MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình lâu dài của xã hội loài người. Trước
khi xuất hiện, loài người trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc,... Cho đến nay, khái niện dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, trong dó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất. Một là, dân tộc chỉ một
cộng đồng người có liên kết chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có
ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với
nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia – quốc gia nhiều dân tộc. Hai là,
dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ,
quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất
quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống, văn
1
1
hoá. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân
tộc.
Vấn đề dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) và hiện nay cũng đang là một vấn đề thực tiễn nóng bỏng.
Hàng ngày, hàng giờ qua các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta luôn dược
nghe, được thấy các cuộc chiến tranh đã, đang và có nguy cơ nổ ra giữa các dân
tộc, sắc tộc. Những vấn đề về chiến tranh dân tộc đang đặt ra trên thế giới đòi hỏi
phải được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng. Thế giới đã có những giải
pháp khác nhau từ đàm phán chính trị đến quân sự... nhưng nó chỉ có thể tạm lắng
xuống vào từng thời điểm và luôn có nguy cơ bùng nổ trở lại. Sở dĩ như vậy là vì
các giải pháp đưa ra không hoàn chỉnh, triệt để, thậm chí chỉ là những mưu lược để
“nén” vấn đề dân tộc lại. Để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, cần hiểu rõ vấn đề dân
tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc cần phải giải quyết ra sao, qua đó xác định
được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề dân tộc, xác định xu hướng khách
quan của sự phát triển dân tộc và từ đó đề ra phương hướng giải quyết tốt nhất,
triệt để nhất. Điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nghiên cứu và vận dụng
các quan điểm khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân
tộc.
NỘI DUNG
I. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin
Từ khi dân tộc ra đời, vấn đề dân tộc luôn luôn được đặt ra và thu hút sự chú ý
của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội quan tâm. Nội dung của vấn đề dân tộc, trước
tiên là quan hệ giữa các tộc người trong một xã hội nằm trong khuôn khổ một quốc
2
2
gia dân tộc về các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hoá, ngôn ngữ,... và những vấn đề
này thường kết hợp với những lợi ích giai cấp, nên các phong trào dân tộc đều
mang tính giai cấp sâu sắc. Ngày nay, tình hinh dân tộc trên thé giới diễn biến rất
phức tạp, đa dạng và gay gắt, giải quyết vấn đề này ở từng lúc, từng nơi có khi phải
bằng vũ trang quân sự.
Vấn đề dân tộc luôn gắn với tính giai cấp và mỗi giai cấp đều xuất phát từ lợi
ích của giai cấp mình trong quan niệm và tham gia phong trào dân tộc. Đối với các
nước XHCN thì bao giờ quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp cũng gắn bó với nhau,
giải quyết vấn đề dân tộc chính là giải quyết vấn đề giai cấp và ngược lại. Còn đối
với các nước TBCN thì giai cấp thống trị luôn lợi dụng vấn đề dân tộc để phục vụ
cho lợi ích của giai cấp thống trị, vì thế quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp tách
rời nhau, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp tách rời nhau.
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong điều kiện của CNTB,
Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc. Một là xu
hướng phân lập, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng
đồng dân cư muốn tách ra thành lập quốc gia dân tộc độc lập. Hai là xu hướng liên
hiệp giữa các dân tộc lại với nhau, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
khoa học và công nghệ. Ngày nay, các dân tộc có xu hướng liên kết, hợp tác với
nhau trong quan hệ thị trường mở rộng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng
và cùng có lợi (Ví dụ như thị trường chung châu Âu, châu Á (ASEAN)…). Tuy
nhiên, hai xu thế này là một thể thống nhất, mỗi nước đều có chủ quyền độc lập,
quyền tự chủ, tự quyết nhằm xây dựng quốc gia dân tộc mình phồn vinh, công
bằng, văn minh bên cạnh sự hòa nhập cộng đồng quốc tế. Hiện nay, vấn đề dân tộc,
giai cấp đã trở thành một vấn đề vừa có tính quốc gia, vừa có tính quốc tế, vừa có
tính thời sự vừa có tính lâu dài.
3
3
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và dựa
trên sự tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng thế giới trong việc gỉải quyết
vấn đề dân tộc, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh Dân tộc với 3 vấn đề chính bao gồm:
1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân
tộc với nhau. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay
nhỏ, không phân biệt trình độ cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da đều
có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền
đặc lợi và đi áp bức dân tộc khác.
Trọng một quốc gia nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ ngang nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc lịch sử để lại.
Trên phạm vi giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa
các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn
liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức
bóc lột của các nước tư bản phát triển với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
2. Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh
của dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường phát
triển riêng không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Đây cũng là quyền thiêng liêng cơ bản
của mỗi dân tộc. Bao gồm: Quyền tự do độc lập về chính trị, quyền thành lập một
quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc chứ không phải xuất phát từ
mưu đồ lợi ích của một nhóm người nào đó. Và quyền tự nguyện liên hiệp với các
dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ
xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc.
Khi xem xét quyền tự quyết của dân tộc cần phải đứng trên lập trường giai
cấp công nhân, ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính
4
4
đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống âm
mưu thủ đoạn, lợi dụng chiêu bài dân tộc tự quyết để can thiệp vũ trang và áp bức
các dân tộc khác.
3. Liên hiệp công nhân giữa các dân tộc
Đó là sự đoàn kết của giai cấp công nhân các dân tộc trên toàn thế giới để
đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhằm hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đó là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh, nó
phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân. Điều đó xuất phát từ bản chất
quốc tế, tinh thần quốc tế vô sản của giai cấp công nhân giải phóng dân tộc mình
và giải phóng các dân tộc khác cùng cảnh ngộ; do chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư
sản trong các nước tư bản cấu kết nhau, bắt tay nhau chống lại phong trào công
nhân, phong trào cách mạng. Vì vậy, giai cấp công nhân phải đoàn kết liên hiệp lại
với nhau để đấu tranh chống lại chúng. Đoàn kết giai cấp công nhân giữa các quốc
gia dân tộc là nhân tố quan trọng để giải quyết các vấn đề dân tộc, đóng vai trò liên
kết cả 3 nội dung cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Tóm lại, Cương lĩnh dân tộc là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của
Đảng Cộng sản. Cương lĩnh dân tộc của Lênin đã có những tác dụng tích cực cho
các nước trong tiến trình cách mạng XHCN. Đó là cơ sở cho đoàn kết công nhân
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; đoàn kết giai cấp công nhân gắn với
phong trào giải phóng dân tộc giúp cho các nước bị thực dân, đế quốc xâm lược có
lối thoát trên cơ sở đó tạo điều kiện cho cách mạng vô sản ở các nước sớm nổ ra.
Đồng thời, cương lĩnh còn giúp cho các nước khi giai cấp công nhân và nhân dân
lao động giành được chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thực hiện
chính sách dân tộc phù hợp với cương lĩnh mà Lênin đã nêu ra.
5
5
Sự vận dụng cương lĩnh Lênin ở các nước XHCN trước đây đã tạo nên nhiều
thành tựu trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Tình trạng người bóc lột người bị
thủ tiêu, tình trạnh dân tộc này áp bức dân tộc khác dần bị xóa bỏ, nhiều dân tộc bỏ
qua trình độ lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu
lại phạm phải những sai lầm thiếu sót trầm trọng gây hậu quả tiêu cực nghiêm
trọng buộâc một số nước phải trả giá đắt. Song hiện nay ở một số nước XHCN,
các quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc đã và đang phục hồi phát triển.
II. Sự vận dụng Cương lĩnh dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Năm 1919 trong quá trình bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với bản Cương lĩnh dân tộc của Lênin. Từ đó người
đã sáng tỏ và tìm thấy một chân lý mới, chân lý mà sau đó đã giúp Việt Nam liên
tiếp chiến thắng hai đế quốc hùng mạnh Pháp và Mỹ.
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là vận dụng Cương lĩnh
dân tộc của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, xuất
phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt
Nam, Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập đã xem vấn đề dân tộc và xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng hàng đầu.
Việt Nam là một quốc gia độc lập, một quốc gia đa sắc tộc, với 54 dân tộc anh
em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 87%
trong tổng số dân cả nước. Trình độ phát triển về văn hóa xã hội giữa các dân tộc
có sự chênh lệch nhau. Đời sống kinh tế từng vùng khác nhau rất xa, từ đó dẫn đến
đời sống văn hóa, xã hội, chính trị … có sự cách biệt. Tuy nhiên do đặc thù về địa
lý, nên các tộc người Việt Nam đã sớm đoàn kết lại, hợp thành sức mạnh để chống
đỡ, khắc phục thiên nhiên và chống ngoại xâm. Từ đó đồng bào các dân tộc Việt
Nam luôn có truyền thống cách mạng, lòng tự hào dân tộc, yêu nước, yêu CNXH,
6
6
có ý chí khắc phục khó khăn, tự vươn lên để khẳng định mình. Đây là đặc điểm
bao trùm, nổi bật của dân tộc Việt Nam.
Tính xen kẻ đan xen giữa các tộc người khác nhau đã tạo nên nét văn hóa đa
dạng, phong phú trong lối sống, phong tục tập quán. Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ
riêng, một số dân tộc thiểu số có cả chữ viết riêng, nhưng đều lấy tiếng Việt làm
phương tiện ngôn ngữ giao tiếp thống nhất chung.
Do những đặc điểm trên, nên các dân tộc Việt Nam có sự hợp tác, gắn bó nhau
trong một cộng đồng dân tộc, trong một Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Song từ
xưa đến nay, vấn đề dân tộc luôn là vấn đề rộng lớn, phức tạp và lâu dài, cần phải
xem xét nó như là vấn đề chính trị, xã hội rộng lớn, toàn diện gắn liền với mục tiêu
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Xuất phát từ nhiệm vụ đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương
tạo ra một quan hệ mới giữa các dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa
song song với việc phát huy tiềm lực kinh tế ở các vùng đồng bào dân tộc ít người
và bảo tồn vốn văn hóa quý báu, đặc thù của các dân tộc và phát huy truyền thống
đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn xem vấn đề dân tộc
là vấn đề quan trọng có tính chiến lược, là yếu tố phát huy sức mạnh tổng hợp, khai
thác mọi tiềm năng của các thành phần dân tộc trong sự nghiệp cách mạng XHCN,
nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay trên tinh thần “đại đoàn kết dân tộc”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta xác
định: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó
mật thiết với sự phát triển chung của các cộng đồng dân tộc Việt Nam
Từ quan điểm trên, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là
phát triển mọi mặt về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, từng bước khắc phục dần
sự chênh lệch giữa các vùng đồng bằng, trung du, miền núi, để xây dựng và củng
7
7
cố mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở tôn trọng lợi ích,
truyền thống lịch sử , văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta thể hiện tập trung một số nội
dung, nhiệm vụ chủ yếu như: Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhằm khắc
phục tình trạng kinh tế tự cung tự cấp, mở rộng giao lưu hàng hoá, ổn định và từng
bước cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc ít người. Cụ thể là các chương trình
135, chương trình Xóa đói giảm nghèo; các chương trình điện, đường, trường, trạm
để phát triển giao thông giữa các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thuận lợi hơn,
đưa điện lưới quốc gia về tận các vùng đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi
cho con em và đồng bào dân tộc được khám chữa bệnh và đến trường… Chính phủ
đặt sự phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số trong quan hệ hữu cơ với các vùng
trong cả nước và trong quan hệ phân công lao động quốc tế là nhu cầu đòi hỏi
khách quan. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN phù
hợp với điều kiện, trình độ sản xuất nhằm khai thác tiểm năng thế mạnh của từng
vùng dân tộc, đặc biệt các vùng dân tộc ít người. Đổi mới chính sách đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển và xây dựng nông thôn mới; thực hiện vững
chắc công tác định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc miền núi; sắp xếp bố trí
lao động dân cư trên quy mô cả nước.
Chú trọng nâng cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa, tư tưởng và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ người dân tộc. Tôn trọng phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền
thống và bản sắc văn hóa các dân tộc.
Thực hiện chính sách đại đòan kết dân tộc, xây dựng cơ cấu xã hội giai cấp
mới, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi, làm tăng thên chất
lượng mới trong quan hệ giữa các dân tộc. Thực hiện dân chủ hoá xã hội giữa các
vùng dân tộc. Tránh mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, áp đặt một cách quan liêu
mệnh lệnh làm mất khả năng sáng tạo của quần chúng các dân tộc.
8
8
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước còn có chính sách đối ngoại về vấn đề dân
tộc. Với nội dung tư tưởng là: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên
thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, cả song
phương, đa phương, trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ
quyền và cùng có lợi. Đặc biệt, Việt Nam tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước trong khu vực trên tinh thần láng giềng thân thiện, cởi mở. Tham gia tích
cực vào tổ chức ASEAN, tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào nội bộï của
nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Đối với các quốc gia có những tộc người có
quan hệ với các tộc người ở Việt Nam thì thái độ của Việt Nam đúng mực, tôn
trọng phong tục, tập quán, thói quen, tín ngưỡng của các tộc người đó, nhưng phải
tuân thủ theo quy định của Pháp luật VN (như đồng bào Khmer ở Nam Bộ, đồng
bào Chăm, H’Mông ở Tây Nguyên…)
KẾT LUẬN
Kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và Cương lĩnh
dân tộc của Lênin nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra Chiến lược lâu dài về
vấn đề dân tộc. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, 54 dân tộc anh em trong
cộng đồng Việt Nam luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, yêu thương chống giặc ngoại
9
9
xâm và ngày nay đang cùng nhau ra sức xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, bất chấp âm mưu “diễn biến hòa bình”, chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch. Từ đó càng khẳng định cho chân lý sáng ngời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có
thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” –
2.
Nxb. Chính trị quốc gia - 2015
Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin” - Đại
học luật Tp.HCM – Nxb. Chính trị quốc gia
10
10
3.
4.
5.
6.
“Vấn đề dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội” - Trần Sửu
www.cpv.org.vn
www.voer.edu.vn
“Những nội dung cơ bản của triết học Mác - Lênin qua các tác phẩm
kinh điển” (Phần kinh tế học chính trị), Trường đại học Luật Hà Nội,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2001
11
11