MÔN: LUẬT LA MÃ CHUYÊN SÂU
1.
I.
Nguồn
Giới thiệu.
Hai mục đầu tiên của cuốn sách liên quan đến những điều khoản nhất định có thể khái
quát qua như là “nguồn luật”. Mặc dù chúng mô tả những hình thái riêng biệt của luật và các
nguyên tắc đạo đức chung, cơ bản của luật; Cũng như việc xác định các cơ chế đặc biệt cấu
tạo lên pháp luật. Việc nghiên cứu đầy đủ hơn và nhiều lý thuyết hơn trong cuốn “Institutes of
Gaius”(một trong những tác phẩm được viết bởi nhà luật học cổ điển trên các tập san, đặc biệt
là Ulpian).
Việc nghiên cứu đi từ những cái chung nhất đến những cái cụ thể. Chúng ta có được
những quy tắc đạo đức mà pháp luật cần phải cố gắng để thấy rõ được. Câu mở đầu của mục
đầu tiên tập trung vào tầm quan trọng của việc duy trì quyền cá nhân của một người, lấy
nguyên văn từ Ulpian (D.1.1.10 pr):
“Công lý là thứ không thể thay đổi, công nhận quyền của con người” (J.1.1.pr)
Trong bối cảnh hiện đại, tuyên bố này là một sự khẳng định thiêng liêng về nhân quyền.
Trong phạm vi của chuyên đề, nó phải đưa ra được nhiều giới hạn phạm vi trong quan điểm
thực tế rằng, trong số các quyền được bảo đảm bởi luật La Mã , một trong số đó là quyền giữ
người khác làm nô lệ.
Sau khi định nghĩa tổng quát của công lý, một lần nữa theo (D.1.1.10.1), những nguyên
tắc chính của hệ thống pháp lý nên được thi hành, đặc biệt là trách nhiệm không gây thiệt hại
cho người khác và trách nhiệm đền bù thiệt hại. Những nguyên tắc này là nên tảng của mọi hệ
thống các quy luật tự nhiên. Chúng được tìm thấy, ví dụ trong các tờ trình của St Thomas
Aquinas và Hugo Grotius.
Đoạn 4 mục 1 đã tăng sự khác biệt, mỗi phần tử trong số đó phải được hiểu từ nhiều góc
độ khác nhau. Khác biệt đầu tiên là sự phân biệt rõ luật công và luật tư. Đây là sự phân loại
toàn bộ các luật áp dụng trong đế quốc La Mã thành 2 loại quy tắc: Một là điều chỉnh các
quan hệ có yếu tố quyền lực công; hai là điều chỉnh các vấn đề cá nhân.
Các nội dung của luật công không được giải thích thêm. Trong đoạn của tập san phân
biệt đã được thực hiện(D.1.1.1.2), luật La Mã (Uipian) đã quy định rằng luật công bao gồm
tôn giáo, linh mục và các chức danh nhà nước. Luật tư được rút ra từ luật tự nhiên, luật quốc
tế và luật quốc gia. Thực tế, nó là sự thay đổi quan điểm không rõ ràng, bởi luật tự nhien và
luật quốc tế, không giống luật của quốc gia, không chỉ là một bộ phận hoặc nhiều bộ phận của
luật tư. Quan trọng hơn, nguồn từ các quy tắc của luật tư là từ đâu mà có. Chúng ta phải xem
xét chính xác xem ý nghĩa của nguồn là gì.
Đây là thời điểm thích hợp để giới thiệu sự khác biệt giữa các nguồn trong số lượng vật
chất, như đạo đức hoặc ý kiến chung của các nhà lập pháp hoặc thẩm phán giới thiệu các luật
mới (thông qua án lệ…) và nguồn trong ý nghĩa của các cơ chế, thủ tục thông qua các quy tắc
hợp lệ của luật trong hệ thống pháp luật, chẳng hạn như thủ tục cho việc ban hành một đạo
luật. Câu hỏi được đặt ra là, loại nào trong 3 luật của luật tư được tính là nguồn của luật.
Luật quốc gia không phải là một nguồn trong đó. Là một phần của luật tư rất phát triển
trong xã hội La Mã. Nói cách khác, luật tự nhiên và luật quốc tế dường có ít đặc trưng nhất
trong nguồn theo nghĩa đầu tiên. Mỗi cái có thể mô tả như một tập hợp các nguyên tắc mà
theo đó nhà nước có thể rút ra trong việc thiết lập, thông qua một thủ tục có liên quan, quy
định của công dân nước mình. Không thể là hạt giống của pháp luật, tuy vậy, nó được coi như
nguồn thứ 2 của luật, là thủ tục để giới thiệu luật mới trong hệ thống. Hệ thống luật La Mã
không xuất hiện tiêu chí xác định quy luật tự nhên hoặc các quy luật con người đã được xác
định hoặc cung cấp các quy tắc xác định để tạo thành một phần của hệ thống.
II.
3 thành phần của luật tư
Trong tiêu đề 2 của 3 luật cấu thành luật tư đã được làm sáng tỏ hơn. Một lời cảnh báo
sinh viên đến các chuyên đề lần đầu tiên là thích hợp. Mỗi thành phần của pháp luật có ý
nghĩa khác nhau, không phải tất cả trong số đó đều được đề cập cụ thể trong chuyên đề. Trong
bất kỳ điều khoản nào được thể hiện, ý nghĩa của nó phải được thu thập từ các bối cảnh cụ thể
mà nó đã được dùng.
a.
Luật tự nhiên
Câu mở đầu của đoạn, theo Ulpian, luật tự nhiên được xác định là những gì mà tự nhiên
dạy cho tất cả các giống loài (bản năng), chung sống và nuôi dạy con cái. Bỏ qua một điểm
được tạo ra bởi ulpian, mà cụ thể là sự phân biệt giữa luật tự nhiên và luật quốc tế đặt trong
thực tế rằng nó đã từng được áp dụng cho cả con người và động vật, sau này chỉ được áp dụng
cho con người. Chúng ta phải thừa nhận rằng, cả Ulpian và Justiana, ý nghĩa bản năng trong
luật tự nhiên đã đóng góp trong vấn đề hôn nhân của La Mã, một với chế độ một vợ một
chồng, nó còn góp phần trong việc xác định thân thế của đứa trẻ được sinh ra bởi người vợ.
Bản năng tự nhiên được thực hiện như một thói quen, hành vi không bị cưỡng chế hay quy
định bởi luật.
Đây không phải định nghĩa duy nhất của luật tự nhiên trong các tài liệu tham khảo. 2 tài
liệu tham khảo thêm về định nghĩa của pháp luật đã được thực hiện, từng vượt ra ngoài phạm
vi của định nghĩa đầu tiên. Trong đoạn 1, khi phân biệt giữa luật quốc tế và luật quốc gia,
Justiana, trong nghiên cứu của Gaius đã giải thích rằng :luật tự nhiên là lý do làm cho cả nhân
loại xử sự giống nhau ở mọi nơi trên thế giới. Luật tự nhiên và luật quốc tế đã tác động qua lại
với nhau và dẫn đến 1 thể thống nhất. Loài người ở khắp nơi được thiên nhiên ưu đãi với sức
mạnh lý luận, do đó, thông qua những lý luận đó, các quy tắc tương tự được hình thành ở mọi
nơi. Định nghĩa này cho rằng, người đàn ông không cần phải có chung địa vị, thêm nữa một
số quy định và thủ tục không cần thiết phải có lý do để ra đời. Tại sao Justiana lại chuyển từ
phiên bản luật tự nhiên dựa trên bản năng sang luật tự nhiên dựa trên lý luận.
Câu trả lời được đưa ra bởi bối cảnh mà phiên bản thứ 2 của luật tự nhiên ra đời.
Justiana đang nói về những quy định và phong tục được điều chỉnh bởi giai cấp thống trị. Luật
không chỉ bắt nguồn chỉ từ bản năng, vì chính còn bao hàm cả ý chí của giai cấp thống trị.
Hoạt động lý luận của con người cho phép thiết lập lên các điều luật. Giống như Gaius,
Justiana đưa ra khái niệm đàu tiên về lý luận trong giải thích của ông.
Cuổi cùng, gần cuối tiêu đề trong đoạn 11, Justiana đã đưa ra định nghĩa thứ 3 của luật
tự nhiên. Tuy vẫn còn ngụ ý rằng nó không thể phân biệt rõ ràng với luật quốc tế: nó được
cho là “nhận thức thống nhất của mọi người”. Nhưng 2 đặc điểm mới trong các tư liệu hiện
nay. Luật tư nhiên là “sắc lệnh của chúa và tồn tại mãi mãi”. Và bởi vì tự nhiên được ban
hành bởi chúa, nó không thể nào thay đổi. Con người không thể thay đổi những gì mà chúa
ban cho họ. Đình nghĩa này, được tìm thấy trong các tác phẩm của các nhà luật học cổ điển,
phản án thực tế rằng tôn giáo của đế chế la mã dưới thời Justiana là kito giáo. Bối cảnh đó
một lần nữ giải thích tại sao các chuyên đề vào thời đó đặc biệt dựa vào ý chí của giái cấp
thống trị. Xem xét vấn đề này, (cái mà luật quốc gia có thể thay đôi) nhắc nhở các nhà nghiên
cứu rằng pháp luật là ý chí của thần linh, và không thể nào thay đổi.
b.
Luật quốc tế (luật vạn dân/ luật áp dụng cho mọi quốc gia).
Ý nghĩa của cụm từ “ius gentium”(luật quốc tế) được làm sáng tỏ bằng phương pháp
tương phản với “ius civile”(luật quốc gia). Các liên kết của 2 luật này phản ánh mối liên kết
lịch sử, không còn phủ hợp trong thời của Justiana, cái được cho rằng có ý nghĩa đại diện cho
Gaius từ giá trị có được từ chuyên đề này của Justiana. Sự liên kết này đề cập một cách rõ
ràng. Giữ vững quan điểm đó, phần mở đầu của đoạn 1 đơn giản chỉ chia pháp luật tư nhân
thành 2 phần, xuất phát từ luật của quốc tế được thực hiện đồng nghĩa với luật tự nhiên, điều
đó được tạo thành bởi các quy tắc mà nhà nước tạo ra cho chính nó, quy tắc không cần phải
chia sẻ với dân tộc của các quốc gia khác.
Cuối đoạn 2 Justiana đã nói rằng chế độ nô lệ và gần như tất cả các hình thức của hợp
đồng đều xuất phát từ luật quốc tế. 2 điểm cần lưu ý về một vài tiền lệ khác nhau mà ông ấy
đưa ra. Đầu tiên là chế độ nô lệ , được ghi nhận bởi Ulpian trong D.1.1.1.4, là nó được đặt tên
cụ thể như thuộc về luật pháp nhưng không có trong luật tự nhiên (xem chương 2, phần II (mờ
đầu) dưới đây). Rõ ràng là luật tự nhiên ở đây đã được sử dụng dưới cách hiểu khác nhau từ
đó “các quy luật phải thuận theo tự nhiên” vì nó đã được đánh đồng với luật quốc tế. Một
cách giải thích cho những vấn đề “ trong quy luật tự nhiên, con người đều có quyền được sinh
ra” là định nghĩa ban đầu của luật tự nhiên rằng nó tồn tại trong tất cả muôn loài. Tuy nhiên
vẵn còn cái gì đó kỳ lạ trong thực tế rằng quyền được sinh ra là một hoạt dộng bản năng.
Thực tế ở đây ám chỉ quản điểm thứ tư của luật tự nhiên, lời giải thích tốt nhất cho một trạng
thái tự nhiên trong đó con người được tin là tồn tại trước quốc gia, chính phủ hay luật pháp.
Điểm thứ 2 là sự khác biệt giữa các bằng chứng. (Chiến tranh, bắt giữ, nô lệ) được nhắc
đến như một quy luật nhất định hoặc xảy ra như một sự thật hiển nhiên, phổ biến. Nhưng một
số khác (hợp đồng mua bán cho thuê, hợp tác, tiền gửi và cho vay) xuất hiện, là quy định đầu
tiên mà nhà nước La mã tự thiết lập lên. Rất khó để cho rằng tất cả các nước có cùng một quy
định để điều chỉnh các hợp đồng cụ thể như La Mã. Tuy nhiên, đề cập đến các loại hợp đồng
như một ví dụ về luật quốc tế có thể bào chữa cho các vấn đề tương tự như tổ chức bán hàng,
thuê, hình thành quan hệ đối tác, cho vay, gửi tiền có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi. Mặc dù vẫn
có sự khác biệt khi đi vào chi tiết.
Một yếu tố khác cũng có thể giải thích cho bao gồm hợp đồng được lấy làm tiền lệ cho
luật quốc tế. Đây là chuyên môn và quan điểm trước đây của ius gentium trái ngược với ius
civile. Ban đầu, tiền lệ tại thời điểm luật mười hai bản khoảng 450 năm trước công nguyên,
pháp luật của La Mã (ius iuscivile) xuất phát từ các quy định hoặc phong tục và chỉ được áp
dụng cho người La Mã. Sau này, khi nhà nước mở rộng và các công dân La Mã bắt đâu giao
thương với các thương nhân nước ngoài, nó trở lên cần thiết để đặt ra các quy định thích hợp
có thể áp dụng lên các giao dịch có liên quan tới người nước ngoài. Ít ai biết được quá trình
thực tế, được các pháp quan tạo ra trước hay sau năm 242 trước công nguyên, bởi các quy
định được đưa ra để tạo thuận lợi cho các giao dịch giữa công dân và người nước ngoài. Một
số quy định và thủ tục đã được tạo ra từ những người nước ngoài có mối quan hệ giao thương
với người La Mã, đặc biệt là người Hy Lạp, nhưng có vẻ như, trong toàn bộ các quy định
được đưa ra, có một số đã được người nước ngoài sử dụng rộng rãi trong xã hội. Những quy
định này đã trở lên phổ biến, trong sự hiểu biết đơn giản của họ và thiếu đi yêu cầu chuyên
môn tất yếu, được áp dụng cho người nước ngoài và sau đó xuất hiện trong các sắc lệnh của
các pháp quan nước ngoài. Vì dụ, hợp đồng mua bán, thuê, hợp tác, cho vay, tiền gửi đã phát
triển đẻ áp dụng bởi các công dân trước khi họ thực hiện giao dịch giữa họ và người nước
ngoài. Những quy định này bao gồm trong các sắc lệnh của các pháp quan nước ngoài được
coi như luật quốc tế với ý nghĩa rằng nó có thể áp dụng cho mọi đăt nước, mà không chỉ là
người La Mã. Vì vậy, nó thích hợp để trích dân như một ví dụ điển hình của luật quốc tế ở
phạm vi rộng, nhiều hơn các quan điểm lý thuyết suông.
c.
Luật quốc gia (luật quốc nội)
Ý nghĩa cốt lõi của cụm từ “luật quốc gia”(ius civile) là những nghiên cứu trong tập san
của Gaius và Justiana, cụ thể là luật pháp mà mỗi nước tự thiết lập cho chính mình đều có đặc
thù riêng. Nội dung của khái niệm đã thấy được sự mở rộng quan trọng trong dòng chảy của
thời gian. Như chúng tôi đã lưu ý, các quy định đặc thù của nhà nước La Mã ban đầu được bắt
nguồn từ đạo luật hoặc phong tục và chỉ được áp dụng cho công dân La Mã. Với việc mở
rộng dần dần của các thành phố nhỏ và sự phức tạp ngày càng tăng của hệ thống pháp luật,
Luật áp dụng trong La Mã được bắt nguồn từ các nguồn đa dạng, bao gồm sắc lệnh của các
pháp quan nước ngoài và các pháp quan thành thị. Do đó, trong một quan điểm của các pháp
quan nước ngoài được chỉ là một phần của các luật đặc thù của nhà nước. Về mặt chuyên môn
vẫn còn lại một số cơ sở pháp lý chẳng hạn như sự chuyển nhượng bởi quyền sở hữu tài sản
được chuyển giao (xem chương 3, phần III b bên dứới) hoặc hứa hẹ bởi sponsio (xem chương
5, mục III a dưới đây) chỉ mở của cho công dân La Mã. Các thể chế như vậy được coi là “luật
của nhà nước” trong khi các thể chế khác, chẳng hạn như sự chuyển nhượng bởi các lệnh đơn
giản (traditio, xem chương 3, phần III dưới đây) và hầu hết các loại hợp đồng (xem chương 5,
phần II-V dưới đây), được coi là “pháp luật quốc tế” với quan điểm cho rằng họ đã mở cửa
cho cả người dân và người nước ngoài. Sau sự mở rộng của quyền công dân trong đế chế bởi
hiến pháp của hoàng đề Caracalla ( năm 211 -17 sau công nguyên), năm 212 sau công nguyên
thì quy định này hết hiệu lực.
Một sự khác nhau nữa được thực hiện bởi các nhà luật học cổ điển , mặc dù không đề
cập trong tập san, là giưa pháp luật và sắc lệnh của quan tòa (xem phần III d bên dưới). Đây là
sự khác nhau dựa trên nguồn gốc của luật, điều đó cấu tạo lên luật quốc gia theo nghĩa rộng.
Một số quy định bắt nguồn từ đạo luật và tục lệ (luật của quốc gia theo nghĩa hẹp), những
nguồn còn lại được đóng góp từ sắc lệnh của thẩm phán, hoặc ius honorarium trái ngược với
ius civile. Điều khoản thứ 2 của nó trong bối cảnh này được hiểu là bao gồm không chỉ các
quy tắc bắt nguồn từ đạo luật và phong tục, mà còn từ các quan điểm của học giả, nghị quyết
của Thượng viện hoặc sắc chỉ của hoàng đê).
III.
Nguồn của Luật thành văn
Trong tiêu đề 2, đoạn 3, Justiana đã lần lượt xem xét quá trình luật tư được hình thành.
Ông ấy nghiên cứu tương tự như Gaius, với ngoại lệ là ông ấy đa phân biệt cơ bản luật thành
văn và luật bất thành văn. Các nguồn cụ thể nêu ra tại đoạn này chỉ liên quan đến luật thành
văn, luật băt thành văn hoặc phong tục tập quán được thảo luận vắn tắt trong đoạn 9 và đoạn
11. Nguồn của luật thành văn được Justiana xác định tương ứng với của Gaius, nhưng khác
nhau từ những gì đề cập đến bởi luật gia cổ điển Papinian, người có các báo cáo được bảo tồn
trong bản tóm tắt luật(D.1.1.7). Chúng ta đã lưu ý về sự tương phẩn giữa luật quốc gia (ius
civile) và luật quốc tế (ius gentium) trong quan điểm chuyên môn của luật áp dụng riêng cho
công dân La Mã và luật áp dụng cho cả người nước ngoài. Papinian đã lợi dụng mối liên hệ,
mặc dù vẫn còn sự khác nhau trong cách phân loại của ông về nguồn luật. Ông ấy đã mỗ tả
luật quốc gia là luật bắt nguồn từ hành vi, quy chế bình dân, nghị quyết của thượng viên, sắc
chỉ của hoàng đế và câu trả lời của các nhà luật học. Đây là điều tương phản với pháp quan
hoặc luật của quan tòa, có nghĩa là, các quy định được giới thiệu trong các sắc lệnh của quan
tòa, mục đích của nó là sửa đổi và bổ sung luật dân sự vì lợi ích chung. Justinian, người mà
phân biệt cụ thể giữa luật dân sự và luật của quan tòa chiểm hữu không quan trong, đã chọn
nghiên cứu của Gaius với danh sách các sắc lệnh của quan toàn cùng với các hành vi, quy chế
bình dân, nghị quyết của thượng viên và sắc chỉ của hoàng đế và câu trả lời được coi như
nguồn của luật tư. Chúng tôi sẽ xem xét lần lượt từng vấn đề.
a.
Đạo luật.
Hành vi và các đạo luật bình dân (hoặc cuộc bỏ phiếu toàn dân) được coi như là nguồn quan
trọng và chủ yếu của pháp luật trong thời kỳ cộng hòa. Cả hai đều là đạo luật được ban hành
bởi hội đồng La Mã, nhưng các thành phần của hội đồng lại khác nhau có thể ban hành những
đạo luật khác nhau. Một số có thể được ban hành bởi 1 hội đồng chính thức gồm những người
đàn ông có đặc quyền gồm cả giới quý tộc và thường dân. Hai hội đồng với quyền hạn làm
luật khác nhau là Hội đồng quý tộc La Mã và Hội đồng nhân dân. Hội đồng quý tộc đóng vai
trò quan trọng trong việc ban hành pháp luật. Cả 2 đều là những nhóm người. Hội đồng quý
tộc gồm khoảng 100 người, toàn những người giàu có, và hồi đồng nhân dân là những nhòm
người được bầu từ các quận. Mỗi đơn vị có một phiếu biểu quyết bởi đa số các thành viên.
Phụ nữ không được tham gia nhưng con trai đã trưởng thành của họ có đủ điều kiện và thẩm
quyền tham gia. Điều quan trọng nhất cần lưu ý rằng hội đồng không có quyền ban hành pháp
luật. Nó chỉ có thể bỏ phiếu về một quy định được đưa ra bởi thâm phán có thẩm quyền. Chức
năng của nó là phê chuẩn hoặc bác bỏ dự thảo mà không có quyền sửa đổi. Chỉ những thẩm
phán cấp cao, quan chấp chính tối cao hoặc pháp quan mới có quyền đề xuất luật cho Hội
đồng quý tộc, ngoài ra các quan thị chính có thể đề xuất luật cho hội đồng nhân dân.
Ngoài ra còn tồn tại một hội đồng toàn dân tộc được gọi là Viện nguyên lão mà thành viên là
những người đàn ông được tổ chức thành các nhóm mà không cần biết rõ giai cấp. Đây là hội
lâu đời nhất, nhưng không xuất hiện để ban hành pháp luật như các hội khác. Hội này có vai
trò trong một số đạo luật của luật tư (như luật nuôi con nuôi) và một số quy định quan trọng
của hiến pháp, giảm đi các thủ tục mà các quan chấp chính tối cao dùng để thực hiện quyền
lực của mình (luật quy định các quyền cao hơn tòa để nắm giữ quyền lực của các quan chấp
chính). Đây là một phần được coi là đã đóng góp một phần trong nỗ lực hợp pháp hóa quyền
làm luật của các hoàng đế (Xem mục c bên dưới).
Đạo luật bình dân được ban hành bởi một hội đồng duy nhất trong các bộ lạc. Bầu cử bởi các
nhòm như trong các hội đồng khác nhưng quan tòa chỉ có thẩm quyền đặt ra một đề nghị
trước khi dân thường bầu ra người đại diện của riêng họ. Vì các quý tộc không phải thành
viên của hội đồng, đã có e ngại rằng họ có bị ràng buộc bởi các quy định này hay không.
Những e ngại này đã được giải quyết bời Luật Hortensian vào năm 287 trước CN, theo đó,
miễn là nghị quyết của hội đồng nhân dân thì được áp dụng với toàn dân. Sau đó hội đồng
nhân dân là hội đồng được sử dụng rộng rãi nhất cho việc ban hành pháp luật. Trong số các
biện pháp của nó là đạo luật Aquilian năm 287 trước CN, nó đã đặt nền tảng cho luật về thiệt
hại tài sản (xem chương 5, mục X d bên dưới).
b. Nghị quyết của Thượng Viện.
Trong chế độ công hòa thường thì thượng viện không xây dựng pháp luật, mặc dù nó có vai
trò ảnh hưởng trong quá trình đề xuất của các quan chấp chính tối cao, pháp quan hoặc quan
thị chính trở thành luật. Cân có sự đồng ý của thượng viên trước khi các quan tòa có thể đề
xuất luật tới hội đồng quý tộc và hội đồng nhân dân, và thượng viên có thể chỉ thị cho thẩm
phán đề xuất việc ban hành luật. Những thực tế thượng viện đã không giành được quyền lập
pháp cho đến thời đại đế chế La Mã. Hoàng đế Augustus (năm 27 trước CN – năm 4 sau CN)
và người thừa kế của ông đã ngay lập tức tìm cách bảo tồn những giải định để chế độ cộng
hòa còn tồn tại, và họ không tự nắm quyền lập pháp một cách chính thức. Tuy nhiên, Hoàng
đế đã tìm ra một số phương pháp để ý định của họ có thể trở thành luật. Các hoàng đế đã tìm
ra 2 cách để tác động đến quá trình lập pháp. Một là sự hồi sinh của những hội đồng nhân dân
cũ đã không còn thích hợp trong suốt những thập niên nổi loạn của nền cộng hòa. Các hoàng
đế trong khả năng của mình như các quan chấp chính tối cao hoặc các học giả có thể đề xuất
luật bất cứ khi nào ông thấy thích hợp. Thủ tục này không được biết đến cho đến khi khi kết
thúc thế kỷ đầu tiền SCN. Cách khác được ưa chuộng hơn là việc Hoàng đế thực hiện một bào
phát biết trước Thượng viện yêu cầu thượng viện phê duyệt sự sửa đổi luật. Các thượng nghị
viên không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc hướng dẫn các thẩm phán chèn vào sắc lệnh
(xem mục d) những yêu cầu thay đổi của hoàng đế. Trong một thời dài, đã có sự mâu thuẫn
đến quyền lập pháp độc lập của thượng viện. Cách nà đã không thực hiện được cho đến thời
của hoàng đế Hadrian ( 117 – 38 SCN) trong nửa đầu thế kỷ thứ 2. Gaius, người đã viết
nghiên cứu của ông ấy vào giữ thế kỷ đó, liệt kê các nghị quyết của thượng viện như là nguồn
của luật, nhưng nói thêm rằng có một số nghi ngại(G.1.4). Vì những quy định cuối cùng được
coi là luật không phải là nghị quyết của thượng viên, nhưng những bài phát biểu về dự thảo
luật của hoàng đế lại được thông qua. Một khi các hoàng đế đẫ được chuẩn bị để nắm quyền
lập pháp trực tiếp thì việc tồn tại thượng viện là không còn cần thiết nữa. Thượng viên đã
không hoạt động vì mục đích này cho đến sau khi kết thúc thế kỷ thứ 3.
c. Sắc chỉ của Hoàng đế.
Vào thời của Hadrian, việc vờ như hoàng đế không có quyền lập pháp đỡ bị dỡ bỏ. Điều này
đặt ra một vấn đề cho các nhà luatajhocj. Trừ khi hoàng đế bị coi là bạo chúa, một số sự biện
hộ cho quyền lập pháp của họ đã được tìm thấy. Các luật gia cổ điển tìm thấy sự biện minh
này trong giả thuyết rằng người dân đã chuyển giao quyền lập pháp cho hoàng đế mà nó đã
được giữ từ khi trục xuất các vua trong năm 509 TCN. Trong đoạn 6 của Justiana có đoạn,
nhận xét Umpian (D.1.4.1pr) rằng quyết định của hoàng đế có hiệu lực là một đạo luật vì
những đạo luật vua chúa đã ban trên tất cả luôn có quyền lực và thẩm quyền riêng của nó. Sự
đánh giá này xây dựng lên 2 quyền lợi đặc thù. Có thể hành động bằng cách chuyển giao
quyền lực của hoàng đế và tại sao cả Ulpian và Justiana đều cho rằng nó có đủ điều kiện để
trở thành nguồn luật.
Các đạo luật có liên quan đến việc trao hàng loạt quyền cho hoàng đế Vespasian (69-79
SCN). Mặc dù những quyền này vẫn không bao gồm quyền lập pháp. Các chứng thư cũng đã
nói rằng các quyền tương tự cũng đã được trao cho những người tiền nhiệm của hoàng đế
Vespasianus. Có khả năng nó mô phỏng lại những đạo luật của hội đồng dân tộc với việc
thông qua quyền hành pháp của các quan tòa cấp cao. Giả thiết giải thích về quyền lập pháp là
bởi các hoàng đế đã thấy rõ từ thực tế rằng đó là quyền lực tốt nhất không bao giờ bị chuyển
giao bởi con người.
Giả thiết cho rằng nó có vai trò rất lớn nếu chúng ta có thể dự tính được tầm quan trọng của từ
ngữ, thứ sức mạnh có thể chuyển giao bởi tên gọi. Những từ này có thế được sử dụng chỉ bời
những đạo luật liên quan đến quyền lực của hoàng đế. Nhưng những từ này cũng có thể hiểu
theo những nghĩa khác nhau, cụ thể là trong hiệu lực của các chiếu thư chuyển giao quyền lực
của các vị vua trước đó. Đạo luật của hội đồng dân tộc liên quan đến quyền lực của các quan
chấp chính tối cao được xem như sự kế thừa từ những đạo luật của vị vua trước đó mà người
dân đã chính thức phê chuẩn quyền lực đó của nhà vua. Những gì Umpian và Justiana suy
nghĩa, được phản ánh trong việc dùng từ “vua chúa”, là việc đặt các hoàng đế vào thời kỳ lịch
sử lâu dài, bắt đầu thời kỳ vua chúa và đặc trưng bởi việc chuyển giao quyền lực giữa người
này đến người kia bởi luật. Bằng cách này, việc thực thi quyền lập pháp của hoàng đế được
cho phép.
Pháp luật được ban hành bởi hoàng đế qua rất nhiều hình thức, quan trọng nhất trong đó được
liệt kê trong đoạn 6. Điểm cơ bản cần lưu ý là hoàng đế khi thực hiện quyền lập pháp của
mình thường tham khảo ý kiến của các cận thần thân tín, nhiều người trong số họ là những
luật sư có trình độ cao. Các hoàng đế đã đảm trách thành công nhiệm vụ, trở thành quan tòa
của chính quyền cộng hòa. Họ có quyền ban hành các sắc lệnh trong đó tuyên bố các quy định
có thể áp dụng chung cho toàn dân. Ví dụ như sắc lệnh của Caracalla vào năm 212 SCN đã
trao quyền công dân cho toàn bộ dân trong đế chế. Như một thẩm phán tối cao, Hoàng đế có
thể tham dự cả phiên sơ thẩm và phúc thẩm. Quyết định của hoàng đế được coi là bắt buộc
với tất cả các bên trọng vị án, nhiều trường hợp được coi là tiền lệ để giải quyết các vụ án
tương tự. Các hoàng đế cũng cung cấp các câu trả lơi bằng văn bản (trát) khi bị giáo hội hoặc
các nhân chất vấn. Câu trả lời của hoàng đế có 2 hình thức phụ thuộc vào nguồn gốc của các
chất vấn. Nếu giáo hội gửi văn bản đề nghị hướng dẫn hoặc vì các đặc quyền cụ thế, câu trả
lời sẽ có mẫu của lá thư riêng. Các cá nhân thỉnh cầu sự đặc ân của pháp luật không thể gửi
thư cho hoàng đế, nhưng phải đệ trình lên hoàng đế một bản kiến nghị. Câu trả lời của hoàng
đế sẽ được thêm vào ở cuối đơn. Nhiều điểm quan trọng của luật tư đã được quyết định theo
cách này. Justiana đã không đề cập đến các nhiệm vụ của hoàng đế. Hoàng đến có nhiệm vụ
hướng dẫn các thủ tục hành chính đến các quan chức của mình, thường đến các tỉnh trưởng,
với các điều lệ toàn điện cho chính quyền các tỉnh. Đôi khi nguyên tắc quan trọng của luật tư
đã được đưa ra như quy tắc mà một người lính có thể để lại di chúc trong bất cứ hình thức nào
mà không cần phải theo các hình thức thông thường (xem chương 4, phần II a bên dứới).
Trát và phán quyết của hoàng đế đã dẫn đến một vấn đề nghiêm trọng mà Justiana đã ghi chép
trong đoạn 6. Về lý thuyết thì luận điểm này rất rõ ràng. Đôi khi trát hay phán quyết chỉ được
áp dụng đến các bên trong các vụ án cụ thể, nhưng đôi khi đế tăng sức ảnh hưởng, để ràng
buộc tất cả mọi người, Justiana nói. Khó khăn thực tế là nó thường không rõ ràng mục đích
thu được từ các lệnh hoặc phán quyết cụ thể. Nó dường là một khuynh hướng dễ hiểu để giải
quyết bất cứ quyết định nào áp dụng xuống luật chung. Thời kỳ hậu cổ điển (thế ký 4-5 SCN)
đặc biệt đã cho thấy một số lượng đáng kể các quy định nhằm ngăn chặn các hành vi trái pháp
luật mà ban đầu các lệnh hay phán quyết này chỉ được đưa ra để áp dụng trong các trường hợp
cụ thể.
d. Sắc lệnh của tòa.
Các sắc lệnh của tòa đã đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển của pháp luật khi mà
hệ thống nghiêm ngặt và cứng rắn của việc tố tụng (legis actiones) dần dần được thay thế bởi
hệ thống fomulary trong thế thử 3 và thứ 2 TCN (xem chương 6, phần II bên dưới). Điểm cốt
yếu là các thẩm phán trong hệ thống fomulary có quyền quyết định xem liệu một cá nhân có
lý do chính đáng hoặc hành vi tự vệ. Thẩm phán nên xác định nguyên nhân của hành động,
các biện pháp khắc phục hoặc chứng cứ chứng minh hành vi. Vào năm đầu tiên của nhiệm kỳ,
mỗi thẩm phán sẽ ban hành một sắc lệnh trong đó tuyên bố những căn cứ bồi thường hoặc cho
phép bào chữa. Mặc dù thẩm phán có phạn vi ý thức trong việc thực thi quyền hạn của mình
và bất cứ lúc nào cũng có thể bắt đầu quy định bồi thường và bào chữa, họ thường có xu
hướng chấp nhận và thực hiện những sắc lệnh của người tiền nhiệm, bản thân họ không phải
là các luật sư, dựa vào sự tự vấn của các luật gia (xêm mục e dưới đây), những người này
được coi là đã gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của pháp luật.
Theo con đường này, một cơ chế ổn định và hợp nhất của pháp luật đã được thiết lập. Sắc
lệnh quan trọng nhất là của pháp quan đô thi, người có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
giữa các cư dân La Mã và có vai trò cơ bản trong sự phát triển to lớn của luật tư La Mã thông
qua sự điều chỉnh biện pháp khắc phục của họ. Các pháp quan nước ngoài trong thời cổ La
Mã, người có thâm quyền trong các trường hợp có yếu tố nước ngoài, cũng đã ban hành một
số sắc lệnh. Mặc dù nội dung của các sắc lệnh này ít được biết đến, nó chắc chắn cũng đã ảnh
hưởng đến sự pháp triển của luật bán hàng và các loại hợp đồng khác tạo thuận lợi cho giao
dịch. Gần như chắc chắn sự ảnh hưởng qua lại giữa đô thị và các sắc lệnh nước ngoài. Cuối
cùng là quan thì chính La Mã, người có thẩm quyền đối với chợ và đường phố, sắc lệnh liên
quan đến buôn bán nô lệ và động vật trong chợ, và xa hơn là đặt ra các trách nhiệm pháp lý
cho những thiệt hại gây ra bởi chó hoặc các loài vật hoang đương thả rông ở nơi công cộng.
Sắc lệnh được vận hành như một nguồn của luật dưới sự điều chỉnh của thẩm phán trong 2 thế
kỷ cuối cùng của nhà nước cộng hòa. Trong thời gian này, họ đại diện cho phượng tiện chính
cho sự phát triển của pháp luật. Với sự bắt đầu của đế chế, sự thay đổi vẫn có thể tạo ra sắc
lệnh, nhưng chỉ với sự chấp thuận của hoàng đế, được thể hiện dưới hình thức một nghị quyết
của Thượng viện. Khoảng năm 130 SCN, luật gia Junian dưới sự hướng dẫn của hoàng đế
Hadrian để củng cố sắc lệnh của các phán quan thành thị và tổng hợp cuối cùng. Từ đó, không
cho phép những thay đổi và sắc lệnh đã không còn là một cơ chế để bắt đầu quy định mới của
luật. Sắc lệnh của pháp quan nước ngoài và vị trí tương đương quan thị chính đã được tiêu
chuẩn hóa bởi Julian, sau đó không có khả năng thay đổi.
e. Quan điểm của các học giả.
Khi xem xét các công việc và ảnh hưởng của các luật gia, những người đã tập hợp các đặc
tình để tạo lên luật tư La Mã trong ba thế kỷ đầu công nguyên, chúng ta làm rõ giữa loại tôn
trọng những gì họ viết hoặc lời khuyên của họ. Chúng ta phải phân biệt giữa “thẩm quyền”
với ý nghĩa “sự tôn trọng hoặc tầm ảnh hưởng” hoặc “thẩm quyền” với ý nghĩa “ các quy định
được công nhận trong hệ thống luật”. Rõ ràng là các luật gia có ảnh hưởng to lớn và đóng vai
trò quan trọng trong sự phát triển của pháp luật thông qua những lời khuyên mà họ cố vấn cho
quan tòa và hoàng đế, thông qua ý kiến họ về pháp lý của cá nhân họ, thông qua sự tôn trọng
với những gì họ viết. Nhưng nó là một câu hỏi khó và gây nhiều tranh cãi cho dù hệ thồng
pháp luật La mã có chứa một tập hợp các quy định hoặc tất cả các câu trả lời pháp lý đã được
coi như có giá trị luật. Câu trả lời cho câu hỏi liên quan đến bản chất của “quyền trả lời” mà
Justiana đã đề cập ở đoạn 8. Từ sự giải thích của Justiana, chúng ta có thể suy ra rằng luật gia
tán thành “quyền trả lời” bởi hoàng đễ cho họ quyền xây dựng lên các quy định pháp luật.
Nhưng để hiểu chính xác đoạn này của Institutes phụ thuộc vào sự đánh giá của lịch sử, 1 vấn
đề chưa được làm rõ.
Trước thời của Augustus (27 TCN -14SCN), ý kiến của các luật gia không thực sự đc coi
trọng. Luật gia có được coi trọng hay không còn phụ thuộc vào đại vị của họ. Augutus bắt đấu
một số thay đổi quan hệ pháp lý của câu trả lời của các luật gia và xa hơn là thay đổi Hadrian.
Nhưng sự chính xác của tàn tích tự nhiên này vẫn còn là 1 bí ấn vì 2 văn bản trong giai đoạn
này không đủ chính xác. Luật gia Pomponius (cùng thời với Gaius), trong quá trình khảo sát
chung về lịch sử pháp luật, nói rằng trước thời Augustus, cá nhân các luật gia không có quyền
đưu ra ý kiến trước công chúng. Tuy nhiên, thời Augustus, pháp luật có quyền cao hơn với
điều kiện ý kiến đó được đưa ra dưới hình thức có con dấu với quyền hạn của mình. Sau đó
các đặc quyền đã bắt đầu được thỉnh cầu. Hadrian còn được trích dân là đã có một số phán
quyết về quyền trả lời, những không rõ ràng từ các báo cáo có phần bị cắt xén trong những
văn bản vẫn còn tồn tại của Pomponius.
Bằng chứng thứ 2 được cung vấp bởi Ganius trong Institues. Phần đầu tiên của văn bản, theo
Justiana, xác định câu trả lời của luật gia như ý kiến của người được giao nhiệm vụ xây dựng
pháp luật. Rồi đến một tuyên bố quan trọng về tầm ảnh hưởng của họ, khi họ có ý kiến đồng
ý, quy định sẽ có hiệu lực pháp luật. Mặt khác, nếu họ không đồng ý, thẩm phán sẽ tự quyết
định. Ý kiến pháp lý tuân thủ hiệu lực của pháp luật sẽ tương trưng cho trát của hoàng đế
Hadrian.
Vấn đề pháp sinh từ hai văn bản đó là :1 quyền trả lời được trao bởi Augustus ban cho có ràng
buộc pháp lý khi những ý kiến của luật gia có thẩm quyền. 2 ý kiến pháp lý tác động đến
những sắc lệnh mà Harian đã ban chỉ có hiệu lực trong những trường hợp cụ thể, hay nó có
hiệu lực rông hơn và tạo tiền lệ cho tương lại, thậm chí là liên kết các ý kiến phù hợp được
tìm thấy trong các tác phẩm luật học. Và 3 mối quan hệ giữa sắc lệnh của Harian có đặc quền
gì qua Augustus. Vẫn chưa có sự thống nhất của các học giả về câu trả lời cho những câu hỏi
này. Một số chấp nhận quan điểm rằng, Augustus, ban quyền trả lòi công khai về luật gia
được lựa chọn không được nhiều hơn sự cho phép luật gia đưa ra ý kiến để nâng cao uy tín
của mình. Một thẩm phán hoặc một quan tóa phải nghe ý kiến từ luật gia, bởi vì nó đã được
sự chấp thuận của hoàng đế. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật các ý kiến đó không bắt buộc các
thẩm phản phải làm theo, vì bản thân nó không có giá trị pháp luật. Quan điểm này có vẻ
đúng ở một mức độ nhất định, bỏi vì không có một vản bản rõ ràng nào nói Augustus ban
hành hiệu lực pháp luật lên ý kiến của các luật gia được tuyển chọn. Và tự bản thân ông ấy
cũng thừa nhận rằng hoàng đế không có quyền lập pháp.
Chống lại quan điển này một cách mạnh mẽ là quan điển Augutus dùng quyền lực để ảnh
hưởng tới ý kiến các luật gia có đặc quyền. Các bài nghiên cứu học thuật đã đưa ra nhiều đánh
giá khác nhau. Một só người cho rằng Hadrian lần đầu tiên quy định về ràng buộc pháp lý với
những ý kiến mà luật ra đưa ra, với điều kiện là nó chỉ liên quan đến những vụ án cụ thể mà
họ đưa ra. Hadrian cũng quy định rằng luật gia chịu sự ràng buộc pháp lý với những ý kiến
mà họ tán thành.
Quan điểm được chấp nhận ở đây là Augutus ban cho các luật gia được quyền đưa ý kiến
nhiều hơn là việc chỉ dựa vào sự phê chuẩn của ông ấy. Nó hợp lý hơn nghiên cứu của Gaius
về sắc lênh của Hadrian rằng, trước thời Hadrian, ý kiến của các luật gia ở một khía cạnh nào
đó có liên kết. Từ lời nói của Gaius, dường như Hadrian đã lần đầu tiên điều chỉnh quan điểm
đã trở lên bắt buộc thành các nguyên tắc ràng buộc. Cũng không dễ dàng để nhìn thấy sự can
thiệp của Augutus trừ khi ông ấy liên kết ý kiến của các luật gia nổi tiếng nhất định.
Nếu chúng ta giả định rằng Augutus đã biến ý kiến của các luật gia bào chữa trở lên ràng buộc
với thẩm phán hoặc quan tóa trong trường hợp cụ thể, nó thật hợp lý để giải định rằng giữa
thời Augutus và thời Hadrian, hơn 1 thế kỷ sau, các thay đổi khác xảy ra, hoặc là được sự ủy
quyền của hoàng đế hoặc chỉ là vấn đề thủ tục. Các quan điểm bào chữa được luật gia đưa ra
cho một trường hợp đã được trích dẫn thành tiền lệ và áp dụng cho các vụ án tương tự. Thậm
chí có lập luận còn cho rằng bất cứ hình thức thể hiện quan điểm nào của luật gia cũng đều có
hiệu lực bắt buộc. Đến thời của Hadrian, một số quy định trở lên lộn xộn. Thẩm phán hoặc
quan tòa phải đối mặt với những quy định trái ngược nhau những lại có tính bắt buộc., bởi vì
nó được đưa ra bởi những luật gia có “quyền trả lời”. Thẩm phán hoặc quan tòa phải chọn quy
định nào giữa chúng? Hoàng đế đã xác nhận rằng các quy định đều mang tính bắt buộc nếu
được ông chấp thuận. Và cho thẩm phán hoặc quan tòa quyền lựa chọn có áp dụng những quy
định này hay không.
Hầu như không có thông tin trong các nguồn về việc luật gia được thừa nhận quyền trả lời.
Chính quyền Pompinius cho rằng, Sabinus, một trong những luật gia có tầm ảnh hướng lớn
nhất trong thế kỷ thứ 1, nhận được quyền trả lời từ hoàng đế Tiberius (14-37 SCN). Không có
luật gia nào khác được xác nhận rằng đã nhận được được quyền này, từ góc nhìn chung thì có
những văn bản về những vấn đề phát sinh từ những ý kiến pháp lý. Chúng ta có thể phỏng
đoán rằng, dưới thời Gaius, trong bất kỳ trường hợp nào, thì hầu hết các luật gia nổi tiểng đều
có một số quyền như vậy. Chúng ta cũng có thể phỏng đoán rằng, có khi nào đây mục đích
ban đầu của Augustus? mọi ý kiến chính thức của các luật gia với quyền trả lời đều có tính
ràng buộc pháp lý.
Dù bản chất chính xác và tình lịch sử của quyền trả lời, thời đại sau này đã coi những tác phẩn
của các nhà luật học cổ điển như “một kho tài liệu” đã xây dựng lên pháp luật. Bất cứ quan
điểm nào được đưa ra bởi người có thẩm quyền đều có hiệu lực bắt buộc. Tuy nhiên, mức độ
ràng buộc chỉ mang tính tương đối, bời vì số lượng quá lớn các tài liệu pháp lý dẫn đến sự
khác nhau giữa các quan điểm. Điều này đưa ra vấn đề rằng, ý kiến của các luật gia có nên có
thẩm quyền lớn hơn để làm hòa hợp các mâu thuẫn. Vấn đề này đã được giải quyết bởi “Luật
trích dẫn” được ban bố bởi vua Theodosius II (408-50 SCN) vào năm 426 SCN. Năm trong số
các nhà luật học đã được xác định là sở hữu những tác phẩm có quyền lực lớn nhất. Nên đã có
một cuộc xung đột xảy ra giữa họ, và số đông đã thắng thế. Trong trường hợp những ý kiến
trên có số phiếu 2 bên cân bằng nhau, bên nào nhận được sự ủng hộ của luật gia Papinian sẽ
chiến thắng. Mặc dù có rất nhiều ý kiến được cung cấp để xây dựng văn bản luật, “luật trích
dẫn” đã thiết lập một chế độ tiền lệ không khác nhiều so với hệ thống luật Anh-Mỹ, theo đó
các quyết định của tòa án có thẩm quyền hơn so với những loại khác.
IV.
Tập quán (phong tục, pháp luật theo tục lệ).
Trong tiêu đề 2, đoạn 9 Justiana đã tiếp nhận quan điểm của Ulpian trong Digest về sự khác
biệt giữa văn bản và pháp luật, nhưng làm rõ nó bằng việc viện dẫn phong tục như một ví dụ
của luật bất thành văn. Phong tục được xem là nguồn của pháp luật với 2 chiều hướng chính.
Đầu tiên, nó là nguồn dựa vào quan điểm : trong quá khứ, một số quy tắc tạo thành hệ thống
pháp luật chính thức đã được tuân theo theo phong tục hoặc được người dân sử dụng, và các
quy tắc đã dần dần được châp nhận là luật hoặc xây dựng thành luật thông qua một só đạo luật
cụ thể hoặc đưuọc chấp nhận và thực hiện bởi tòa án. Ví dụ, Luật 12 bảng được coi là sự hệ
thống hóa các phong tục và thói quen của người dân. Hơn nữa, trong sắc lệnh của các quan
tòa sẽ rút ra các thủ tục hiện tại, đặc biệt trong các quan hệ thương mại, trong các khung quy
định mới của pháp luật. Các luật gia cũng vậy, có thể chịu ảnh hưởng của phong tục truyền
thống trong việc đưa ra các quan điểm pháp lý. Từ quan điểm này, khi tuyên bố rằng tập quán
là nguồn của luật, nó đơn giản chỉ là sự khẳng định thực tế rằng tập quán đã được đưa vào hệ
thống pháp luật thông qua một số cơ chế đặc biệt, như pháp luật, sắc lệnh của thẩm phán,
hoặc lời bào chữa của luật sư. Tất yếu, quá trình hấp thụ nà đã biến luật bất thành văn thành
luật thành văn.
Nhưng người ta khó có thể coi thủ tục, trước khi nó được ghi nhận trong hệ thống pháp lý,
như là luật không thành văn, trừ khi cái được cho là luật trong ngữ cảnh mất đi ý nghĩa
“thường xuyên và thông thường được thực hiện theo”.
Quan điểm thứ 2 cho rằng tập quán là nguồn luật có một chút khác biệt. Ở đây không phải là
một tuyên bố lịch sử, những một tiêu chuẩn phải được thừa nhận bởi luật pháp, bởi các quy
phạm pháp luật, bởi thói quen được xác định là quy định của pháp luật. Vấn đề của luật La
Mã là xác định xem tập quán có được coi là nguồn của luật hay không, nếu có thì dùng tiêu
chí nào để xác định. Các luật gia cổ điển trên đã hoàn toàn im lặng về vấn đề này. Julian đã
tuyên bố rằng những tập quán cổ xưa có hiệu lực của pháp luật, trên vị trí rằng những phong
tục như vậy, giống như đạo luật, ràng buộc tất cả mọi người phải tuân theo. Dù tuyên bố này
có thật hay không, thì nó cũng có thể hiểu theo rất nhiều cách. Có lẽ Julian chỉ đơn thuần là
khẳng định lịch sử để có hiệu lực trong quá khứ, từ xa xưa đã được hấp thụ vào hệ thống pháp
luật. Sự giải thích này có vẻ không chính đáng, ngôn ngữ của Julian chắc chắn ám chỉ tập
quán là nguồn của pháp luật theo nghĩa hiểu thứ 2, đó là, tập quán bản thân nó đã là luật với
sự ràng buộc giống như đạo luật chính thống. Nếu đây là ý của Julian, tiếc là ông không có
bằng chứng là các loại tập quán hoặc tiêu chí đã được xác định được coi như luật. Đặc biệt, sự
lớn mạnh và rộng lớn của đế chề trong thời của Julian, những tập quán được chấp nhận bởi
nhiều người có thể thu hút sự chú ý của ông hay không? Julian có nghĩa rằng những tập quán
đó chỉ được chấp nhận bởi công dân La Mã? Có thể, ví du, suy nghĩ chẳng hạn như người
đứng đầu gia đình có quyền đối với con cái của mình? Hoặc có thể ông ấy đã nghĩa về một
vấn đề quan trọng và thực tế hơn, như việc các phong tục địa phương càn trở luật thành văn.?
Theo quan điểm của ông ấy, Jilian có thể hiểu là bản tuyên bố chung của luật học mà không
nghĩ đến hậu quả thực tế. Ông khẳng định rằng một cách hợp lý, với sự đồng ý của người dân
làm tập quán, như một đạo luật, áp dụng vào luật nhưng không liên quan tới các vấn đề thực
tế hơn như : tập quán chính xác được coi là gì, thông qua sự đồng ý của người dân, trở thành
luật pháp?.
Chúng ta có thể dùng phương pháp tương tự như trong đoạn 9 rằng tập quán lâu đời giống
như pháp luật. Có thể hiểu rằng, tuyên bố luật học làm sáng tỏ luật bất thành văn ở mức độ
chung và lý thuyết hơn, hoặc có thể hiểu tuyên bố cho biết thực tế hoạt động của hệ thống
pháp luật La Mã. Sau cùng, sự giải thích này chắc chắn đã rút ra được ý nghĩa của tập quán
địa phương và khu vực. Chúng có hiệu lực như luật. Thực tế, ông ấy nói một cách cẩn thận
rằng tập quán còn có tính ràng buộc hơn cả pháp luật, hàm ý rằng, ông sẽ không coi tập quán
như một quy định phổ biến hơn đạo luật.
Trong đoạn 11 Justiana xem xét sự ảnh hưởng của pháp luật tới tập quán. Tương phản với luật
pháp của mỗi tiểu bang xây dựng luật riêng với luật được xây dựng bởi ý chí của chúa. Ông
ấy cho rằng vấn đề trước đó có thể thay đổi bởi sự đồng ý ngầm của con người hoặc bởi
những đạo luật cuối cùng. Có phải nó ám chỉ đến sự thật rằng Luật La Mã vận hành theo một
học thuyết đã lỗi thời, theo đó một đạo luật có thể hết hiệu lực nếu nó không thể chứng minh
được rằng nó đã được sử dụng suốt một thời gian dài? Nếu thế, có vẻ như mâu thuẫn với một
phán quyết của hoàng đế Constantine (321-37 SCN), trong năm 319 SCN đã tuyên bố rằng,
mặc dụ tập quán có uy quyền rất lớn, nó không thể chống lại ly lẽ hoặc pháp luật. Tuy nhiên,
nhưng mâu thuẫn này có thể được hóa giải nếu cúng ta nhớ phân biệt rõ lý thuyết và thực
hành. Constantine có lẽ đã suy nghĩ là hiệu quả của phong tục tập quán địa phương hoặc khu
vực., trong khi chuẩn bị ban nó cho người có thẩm quyền. Ông ấy không cho phép những tập
quán trái ngược với đạo luật. Mặt khác , Justiana, giống như Julian cho rằng luật pháp có thể
bị bãi bỏ nếu không được có được sự chấp thuận ngầm của người dân. Có thể phản ánh logic
của sự tán thành của những người liên quan tới pháp luật. Nếu được sự đồng ý của người cuối
cùng giải thích về hiệu lực của pháp luật, thì hủy bỏ những yêu cầu hết hiệu lực là hợp lý. Tuy
nhiên, một học thuyết như vậy, mặc dù được chấp nhận trên lý thuyết, nhưng có thể gặp
những khó khăn trong thực hành. Như chúng ta đã biết từ những tranh cái trong Insitutes về
những tuyên bố của hoàng đế, những người được coi là đã chuyển giao quyền lập pháp của
mình cho hoàng đế. Từ đó có thể suy ra rằng, một khi pháp luật được thông qua hoặc được
xác nhận bởi hoàng đê, người ta không còn quyền hủy bỏ giá trị của nó.
Nói chung, cần lưu ý rằng dựa vào các chứng cứ rõ ràng không phải các luật gia cũng không
phải hoàng đế, thực hiện các nỗ lực thiết lập các tiêu chuẩn chính xác để xác định một tập
quán về quyền sở hữu hoặc một đạo luật có vẻ không còn hiệu lực thực tế nữa. Điều này cũng
cố quan điểm rằng lời tuyên bố chung về hiệu lực pháp lý của tập quán hoặc sự đồng ý ngầm
của con người không được có liên quan đến các hoạt động thực tế trong hệ thống pháp luật.
V.
Các thành phần của luật tư.
Trong tiêu đề 2, đoạn 12, Justiana giới hạn các bộ phận chính của luật tư với với mục đích
giao dịch. Luật quốc gia (chương 2 bên dưới), đôi khi mô tả như luật về quan hệ pháp lý, bao
gồm nhiều điều trong pháp luật hiện đại được gọi là luật gia đình. Luật pháp xem xét các
quyền và nghĩa vụ được tạo ra bởi việc sử dụng và khai thác tài sản kinh tế, bao gồm những
điều trong luật hiện đại được gọi là luật tài sản (Chương 3 và 4 bên dưới), luật hợp đồng và
làm giàu không chính đáng (chướng 5, I-VI bên dứới) và luật phạm pháp (chương 5, IX-X
bên dưới). Luật tố tụng (chương 6, bên dưới) bao gồm bản chất của các biện pháp mà quyền
lực được thực thi, mà trong pháp luật hiện nay gọi là thủ tục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO – Select Bibliography.
Mời các bạn tự coi.