Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

luận án quan niệm về con người trong triết học hiện sinh tôn giáo k jaspers và tác động của nó tới tư tưởng triết học phương tây thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.28 KB, 158 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________

NGUYỄN LÊ THẠCH

QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC
HIỆN SINH TÔN GIÁO K. JASPERS VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC PHƢƠNG TÂY THẾ KỶ XX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________

NGUYỄN LÊ THẠCH

QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC
HIỆN SINH TÔN GIÁO K. JASPERS VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC PHƢƠNG TÂY THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 62.22.03.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn Vũ Hảo
PGS. TS. Nguyễn Gia Thơ

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả sử dụng trong luận án là trung thực. Những kết
luận của luận án, chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Lê Thạch

1


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 4
B. NỘI DUNG .................................................................................................. 9
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 9
1.1. Những tài liệu có liên quan đến triết học hiện sinh và những
điều kiện tiền đề ra đời quan niệm của K. Jaspers về con ngƣời ........... 9
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm về con
ngƣời trong triết học hiện sinh tôn giáo của K. Jaspers ........................ 27
1.3. Những công trình nghiên cứu về tác động của quan niệm của K.
Jaspers về con ngƣời đến tƣ tƣởng triết học phƣơng Tây thế kỷ XX ....... 29

1.4. Những vấn đề đƣợc đặt ra và hƣớng nghiên cứu của luận án....... 32
Kết luận chƣơng ........................................................................................ 35
Chƣơng 2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN
NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC HIỆN SINH CỦA
K. JASPERS .................................................................................................. 37
2.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời quan niệm về
con ngƣời trong triết học hiện sinh của K. Jaspers ............................... 37
2.2. Những tiền đề tƣ tƣởng ra đời quan niệm về con ngƣời trong
triết học hiện sinh của K. Jaspers ............................................................ 44
2.3. K. Jaspers: cuộc đời và sự nghiệp .................................................... 52
Kết luận chƣơng ........................................................................................ 59
Chƣơng 3. QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC
HIỆN SINH TÔN GIÁO CỦA K. JASPERS ............................................. 60
3.1. Khái quát tƣ tƣởng triết học hiện sinh tôn giáo của K. Jaspers .... 60
3.1.1. Tư tưởng về triết học và khoa học ................................................ 60
3.1.2. Hiện sinh hướng lên Siêu việt ....................................................... 62
3.1.3. Tư tưởng về tính không khách quan hóa của hiện sinh ................ 63
3.1.4. Tư tưởng về hiện sinh và sự giao tiếp ........................................... 65

2


3.1.5. Tư tưởng về sự sụp đổ hiện sinh và giải mã Siêu việt .................. 66
3.2. Tình huống giới hạn - nền tảng của quan niệm của K.Jaspers
về con ngƣời ............................................................................................... 67
3.3. Cái tôi kinh nghiệm, cái tôi ý thức và cái tôi hiện sinh................... 76
3.4. Hiện sinh và tự do .............................................................................. 82
3.5. Con ngƣời và Thƣợng đế ................................................................... 89
3.5.1. Siêu Việt – định hướng cơ bản của con người .............................. 89
3.5.2. Luận giải về yêu sách tuyệt đối..................................................... 95

3.6. Những giá trị và hạn chế của quan niệm K. Jaspers về con ngƣời ....... 99
Kết luận chƣơng ...................................................................................... 107
Chƣơng 4. TÁC ĐỘNG CỦA QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI
TRONG TRIẾT HỌC HIỆN SINH K. JASPERS ĐẾN TƢ TƢỞNG
TRIẾT HỌC PHƢƠNG TÂY THẾ KỶ XX ............................................ 108
4.1. Tác động của quan niệm K. Jaspers về con ngƣời đến tƣ
tƣởng triết học hiện sinh châu Âu thế kỷ XX ....................................... 110
4.1.1. Mối quan hệ ảnh hưởng tương tác giữa K. Jaspers và M.
Heidegger .............................................................................................. 113
4.1.2. Dấu ấn của quan niệm K. Jaspers về con người trong một số
trào lưu khoa học xã hội phương Tây thế kỷ XX ................................. 122
4.2. Tác động của quan niệm K. Jaspers về con ngƣời đối với một
số nhà triết học phƣơng Tây tiêu biểu thế kỷ XX ................................ 134
4.2.1. Tác động tới tư tưởng triết học Hannah Arendt .......................... 134
4.2.2. Tác động tới tư tưởng triết học Paul Ricoeur ............................. 137
4.2.3. Tác động tới tư tưởng triết học Hans-Georg Gadamer ............... 139
Kết luận chƣơng ...................................................................................... 141
C. KẾT LUẬN ............................................................................................. 142
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................................. 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 147

3


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thế kỷ XX, tại châu Âu, triết học hiện sinh đã ghi dấu ấn đậm
nét bằng việc thổi một luồng gió mới mát lạ vào không khí triết học lúc bấy
giờ với những trang tiểu thuyết, kịch, những bài thơ và các loại hình văn
chương sống động khác nhau của các nhà tư tưởng lớn như M. Heidegger, J.

Sartre, G. Marcel, K. Jaspers, v.v… về chủ đề con người với các giá trị đặc
trưng như tự do, tự quyết, quyết chọn, vươn lên, giải phóng, độc đáo, dấn
thân, tồn tại người, v.v…. Xu hướng tiếp cận này thêm lần nữa khẳng định,
vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của mọi cuộc luận bàn triết học,
và chính triết học lấy đề tài con người là tôn chỉ, là mục đích nhân văn duy
nhất, cao cả nhất nhằm giải phóng con người, đem lại tự do đích thực cho
con người cá nhân.
Thứ nhất, trong mỗi một giai đoạn của lịch sử triết học, con người được
soi chiếu, nhìn nhận trong bối cảnh của lịch sử, văn hóa, tôn giáo, v.v… dưới
góc nhìn triết học của thời đại ấy. Nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại, Empedoc nói:
Con người đã, đang và sẽ luôn luôn là một hiện tượng thú vị nhất đối với con
người. M. Heidegger – nhà triết học hiện sinh người Đức cũng khẳng định:
“Con người là hữu thể duy nhất có đặc tính là biểu lộ bản chất của mình và
bản chất vạn vật” [Trích theo: 22; tr. 350]. Việc nghiên cứu con người như là
đối tượng nhận thức về chính mình được các nhà triết học nhìn nhận với tính
cách là sự tha hóa của chính con người do xã hội tạo nên. Tuy nhiên, theo
Husserl, nguy cơ lớn hơn chính là tha hóa tinh thần. Ông viết: “Hình thức tha
hóa chiếm ưu thế trong trong xã hội phương Tây chính là sự tha hóa tinh
thần” [Trích theo: 30; tr. 8]. Con người - với tư cách giá trị tối cao - trong
chính xã hội ấy đã bị nô dịch và tha hóa về mặt tinh thần. Việc chỉ ra sự tha
hóa, cũng như con đường hay cách thức khắc phục nó dường như đã trở thành
một trong những đề tài chủ yếu dường như của triết học phương Tây hiện đại.

4


Thứ hai, trong dòng chảy triết học phương Tây hiện đại thế kỷ XX,
nổi lên nhà triết học có tầm ảnh hưởng lớn tới tư tưởng đương thời, đó là K.
Jaspers. Vấn đề con người là vấn đề trung tâm của triết học hiện sinh tôn
giáo của K. Jaspers. Những nghiên cứu của ông không chỉ đề cập đến con

người và thân phận con người, mà còn chỉ ra sự giải phóng con người ở bình
diện tự do cao nhất, đó là Siêu việt (Chúa, Thượng đế). Trong Lời giới thiệu,
cho cuốn Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX do Phạm Quang Định biên
soạn, tác giả Bùi Văn Nam Sơn nhận định: “…Câu hỏi trực tiếp về đức tin
tôn giáo hay cụ thể hơn, về Thượng đế, lại hầu như ít được đặt ra trong triết
học thế kỷ XX… Chỉ ở K. Jaspers (và tất nhiên ở Scheler) là còn có một sự
trao đổi cặn kẽ với tôn giáo truyền thống và một sự “tuyên tín” về “đức tin
triết học”, còn ngoài ra, ta chỉ bắt gặp ý tưởng khá mơ hồ về một “Tồn tại
(Sein)” siêu việt trì ngự tất cả nơi Heidegger, về một thế giới vật chất
(Welmaterie) “khá linh thiêng” nơi E. Bloch…” [24; tr 21- 22]. Jasper xây
dựng cho mình hệ thống triết học hiện sinh tôn giáo. Vấn đề con người trong
triết học hiện sinh tôn giáo của Jaspers là con người hiện sinh, nhưng được
đặt trong sự định hướng tới Siêu việt. Chỉ đến Siêu việt thì mới có hiện sinh
trung thực và con người mới được giải phóng được theo đúng nghĩa của nó.
Thông qua phương pháp Soi vào hiện sinh, triết học hiện sinh tôn giáo
của Jaspers cố gắng tìm ra bản chất đích thực của sự tha hóa con người và con
đường giải phóng con người khỏi sự tha hóa đó.
Thứ ba, Việt Nam là nước đang thực hiện sự chủ động hội nhập với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu,
tìm hiểu, đánh giá, lựa chọn, tiếp thu những giá trị văn hóa của các dân tộc,
khu vực, nền văn minh trên thế giới là việc làm cần thiết, và đương nhiên việc
tìm hiểu những giá trị văn hóa, con người phương Tây và các tư tưởng triết
học phương Tây không nằm ngoài nhu cầu tất yếu đó. Tuy nhiên, hiện nay
trong quá trình hội nhập cũng cần tránh các khuynh hướng cực đoan, sùng

5


bái, đề cao phương Tây, khuynh hướng tuyệt đối hóa những giá trị tư tưởng
phương Tây và định hướng “Tây phương hóa” để từ bỏ những chuẩn mực tốt

đẹp của truyền thống, bản sắc Việt Nam. Chúng ta cần giữ gìn những giá trị
truyền thống của dân tộc, mặt khác không ngừng mở rộng và tiếp biến những
tinh hoa văn hóa thế giới, để làm phong phú cho những giá trị văn hóa dân tộc,
làm cho đất nước ngày càng hội nhập sâu vào nền văn minh toàn cầu. Với ý
nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: Quan niệm về con người trong triết học hiện sinh
tôn giáo K. Jaspers và tác động của nó tới tư tưởng triết học phương Tây thế kỷ
XX, làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án là trình bày một cách có hệ thống những nội dung
cơ bản của quan niệm về con người trong triết học hiện sinh tôn giáo của K.
Jaspers, từ đó đưa ra đánh giá về tác động của nó tới tư tưởng triết học
phương Tây thế kỷ XX.
Để đạt được mục đích như trên, luận án có những nhiệm vụ như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về quan niệm về con người trong triết
học hiện sinh tôn giáo của K. Jaspers và tác động của nó đến tư tưởng triết
học phương Tây thế kỷ XX.
- Làm rõ bối cảnh, những điều kiện và tiền đề ra đời quan niệm về con
người trong triết học hiện sinh tôn giáo của K. Jaspers.
- Phân tích làm rõ những nội dung cơ bản, những giá trị và hạn chế của
quan niệm về con người trong triết học hiện sinh tôn giáo của Jaspers.
- Đưa ra nhận định tác động của quan niệm Jaspers về con người đến
một số tư tưởng triết học phương Tây thế kỷ XX.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:

6


Luận án có đối tượng nghiên cứu là quan niệm về con người trong
triết học hiện sinh tôn giáo của Jaspers và tác động của nó đến tư tưởng triết

học phương Tây thế kỷ XX.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đây là một đề tài khá rộng, do vậy luận án giới hạn nghiên cứu ở quan
niệm của Jaspers về con người qua một số tác phẩm tiêu biểu và tác động của
quan niệm này chủ yếu đến một số tư tưởng hay một số nhà tư tưởng phương Tây
thế kỷ XX đặc biệt là Hannah Arendt, Paul Ricoeur và Hans-Georg Gadamer.
4. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, bản
chất con người. Đồng thời, luận án cũng kế thừa những thành quả của các
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án trong thời gian gần đây.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu lịch
sử triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Luận án sử dụng một số phương pháp cụ thể sau: phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp lịch sử và logic, khái quát hóa, phương pháp so
sánh, phương pháp văn bản học, v.v…
5. Đóng góp mới của luận án
Có thể nói, đây là luận án chuyên sâu đầu tiên ở nước ta tập trung vào
phân tích luận giải những nội dung về con người trong triết học của K. Jaspers
và tác động của nó tới một số tư tưởng triết học phương Tây thế kỷ XX.
Luận án khảo cứu có hệ thống những vấn đề căn bản về con người hiện
sinh trong triết học của K. Jaspers, từ đó có những đánh giá, so sánh với

7


những quan niệm về con người của các triết gia đương thời khác. Đồng thời

trên cơ sở lập trường của triết học Mác – Lênin, luận án đưa ra những đánh
giá về những giá trị, hạn chế và tác động của quan niệm về con người trong
triết học hiện sinh tôn giáo của K. Jaspers đến tư tưởng triết học phương Tây
thế kỷ XX.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản về con người
trong triết học hiện sinh tôn giáo Jaspers, từ đó có thể cung cấp cơ sở lý luận
cho những nhà quản lý xã hội, quản trị nhân lực, quản lý văn hóa, quản lý tôn
giáo, v.v... có cách nhìn cụ thể, khách quan đúng đắn trong việc hoạch định
chính sách về con người, về văn hóa và về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay
và trong tương lai.
Kết quả của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề triết học, tôn giáo học cho sinh viên
và học viên cao học các trường đại học và các học viện.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 4 chương, với 15 tiết.

8


B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những tài liệu có liên quan đến triết học hiện sinh và những
điều kiện tiền đề ra đời quan niệm của K. Jaspers về con ngƣời
Ở Việt Nam, hiện nay có khá nhiều công trình nghiên cứu, sách dịch về
triết học hiện sinh đã được công bố. Có thể khái quát ở một số loại nghiên cứu
chủ yếu sau:

Một là, những công trình: các sách chuyên khảo, tham khảo, các kỷ yếu
Hội thảo khoa học và các bài báo được đăng trên các tạp chí trong nước,
được viết trước năm 1975 và trong những thập kỷ gần đây về triết học hiện
sinh nói chung và những điều kiện tiền đề ra đời quan niệm của K. Jaspers về
con người.
Cuốn Triết học hiện sinh của tác giả Trần Thái Đỉnh, Nxb Văn học
(2008), là cuốn sách dày gần 400 trang, gồm mười chương được tác giả trình
bày một cách công phu, sâu sắc về chủ nghĩa hiện sinh, trong đó tác giả phân
tích khái niệm triết học hiện sinh, các quan điểm, các chủ đề chính, các nhánh
của triết học hiện sinh. Tác giả đã khái quát những tư tưởng của các nhà hiện
sinh tiêu biểu, trong đó có nhà triết học hiện sinh Jaspers từ trang 190 đến
256. Thông qua những trang viết này, Trần Thái Đỉnh đã cho người đọc thấy
được về cuộc đời, quan điểm triết học của Jaspers đối với vấn đề hiện sinh.
Tuy nhiên, do chưa phải là một tác phẩm chuyên sâu về triết học Jaspers, nên
tác giả đã không trực tiếp đi vào phân tích vấn đề con người trong triết học
hiện sinh tôn giáo của Jaspers. Mặc dù vậy, có thể thấy, Trần Thái Đỉnh đã có
những đóng góp quan trọng trong việc đưa ra bức tranh tổng quan về chủ
nghĩa hiện sinh. Đây là một trong những nguồn tư liệu quan trọng cho tác giả
luận án thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

9


Có thể khẳng định, xã hội là kết quả của quá trình lịch sử, dòng chảy
liên tục do con người tạo nên theo quy luật lịch sử. Việc nghiên cứu về xã
hội và con người cũng là một quá trình nhận thức. Tiếp tục khuynh hướng
nghiên cứu triết học về con người, triết học hiện sinh đã thực hiện một cuộc
cách mạng trong lĩnh vực xác định lại đối tượng và phương pháp triết học
[Xem: 29, tr. 455]. Bằng cuộc cách mạng về “bản thể luận tồn tại người”,
chủ nghĩa hiện sinh đã lần đầu tiên cố gắng luận chứng và đưa chúng ta đến

với siêu hình học theo đúng nghĩa của thuật ngữ này, đến với một trong
những loại hình độc đáo của bản thể luận triết học.
Có thể thấy rằng, triết học hiện sinh là triết học về ý nghĩa cuộc nhân
sinh hay nói một cách khác, triết học hiện sinh là triết học về con người cá
nhân. Đây là triết học tập trung vào vấn đề về con người, thân phận con
người, vấn đề ý nghĩa của cuộc sống, vấn đề ý nghĩa đích thực của cuộc nhân
sinh, của cái chết… Các vấn đề này thể hiện tính độc đáo của triết học hiện
sinh so với những loại hình triết học khác, bởi vì trước đó, triết học luôn đi
tìm những nguyên nhân cội rễ của vạn vật, bàn những chuyện xa xôi huyền vi
của tạo hóa, mà không đi thẳng vào vấn đề của con người, của tồn tại người.
Triết học hiện sinh đặt lại vấn đề là: không gì có thể có ý nghĩa sâu sắc hơn
với con người, ý nghĩa lớn lao hơn với con người bằng chính con người. Do
vậy, E. Mounier nhận định: “Bất cứ khuynh hướng nào trong triết học hiện
sinh đều là triết học về con người, trước khi là triết học về vũ trụ. Theo Thiên
Chúa giáo hay không, triết học hiện sinh đều mang nặng tính chất bi đát của
kinh nghiệm con người về định mệnh của mình” [Trích theo: 22, tr. 23]. Mặt
khác, với cách nói bình dị và lời nói nhẹ nhàng, gần gũi, triết học hiện sinh đã
đi vào đời sống và hướng dẫn đời sống bằng những suy tư triết học. Bởi vậy,
triết học hiện sinh đã được chào đón một cách nồng nhiệt, và với ý nghĩa đó,
nó đã tạo nên một phong trào sâu rộng trong quần chúng. Triết học hiện sinh,
đã đánh thức con người từ bỏ những giấc mơ tìm hiểu vũ trụ để chỉ đi tìm ý

10


nghĩa của cuộc sống, của cái chết của chính bản thân, của nhân loại mình,
bằng ý nghĩa của cuộc nhân sinh. Chính vì vậy, dù thuộc “khuynh hướng
Thiên Chúa giáo hay vô thần, triết học hiện sinh cũng đã mang lại yếu tố tôn
giáo cho cái thế giới lạnh lùng của triết cổ điển” [22, tr. 24]. Trong triết học
Jaspers, với tính chất tự do của các nhân vị hiện sinh, thì việc áp dụng khoa

học thực nghiệm để tìm hiểu con người là điều không thể, bởi vì, để tìm hiểu
con người, phương pháp phải phù hợp với đối tượng. Thành thử, chúng ta
phải thay phương pháp thực nghiệm bằng một phương pháp đặc thù trên cơ sở
cảm nhận, đặc biệt trong tình huống giới hạn. Ông đã gọi tên phương pháp đó
là “soi vào hiện sinh” và đây là phương pháp phù hợp với đối tượng để tìm
hiểu về con người.
Trong tư tưởng triết học của Jaspers, con người và Thượng đế có mối
liên hệ mật thiết với nhau, được ông gọi là hiện sinh và siêu việt. Ở đây Siêu
việt được ông luôn luôn sử dụng và mang hai ý nghĩa. Thứ nhất, Siêu việt được
hiểu là vươn lên, là đi lên không ngừng của hiện sinh, theo nghĩa này ông hay
sử dụng động từ (transzendieren). Thứ hai, Siêu việt được hiểu chính là Siêu
việt thể (Tranzsendenz); hiện sinh chính là mối tương quan với Siêu việt và
việc gắn chặt mối tương quan đó khiến cho hiện sinh được trung thực: “Cho
nên hiện sinh không phải là nhân vị tự ý thức về mình và có tương quan với
chính mình, nhưng nhân vị đó còn phải giữ vững tương quan với siêu việt là
nguyên ủy của mình. Hiện sinh chính là mối tương quan đó với siêu việt. Nếu
không có tương quan đó, không có hiện sinh trung thực” [22, tr. 196]
Theo Jaspers, con người trong tư tưởng triết học hiện sinh của ông luôn
được nghiên cứu và nhìn nhận bằng một phương pháp riêng mà ông gọi là “soi
vào hiện sinh”. Jaspers là người đã kịch liệt lên án và phản đối khoa học thực
nghiệm. Việc dùng khoa học vào nghiên cứu con người, theo ông, làm cho con
người trở nên kiêu căng, trở thành “quái tượng” và con người chỉ có thể là một
sự vật như hàng trăm ngàn sự vật khác trong vũ trụ vật lý. Với cách lập luận

11


như vậy, Jaspers đã chỉ ra rằng, con người, tự do của con người hiện sinh
không thể là đối tượng cho khoa học thực nghiệm, vì vậy cần phải có một
phương pháp khác, phương pháp triết lý hiện sinh. Về điều này, tác giả Trần

Thái Đỉnh viết: “Cuộc khám phá vũ trụ vừa cho ta thấy khoa học thực nghiệm
chưa hoàn thành được công việc. Triết học phải tiếp tục công việc mà khoa học
vừa bỏ dở; như thay thế chế độ thì cũng phải thay nhân viên, triết gia vào thay
cho khoa học gia, và từ đây bắt đầu kỷ nguyên của hiện sinh” [22, tr. 206].
Tư tưởng triết học tôn giáo Jaspers là sự kế thừa và kết tinh của tư
tưởng triết học Kierkegaard và Nietzsche. Triết học Jaspers có chứa đựng
trong nó tất cả mọi hình thái hiện sinh con người, trong cả không gian và thời
gian. Trong đó, trong không gian con người luôn ý thức tương quan giữa
mình và siêu việt, còn trong thời gian là cả một sự tri ân, ghi nhận những
đóng góp của những triết gia đi trước. Với những lý lẽ đó, theo Jaspers thì con
người là một cái gì đó mà chúng ta không thể biết một cách tường tận và sáng
tỏ như khoa học thực nghiệm. Việc con người trong hiện sinh tôn giáo của
ông chỉ có thể cảm nghiệm được bản chất của họ ở tận nguồn tư tưởng và
hành động. Ông đã viết trong tác phẩm Triết học của mình như sau: “không
thể biết được họ một cách rõ rệt, minh bạch mà ta chỉ có thể cảm nghiệm
được bản chất của họ ở tận nguồn tư tưởng và hành động của ta. Tóm lại, theo
nguyên tắc, con người còn vượt xa những gì họ biết về chính họ” [47, tr. 124]
có nghĩa là con người luôn phải quyết định và sự quyết định đó là quyết định
về chính bản thân mình; tức là tự do của con người phải được công nhận, chịu
sự phục tùng của những nguyên tắc. Con người, được tự do nhưng luôn luôn
thấy được đó là một tặng vật của Chúa. Jaspers nhận định: “Càng tự do thật
sự con người càng tin có Thiên Chúa. Vì khi tự do thật sự ta mới chắc chắn ta
không tự do mà có. Là người, không bao giờ chúng ta có thể tự mãn. Vì luôn
luôn chúng ta hướng vượt xa hơn và hơn lên mỗi khi ta cần ý thức sâu xa
rằng: Thiên Chúa có. Đồng thời ý thức ấy càng soi sáng cho ta hiểu rõ ràng

12


được chính ta và ta không đáng giá gì” [Trích theo: 47, tr. 126]. Chính Jaspers

cho ta thấy việc con người hướng về Chúa không phải là đặc tính tự nhiên,
mà là sự phù hợp với tự do của ta và chỉ xuất hiện với những người biết vượt
qua tình trạng sống sinh lý lầm lỳ, để con người có thể sống không lệ thuộc
vào trần thế cũng như có sự liên hệ chặt chẽ với Chúa, tự do của con người có
sự liên hệ chặt chẽ với Chúa. Con người luôn sống trong sự dẫn dắt của Thiên
Chúa nên con người nhận thấy rõ rằng, Siêu việt là nguyên nhân sáng tạo cho
sự tồn tại của con người.
Một trong những sách chuyên khảo đáng chú ý là cuốn Triết học hiện
sinh do nhà nghiên cứu Đỗ Minh Hợp làm chủ biên (Nxb Tôn giáo 2010). Với
dung lượng hơn 500 trang, cuốn sách được chia làm bốn chương. Đây là công
trình nghiên cứu công phu của nhóm tác giả về chủ nghĩa hiện sinh. Tác phẩm
đã cho người đọc thấy được bức tranh cơ bản về chủ nghĩa hiện sinh dưới
cách tiếp cận độc đáo của nhân học văn hóa, cũng như bản thể luận, cơ sở
phương pháp luận để nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh [Xem: 29, tr. 3]. Qua
cách tiếp cận độc đáo đó, nhóm tác giả đã phân tích các triết gia tiền bối cũng
như các đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh. Phần cuối của cuốn sách
nhóm tác giả đã đưa ra những hệ thống khái niệm cũng như chủ đề cơ bản của
triết học hiện sinh. Trong phần trình bày về các nhà triết học hiện sinh tiêu
biểu, tác giả Đỗ Minh Hợp và các cộng sự cũng dành một số trang (từ trang
413 đến trang 421) dẫn chứng, phân tích về triết gia hiện sinh Jaspers. Các tác
giả đã trình bày về cuộc đời và sự nghiệp, cũng như một số tư tưởng chính
của Jaspers. Những nghiên cứu của tác giả Đỗ Minh Hợp và các cộng sự là
nguồn tư liệu tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài của tác giả
luận án.
Tác phẩm Hiện tượng học Husserl của nhóm tác giả Đỗ Minh Hợp,
Nguyễn Chí Hiếu, Phạm Quỳnh Trang (Nxb Tôn giáo 2008) là công trình
nghiên cứu chuyên sâu về hiện tượng học của Husserl. Với độ dày gần 500

13



trang, được chia làm ba chương, nhóm tác giả đã chỉ ra sự phát triển trong tư
tưởng triết học của Husserl, nội dung cơ bản của Hiện tượng học. Tuy không
trực tiếp đề cập đến triết học Jaspers, công trình chuyên sâu về triết học này bằng việc nêu ra tư tưởng triết học của Husserl và của các triết gia hiện sinh
chịu ảnh hưởng bởi triết học Husserl - là tư liệu quan trọng cho tác giả luận án
có những khảo nghiệm, so sánh giữa triết gia Jaspers với các nhà triết học
cùng thời khác.
Trong cuốn sách Triết học tư sản hiện đại xuất bản năm 1975, tác giả
Hoàng Việt đã phân tích sự hình thành, các đặc điểm của triết học tư sản hiện
đại và các trường phái chủ yếu như chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc,
thuyết kỹ trị. Mặc dù dung lượng hạn chế, nhưng tác phẩm đã nêu ra những
vấn đề có tính chất cơ bản về triết học phương Tây hiện đại.
Trong cuốn sách Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa (263 trang, Nxb
Văn học 1978), nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu đã đặt ra cho mình nhiệm vụ là:
phê phán triết học hiện sinh và văn học hiện sinh và đề cao vai trò, nhiệm vụ
của văn học xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới. Ở một phương diện nào đó,
công trình ra đời trong bối cảnh lịch sử như vậy có tác dụng đáng kể đối với
đời sống tinh thần của đất nước, dân tộc lúc bấy giờ. Vì vậy, cuốn sách thực sự
là tư liệu tham khảo quan trọng cho nghiên cứu luận án.
Trong cuốn Mấy trào lưu triết học phương Tây của nhà nghiên cứu
Phạm Minh Lăng được Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp phát hành
năm 1984. Với 354 trang, tác giả đã phân tích, làm rõ được nội dung các
khuynh hướng triết học hiện đại phương Tây: chủ nghĩa duy linh - nhân vị,
chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng phê phán và nêu rõ ảnh hưởng của
các trào lưu này ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Tuy nhiên, công
trình này chỉ là những khảo cứu chung về những chủ đề nêu trên, chứ không
đi vào phân tích chuyên sâu một nhà hiện sinh cụ thể nào. Vì vậy, việc nghiên
cứu của tác giả luận án không có sự trùng lặp với công trình này.

14



Đáng chú ý là cuốn sách của tác giả Trần Thiện Đạo Chủ nghĩa hiện sinh
và thuyết cấu trúc (Nxb Văn học 2001, 351 trang) và Từ chủ nghĩa hiện sinh
tới thuyết cấu trúc do Trần Thiện Đạo, Ilya Ehrenbourg, Claude Simon, M.
Nadeau, D. Simone, Beauvoir là đồng chủ biên (Nxb Tri thức 2008, 362 trang),
tập hợp những bài báo đã được viết hoặc dịch, được in trên các tập san Văn và
Tân văn trong khoảng thời gian từ 1965 đến 1970 tại Sài Gòn. Các tác giả đưa
ra những định nghĩa ngắn gọn và dễ hiểu về triết học hiện sinh, về thuyết cấu
trúc, giới thiệu không khí sinh hoạt văn học Pháp thập niên 1950 - thời kỳ mà
triết học hiện sinh đang phát triển.
Trong công trình Về một dòng văn chương (Nxb Văn nghệ thành phố Hồ
Chí Minh 2001, 128 trang), các tác giả đã tập hợp một số bài nghiên cứu về chủ
nghĩa hiện sinh trong văn học nước ngoài và một vài tác phẩm thơ văn của văn
học hiện đại Việt Nam.
Công trình Lược khảo triết học phương Tây hiện đại của tác giả Bùi
Đăng Duy - Nguyễn Tiến Dũng (Nxb Chính trị Quốc gia 2003) đã khảo cứu
về các chủ đề cơ bản của triết học phương Tây thế kỷ XX, như triết học về
con người, tôn giáo, triết học khoa học và sự du nhập của triết học phương
Tây hiện đại vào Việt Nam. Tuy nhiên, cuốn sách này chưa đề cập cụ thể và
trực tiếp đến quan niệm về con người trong triết học tôn giáo của Jaspers,
cũng như sự ảnh hưởng của nó tới tư tưởng triết học phương Tây.
Trong cuốn sách Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại (Nxb Đại
học và Trung học Chuyên nghiệp 1986), tác giả Phạm Văn Sĩ đã chỉ ra những
tư tưởng quan điểm của văn học phương Tây với nhiều nhà văn tiêu biểu. Công
trình này cũng dành một phần để trình bày chủ nghĩa hiện sinh trong văn học
phương Tây liên quan đến thân phận con người. Trong cuốn sách, mặc dù đề
cập khá nhiều đến những tư tưởng triết học về con người trong văn học hiện
sinh, tác giả cũng chưa có những phân tích trực tiếp về những tư tưởng triết học
Jaspers như theo hướng nghiên cứu của tác giả luận án.


15


Còn trong cuốn Chủ nghĩa hiện sinh, lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam
(Nxb Tổng hợp TP. HCM 2006), tác giả giả Nguyễn Tiến Dũng đã trình bày
một cách khái lược các điều kiện kinh tế - xã hội dẫn tới sự hình thành chủ
nghĩa hiện sinh. Thông qua đó, tác giả trình bày khái quát triết học hiện sinh,
cũng như các chủ đề của nó. Phần chương ba, tác giả đã trình bày sự du nhập
của triết học hiện sinh vào Việt Nam. Trong cuốn sách này, tác giả Nguyễn
Tiến Dũng cũng trình bày một cách ngắn gọn tư tưởng triết học Jaspers từ
trang 42 đến trang 44. Mặc dù không phải là công trình chuyên biệt về triết
học Jaspers, nhưng cuốn sách có giá trị tham khảo nhất định cho những
nghiên cứu về những vấn đề đặt ra trong luận án này.
Cuốn Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại nửa cuối thế kỷ
IXX – nửa đầu thế kỷ XX (Nxb Tổng hợp Tp. HCM 2008), của nhóm tác giả Đỗ
Minh Hợp – Nguyễn Anh Tuấn – Nguyễn Thanh là sự tìm tòi khảo cứu công
phu của nhóm tác giả với hơn 500 trang, được chia làm chín chương. Công
trình trình bày những trường phái triết học chính của phương Tây, trong đó có
chủ nghĩa hiện sinh qua một số nhà hiện sinh tiêu biểu như Jaspers, Heidegger,
v.v. Nội dung cuốn sách này là cơ sở cung cấp những tri thức khoa học cho
những người nghiên cứu và tìm hiểu triết học phương Tây. Tất nhiên, do mục
đích ban đầu của mình, cuốn sách không phải là sự nghiên cứu chuyên sâu về
Jaspers, vì vậy nó chỉ đề cập đến triết gia Jaspers một cách khái quát.
Cuốn sách Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại (Nxb Văn học 2006)
của tác giả Bùi Giáng - một người nghiên cứu lâu năm, có bề dày về chủ
nghĩa hiện sinh, là cuốn sách thể hiện sự công phu, tâm huyết trong việc tìm
tòi, nghiên cứu về triết học phương Tây nói chung và triết học Heidegger nói
riêng. Cuốn sách đã trình bày những chủ đề cơ bản của chủ nghĩa Hiện sinh,
và là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu, so sánh giữa tư tưởng Heidegger

với các nhà hiện sinh phương Tây khác.

16


Cuốn sách Hành trình vào triết học (Nxb Tri thức 2012) của Nguyễn
Văn Toàn có thể được coi như là triết học nhập môn, như lời khẳng định của
tác giả [Xem: 59, tr.9]. Cuốn sách mang đến cho người đọc những tư tưởng
triết học về các vấn đề hiện sinh như con người, tha nhân, ái tình, tôn giáo, cái
chết, đời sống đạo đức, v.v… Mặc dù không phải là một công trình nghiên
cứu về triết học Jaspers, song cuốn sách của tác giả Nguyễn Văn Toàn đã
cung cấp những tư liệu thực sự rất hữu ích đối với việc nghiên cứu triết học
nói chung và triết học hiện sinh nói riêng.
Tác phẩm Chân dung triết gia Đức, do Quang Chiến chủ biên (Trung
tâm văn hóa, ngôn ngữ Đông Tây ấn hành 2000) đã đề cập đến các nhà triết
học Đức. Trong công trình này, đáng chú ý là bài viết của tác giả Quang
Chiến nhan đề Con người hành hương tìm về chính mình. Đây là chủ đề gần
với hướng nghiên cứu của luận án về con người trong triết học hiện sinh: Khi
Jaspers đến với cuộc hành hương để tìm lại chính mình, thì cũng chính là lúc
ông càng thấy cuộc đời thật mênh mông vô định, đầy ắp những câu đố không
có lời đáp. Theo Jaspers, mọi ngành khoa học đều không có khả năng nhận
thức được ý nghĩa cuộc sống. Con người là một sinh linh vô định và càng
ngày càng trở nên nghi vấn. Con người “vừa là một tiềm năng vĩ đại nhất, vừa
là mối đe dọa lớn lao nhất trên thế giới” [9, tr. 172]. Con người trong quan
điểm của Jaspers luôn mang trong mình nỗi cô đơn, sự sợ hãi, luôn là tấn bi
kịch, luôn nổi chìm bồng bềnh trong nghi hoặc: Tôi đó ư? Có đích thực là tôi
không? Và lẽ nào tôi đang tồn tại? Bài viết cũng đề cập ở mức độ nào đó đến
con người trong triết học Jaspers, nhưng, ở đây tác giả chưa đi sâu vào làm rõ
con người hiện sinh tôn giáo cũng như là những tác động của quan điểm ấy
tới tư tưởng triết học phương Tây thế kỷ XX.

Ấn phẩm Đâu là căn nguyên tư tưởng? hay con đường triết lý từ Kant
đến Heidegger của nhà nghiên cứu Lê Tôn Nghiêm (Nxb Văn học 2007) là
công trình chuyên sâu làm rõ con đường tư tưởng từ triết học Kant tới triết

17


học Heidegger. Ở đây tác giả cũng phân tích tư tưởng triết học của
Heidegger về con người và so sánh tư tưởng này của ông với các nhà hiện
sinh khác, trong đó có Jaspers. Tuy nhiên, do mục đích của mình, cuốn sách
chưa tập trung trình bày, phân tích chi tiết và thấu đáo về những tư tưởng
triết học Jaspers.
Nhà triết học Trần Đức Thảo đã công bố công trình của mình về Vấn đề
con người và chủ nghĩa lý luận không có con người (Nxb TP. HCM 2000) và
cuốn Sự hình thành con người (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004). Đây là hai
công trình được tác giả nghiên cứu trong nhiều năm về vấn đề con người. Hai
công trình này đã phân tích, trình bày những vấn đề cơ bản của lý luận con
người; sự hình thành con người, ý thức ban đầu về cái tôi; mối liên hệ về sinh
học, xã hội học và tâm lý... sau phần dẫn luận cho vấn đề con người. Đây cũng là
công trình nghiên cứu của một nhà nghiên cứu, một nhà triết học Việt Nam hiện
đại nghiên cứu về con người với những giá trị gần gũi với chủ nghĩa hiện sinh.
Vì vậy, công trình nghiên cứu của ông mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Công trình này bàn về con người và có liên quan trực tiếp ở mức độ nào đó đến
hướng nghiên cứu của luận án và hữu ích cho việc nghiên cứu luận án về mặt
phương pháp luận. Tuy nhiên, công trình này, ít trình bày cụ thể về con người
trong triết học hiện sinh tôn giáo Jaspers.
Cuốn sách Giới thiệu vài nét về các chủ nghĩa: cấu trúc, hiện sinh,
phân tâm, thực dụng trong văn học của nhóm tác giả Nguyễn Đức Nam,
Phong Hiền, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Trinh, Hoàng Việt, được xuất bản
trước năm 1975. Đây là tài liệu tham khảo dùng cho học viên các lớp bồi

dưỡng chính trị ngắn hạn của Trường chính trị - Bộ văn hóa. Nội dung tài liệu
tham khảo này đề cập đến bốn trào lưu chủ yếu trong văn học nghệ thuật tư
sản hiện đại: chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa phân tâm, chủ
nghĩa thực dụng. Những nội dung trình bày trong cuốn sách có ý nghĩa rất lớn
về mặt tư liệu cho sự tham khảo của luận án.

18


Nhân kỷ niệm ngày Triết học thế giới, từ ngày 16 - 17/11/2006, Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, tổ chức Hội thảo quốc tế
Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX. Trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
xuất bản năm 2007 tại Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, các tác giả như Bùi
Đăng Duy, Nguyễn Vũ Hảo, Nguyễn Anh Tuấn, Lê Kim Châu, Lê Hải Thanh,
Lưu Minh Văn, Phạm Thái Việt, v.v. đã phân tích cội nguồn, tư tưởng triết
học cơ bản, những ảnh hưởng của Husserl, Heidegger, Jaspers đến các trào
lưu triết học phương Tây. Đáng chú ý là bài viết của tác giả Lê Kim Châu
nhan đề “Một số tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ XX”. Bài viết này
đã phân tích chủ nghĩa hiện sinh như là một trào lưu triết học lớn của thế kỷ
XX, đồng thời, đã chỉ ra ảnh hưởng của nó tới không chỉ giai đoạn đầu tiên
khi mới ra đời, mà còn ảnh hưởng tới tận ngày nay. Theo bài viết, chính việc
ưu tiên cho những suy tư về con người hơn so với những suy tư về giới tự
nhiên, lời kêu gọi triết học quay trở lại với con người và việc khước từ con
người như một đối tượng của nhận thức khoa học là cơ sở quan trọng cho sự
ra đời chủ nghĩa hiện sinh. Từ đó tác giả đi đến kết luận: Chủ nghĩa hiện sinh
là một trào lưu triết học, tâm lý học, văn học quan trọng nhất thế kỷ XX
[Xem: 68, tr. 317].
Trong bài viết Quan niệm về con người trong dòng triết học nhân bản
phương Tây hiện đại cũng in trong Kỷ yếu hội thảo nói trên, tác giả Phạm
Văn Chung đã trình bày một số trào lưu như triết học đời sống của Bergson,

chủ nghĩa thực dụng (pragmatism), hiện tượng học (phenomenology) của
Husserl, chủ nghĩa hiện sinh (existentialism)…, từ đó đưa ra những nhận định
về các đặc điểm, nội dung, giá trị, hạn chế của quan niệm về con người trong
các trào lưu này.
Trong bài viết khác trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo này nhan đề “Tư tưởng
đạo đức học của F.Nietzsche”, tác giả Đỗ Minh Hợp đã phân tích những tư
tưởng triết học, đạo đức học của Nietzsche thông qua các tác phẩm của ông,

19


từ đó rút ra bảy nhận xét về những tư tưởng đạo đức học cơ bản trong triết
học Nietzsche. Theo tác giả, F.Nietzsche xem giá trị không phải là quan hệ
của con người với tự nhiên, mà là quan hệ giữa các khát vọng của con người
với tư cách một sinh thể [Xem: 68, tr. 378].
Ngoài ra, cũng còn nhiều bài viết liên quan khác trong cuốn Kỷ yếu Hội
thảo Quốc tế này như “Sự hình thành, phát triển và đặc điểm cơ bản của chủ
nghĩa hiện sinh” của Nguyễn Thị Thường; “Vài nét về chủ nghĩa hiện sinh ở
miền Nam Việt Nam những năm 60 – 70 của thế kỷ XX” của Đặng Thị Lan; hay
“Quan niệm về tự do trong triết học hiện sinh của Simone de Beauvoir” của Bùi
Thị Tỉnh, v.v… Các bài viết này đều trình bày về những vấn đề triết học con
người, xã hội, văn hóa, tôn giáo, đạo đức, mỹ học trong triết học phương Tây
hiện đại. Các bài viết trên ít nhiều đề cập đến chủ đề của luận án nghiên cứu. Tất
cả nội dung đó cũng được tác giả kế thừa trong luận án của mình.
Gần đây trên Tạp chí Triết học, số 6/2012, đăng bài “Vấn đề tồn tại
người trong triết học hiện sinh của K. Jaspers” của tác giả Luyện Thị Hồng
Hạnh. Trong bài viết, tác giả đã khái quát được những nét khái quát về quan
điểm triết học Jaspers. Mặc dù, chưa nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề con
người trong triết học tôn giáo của Jaspers, song bài viết có ý nghĩa tham khảo
nhất định cho nghiên cứu luận án.

Bài viết của Nguyễn Tiến Dũng - Lê Văn Tùng, với tiêu đề “Lịch sử
triết học của K. Jaspers” đăng trên Tạp chí Khoa học Xã hội, số 8/2011 đi vào
phân tích quan điểm của Jaspers về triết học, đối tượng, chức năng, về quan
điểm lịch sử triết học. Có thể nhận thấy, trong bài viết này tác giả đã chỉ ra
được những nội dung về quan điểm lịch sử triết học Jaspers, nhưng chưa đi
sâu phân tích được hệ thống tư tưởng triết học của ông về vấn đề con người
trong triết học hiện sinh tôn giáo như hướng nghiên cứu của luận án.
Hai là, loại công trình là những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
đã được dịch ra tiếng Việt, đề cập một cách trực tiếp hay gián tiếp về chủ nghĩa

20


hiện sinh nói chung, những điều kiện tiền đề ra đời quan niệm của K. Jaspers về
con người hay vấn đề con người trong triết học hiện sinh nói riêng.
Cuốn Triết học phương Tây hiện đại (Nxb Chính trị Quốc gia 1994)
do tác giả Lưu Phóng Đồng (chủ biên) được dịch từ tiếng Trung đã trình bày
những nội dung tư tưởng cơ bản của các trào lưu như chủ nghĩa Tômat mới,
chủ nghĩa nhân cách, hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh… Trong công
trình này, nhà nghiên cứu Lưu Phóng Đồng đã phân chia chủ nghĩa hiện sinh
thành: Thượng và Hạ; trong đó triết học Jaspers được tác giả trình bày trong
chủ nghĩa Hiện sinh Hạ từ trang 282 đến trang 308. Cũng như những tác
phẩm nêu trên, trong công trình này, tác giả trình bày nét tổng quan, cơ bản
nhất trong triết học Jaspers. Tuy nhiên, công trình nay chưa có sự phân tích
cụ thể và chi tiết về quan niệm về con người trong Triết học hiện sinh tôn
giáo của Jaspers.
Trong cuốn sách Đường vào hiện sinh (Nxb Lao động 2007), nhà triết
học Jiddu Krishnamurti đã tập trung vào những vấn đề cơ bản của cuộc sống
con người như: tự do, sống, chết, sinh tồn, tôn giáo, Thượng đế, v.v… Cuốn
sách đã đưa con người đến với những giá trị gần hơn của tồn tại người cùng

những giá trị chuyển hóa để đi vào hiện sinh với những chứng nghiệm
(experiencing), cũng như thấu hiểu (understanding) và cảm ngộ (discerning),
với những trạng thái chân thật và công phu. Công trình này không đề cập trực
tiếp tới vấn đề nghiên cứu của luận án, nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong
việc cung cấp những giá trị, góc nhìn hiện sinh.
Trong cuốn sách chuyên khảo nhan đề Chủ nghĩa hiện sinh (Nxb Thế
giới 2011), tác giả Jacques Colette đã phân tích những chủ đề cơ bản của triết
học hiện sinh như hiện sinh, tự do, siêu việt, thời gian, giao tiếp, v.v… qua
những nhà hiện sinh tiêu biểu trong đó có Jaspers. Tác giả đã phân tích những
tư tưởng như hiện sinh, siêu việt, ý thức triết học, v.v…Tuy nhiên, cuốn sách
chỉ đề cập khái lược “thoảng qua” về triết học hiện sinh Jaspers, mà chưa đi

21


sâu phân tích sâu tư tưởng triết học Jaspers. Nhưng những gì cuốn sách cung
cấp là sự gợi mở cho hướng nghiên cứu của luận án.
Trong tác phẩm Triết học thế kỷ XX (Nxb Thời đại 2011), nhà nghiên
cứu Remo Bodei đã cho thấy, triết học của nền văn hóa phương Tây có nguồn
gốc nguyên sâu xa từ văn hóa triết học Hy Lạp cổ đại và đã trở thành triết học
có ảnh hưởng trong chủ nghĩa duy lý trong thời kỳ Khai sáng. Tuy nhiên,
trong thế kỷ XX, đã xuất hiện chủ nghĩa hiện sinh như một loại hình đặc trưng
của chủ nghĩa phi duy lý tập trung vào các chủ đề về tự do, số phận và khát
vọng cá nhân, v.v… Mặc dù không trực tiếp nói về triết học hiện sinh Jaspers,
cuốn sách cũng là nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu của luận án.
Trong cuốn Con người và tư tưởng phương Tây (Nxb Từ điển Bách
khoa 2007), tác giả Crane Brinton đã mô tả vị trí, phương hướng của vùng đất
văn hóa và tri thức, lược bỏ một số tên tuổi nổi tiếng, lướt qua một vài mốc
ranh giới trong nỗ lực làm sáng tỏ con người phương Tây, cảm nhận được
những vấn đề quan trọng đối với con người và số phận con người. Đây là tác

phẩm không trực tiếp đề cập đến nội dung triết học Jaspers, nhưng cũng chứa
đựng những hạt nhân tư tưởng về con người trong triết học phương Tây nói
chung và con người trong triết học Jaspers nói riêng.
Công trình dày hơn 800 trang do Phan Quang Định biên dịch nhan đề
Toàn cảnh triết học Âu – Mỹ thế kỷ XX là một công trình nghiên cứu về lịch
sử triết học phương Tây với nhiều nguồn tư liệu phong phú. Cuốn sách không
chỉ cung cấp bức tranh toàn cảnh về cuộc hành trình của triết học Tây phương
trong một thế kỷ phong phú và vô cùng sôi động, mà còn là một bản lược đồ
với những kinh tuyến, giúp người đọc theo dõi cuộc hành trình phức tạp của
triết học bằng những đoạn trích súc tích và tiêu biểu của mỗi triết gia. Trong
công trình này, với những tư liệu dù ít, dù nhiều về Jaspers, tác giả đã phân
tích những tư tưởng cũng như những ảnh hưởng của ông với sự phát triển triết
học Tây phương. Tuy nhiên, đúng với ý nghĩa nhan đề cuốn sách, công trình

22


khảo cứu về Jaspers chỉ là đưa ra bức tranh khái quát về tư tưởng của ông. Vì
vậy, công trình chưa có được những luận giải sâu sắc về triết học Jaspers.
Cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu của nhà triết học trẻ
người Đức Richard David Precht (Nxb Dân trí 2011) đã đưa ra cách đặt vấn
đề khá độc đáo và trực tiếp. Với lối văn ngắn gọn, thông tuệ, cuốn hút người
đọc, cuốn sách đã đặt ra những câu hỏi lớn của triết học bằng sự am tường về
chuyên môn, khiếu hài hước tinh tế của tác giả. Đề cập đến nghiên cứu thần
kinh, tâm lý, lịch sử, văn hóa…, tác giả đã làm rõ những vấn đề trung tâm của
tồn tại con người, với những chủ đề về sự thật, về ý nghĩa cuộc sống và cái
thiện, v.v… P. R. Precht đã định hướng một cách mạch lạc, kêu gọi chúng ta
suy ngẫm một cách đầy hứng thú về cuộc phiêu lưu mang tên cuộc đời và các
khả năng của nó. Cuốn sách bàn về chủ đề con người, hay tồn tại người, vì
vậy là sự gợi mở cho những tham khảo của tác giả luận án.

Cuốn Truy tầm triết học (Nxb Văn hóa thông tin 2001) của G. Tresdey,
K. J. Struhl và R. E. Olsen, là công trình khảo cứu đồ sộ với nhiều chủ đề về
con người, về tôn giáo, thể xác, linh hồn, tự do, v.v… Cuốn sách cho thấy,
những đóng góp triết học của những nền văn hóa phương Tây với những khái
niệm triết lý tương đồng, để vạch ra những đường lối khác nhau mà các
truyền thống khác đã đáp ứng với các vấn nạn triết học muôn thuở. Tuy
nhiên, cuốn sách này chưa trình bày chuyên sâu về triết học Jaspers và những
tiền đề ra đời quan niệm của ông về con người.
Ba là, loại công trình là số lượng các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ
nghiên cứu về các đề tài có liên quan đến về triết học hiện sinh nói chung và
những điều kiện tiền đề ra đời quan niệm của K. Jaspers về con người nói riêng.
Luận án phó Tiến sĩ triết học của tác giả Lê Kim Châu nhan đề Chủ
nghĩa hiện sinh và một vài ảnh hưởng của nó ở miền Nam Việt Nam (Viện
Triết học 1996, 128 trang) là công trình chuyên sâu của tác giả, đã làm rõ
những điều kiện tiền đề ra đời chủ nghĩa hiện sinh, những nội dung tư tưởng

23


×