lợi trong cuộc chạy đua lịch sử với các tập đoàn phản động,
phải chớp thời cơ giành chính quyền từ tay Nhật trước khi quân đội Anh và bọn
phản động Tưởng Giới Thạch vào Đông Dương.
Để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa đảng đã khẩn trương triệu tập Hội nghị
Đảng toàn quốc từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945 tại Tân Trào, Tuyên Quang. Hội
nghị đã ra Quân lệnh số 1 –tiến hành tổng khởi nghĩa trên toàn quốc với phương
châm đánh những nơi chắc thắng không kể nông thôn hay thành thị bằng sự kết
13


hợp giữa lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, chiếm lấy chính quyền trước
khi quân Đồng minh vào. Sau đó, Đại hội quốc dân Tân Trào cũng được triệu tập
(16 – 17/8/1945) thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí minh làm chủ
tịch, thể hiện tinh thần đoàn kết, nhất trí của toàn dân tộc trong khởi nghĩa giành
chính quyền.
Như vậy, chủ trương khởi nghĩa bằng lực lượng vũ trang là chủ yếu kết hợp
với lực lượng chính trị nhưng trong thực tế những nơi tiến hành khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền thì thường diễn ra gay gắt, quyết liệt . Ví như tỉnh Thái

Nguyên, ta chủ trương giải phóng sớm để đưa lực lượng vũ trang tiến về Hà Nội.
Vì vậy, ngày 16/8, Việt Nam giải phóng quân đã khởi nghĩa tại Thái Nguyên
nhưng đến tận 20/8 mới hoàn thành thắng lợi. Trong khi đó, Hà Nội đã được giải
phóng từ 19/8. Sở dĩ có được thành công nhanh chóng như vậy là vì Việt Minh ở
Hà Nội đã sáng tạo trong việc tổ chức giành chính quyền. Trong không khí sục sôi
cách mạng, Việt Minh Hà Nội đã biến cuộc mit-tinh ủng hộ chính phủ bù nhìn của
tổng bộ viên chức thành cuộc mit-tinh biểu dương lực lượng của quần chúng với
sự tham gia của hơn 20 vạn người. Nhân dân đã sẵn sàng bước vào cuộc đấu tranh
giành chính quyền. Thông qua cuộc tuần hành, Việt Minh đã phát hiện ra vấn đề
cực kì quan trọng là Nhật không có ý đồ can thiệp vào cuộc khởi nghĩa của nhân
dân ta, vì thế khả năng vô hiệu hóa quân Nhật là hoàn toàn có cơ sở.
Sáng 19/8 hàng chục vạn quần chúng từ ngoại thành tiến về Nhà hát lớn dự
mit-tinh do Việt Minh tổ chức, sau đó biến thành cuộc biểu tình vũ trang giành
chính quyền, quần chúng cách mạng có các đơn vị tự vệ chiến đấu dẫn đầu tiến về
chiếm những vị trí quan trọng trong thành phố. Điều này đã mở ra phương thức
mới để giành chính quyền là mit-tinh, tuần hành thị uy. Đây thực sự là sự sáng tạo
lớn so với phương châm khởi nghĩa bằng lực lượng quân sự kết hợp với lực lượng
vũ trang của Đảng. Và trong các cuộc khởi nghĩa sáng tạo đó, vai trò lãnh đạo khởi
nghĩa thuộc về Mặt trận Việt Minh các cấp. Thắng lợi ở Hà Nội đã mở ra phương
thức giành chính quyền không đổ máu: đó là tổ chức thương lượng với Nhật ở
những nơi còn giằng co với Nhật và lực lượng thân Nhật cũng như cả ở những nơi
ta giành được chính quyền nhưng chưa ổn định.
14


Nối tiếp thành công ở Hà Nội, ủy ban khởi nghĩa Huế đã quyết định chọn
ngày 23/8 để khởi nghĩa. Đó là ngày chính phủ bù nhìn dự định mở tiệc rượu đón
Nguyễn Văn Sâm làm khâm sai Nam Kì. Việt Minh đã huy động đến 15 vạn nhân
dân nội thành và ngoại thành kết hợp với lực lượng vũ trang tiến hành tuần hành
thị uy làm chính phủ bù nhìn và triều đình Huế khiếp sợ. Tối 23/8, chính phủ cách

mạng lâm thời gởi điện đòi Bảo Đại thoái vị. Khởi nghĩa thắng lợi ở Huế.
Dù chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, ở Sài Gòn, xứ ủy Tiền phong đã
quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa và quyết định khởi nghĩa vào ngày 24/8
bằng lực lượng tự vệ là chính kết hợp với lực lượng chính trị, chiếm được một số
cơ sở quan trọng của địch nhưng vẫn còn dinh Toàn quyền, cảng Hải quân, ngân
hàng Đông Dương, sân bay…đến sáng 25/8, hàng chục vạn đồng bào ngoại thành
kéo vào nội thành tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền bằng đấu tranh chính trị
là chủ yếu và đã thắng lợi nhanh chóng.
Thông qua diễn biến khởi nghĩa ở 3 trung tâm lớn của đất nước là Hà Nội,
Huế và Sài Gòn đều thể hiện sự sáng tạo và vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh
trong việc lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền. Các tổ chức Việt Minh đã linh
hoạt, sáng tạo tổ chức khởi nghĩa khi thời cơ chín muồi chứ không nhất thiết phải
chờ lệnh tổng khởi nghĩa từ trung ương đến. Quan trọng hơn, ở cả 3 nơi đều giành
chính quyền bằng hình thức đấu tranh chính trị. Qua đó, khẳng định lực lượng
chính trị và hình thức đấu tranh chính trị đã đóng vai trò quyết định trong thắng lợi
của cách mạng tháng Tám 1945

15


KẾT LUẬN
Lịch sử cho thấy thắng lợi huy hoàng của cách mạng tháng Tám 1945 gắn
liền với vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh là sự kế tục sự
nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội phản đế đồng minh (1930 –
1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 – 1939), đã đoàn kết, tập hợp
các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc khỏi số phận nô lệ.
Vai trò của Mặt trận Việt Minh trong việc cụ thể hóa, hiện thực hóa mọi chủ
trương, chính sách của Đảng, biến những nguồn sáng đó thành sức mạnh to lớn,
rộng khắp. Đó chính là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất của sự kết hợp biện
chứng lý luận và thực tiễn. Nhưng trong quá trình vận động cách mạng tháng Tám,

Mặt trận Việt Minh không chỉ có vai trò cụ thể hóa, hiện thực hóa chủ trương của
Đảng mà còn thể hiện vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng và sáng tạo trong cuộc đấu
tranh giành chính quyền ở các địa phương góp phần tạo nên một cuộc cách mạng
tháng Tám thần kì. Trong đó, Mặt trận Việt Minh không chỉ đóng vai trò là một tổ
chức, đoàn thể của những người Việt Nam yêu nước mà còn là biểu tượng cho
lòng yêu nước, đoàn kết thống nhất, ý chí quật cường của dân tộc. Nó gây nên nỗi
khiếp sợ của kẻ thù, là cơ sở để các nhà sử học Pháp và Mỹ nhận định rằng: Sở dĩ
cả Pháp và Mỹ đều thua ở Việt Nam là do đã không lường nổi sức mạnh của lòng
yêu nước, khát vọng độc lập, tự do – một khi được giáo dục đến mức thấm sâu,
“hóa thân” thành máu thịt của mỗi người dân thì không một bạo lực cường quyền
nào có thể chiến thắng nổi. Mặt trận Việt Minh đã giáo dục mọi người Việt Nam
hiểu rằng “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do,
độc lập”; không chỉ là khẩu hiệu, không phải là ngôn từ mà thực sự trở thành lý
tưởng, lẽ sống, bổn phận và sự hy sinh của mọi người dân Việt Nam yêu nước.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đảng 1930-1945, tập 3- nhà xuất bản chính trị quốc gia.
2. Cách mạng tháng Tám 1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương,
nhà xuất bản sự thật, 1971.
3. Đại cương lịch sử Việt Nam tập 2, Đinh Xuân Lâm chủ biên, nhà xuất bản
giáo dục 2003.
4. Toàn cảnh cách mạng tháng Tám, Phan Ngọc Liên chủ biên, nhà xuất bản
chính trị quốc gia.
5. Lược sử Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam, nhà xuất
bản sự thật Hà Nội, 1991.

17



Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa
lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến
công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai
trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng
Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và
chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài
địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập
tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

hợp lực lượng, vừa là cơ quan tuyên giáo đầu tiên của Đảng.
Bất kỳ người Cộng sản nào cũng hiểu rõ nguyên lý mà Lênin đã chỉ ra: “Không có
lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng. Chỉ đảng nào có lý luận
tiền phong hướng dẫn thì mới đảm đương được vai trò chiến sĩ tiền phong”. Tất
nhiên, từ lý luận đến thực tiễn là một khoảng cách, đòi hỏi những nhà cách mạng
phải vận dụng một cách sáng tạo lý luận mà mình có vào thực tiễn sinh động luôn
luôn đổi thay một cách nhanh chóng, sâu sắc.

18



×