Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận Đạo Hồi Giáo ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.07 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
NGÀNH VIỆT NAM HỌC
---o0o---

TIỂU LUẬN MÔN TÔN GIÁO

ĐỀ TÀI: ĐẠO HỒI GIÁO Ở VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: HÁN THU HẰNG
MÃ SINH VIÊN: A23213
CHUYÊN NGÀNH: VIỆT NAM HỌC

HÀ NỘI 2016
1


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
NGÀNH VIỆT NAM HỌC
---o0o---

TIỂU LUẬN MÔN TÔN GIÁO
ĐỀ TÀI: ĐẠO HỒI GIÁO Ở VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: HÁN THU HẰNG
MÃ SINH VIÊN: A23213
CHUYÊN NGÀNH: VIỆT NAM HỌC
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS-TS NGUYỄN VĂN LỊCH

HÀ NỘI 2016




MỤC LỤC


PHẦN 1. KHÁI QUÁT VỀ HỒI GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Giới thiệu chung về Hồi giáo
Hồi giáo (tiếng Ả Rập: ‫ السلم‬al-'islām), còn gọi là đạo Islam, là một tôn giáo độc
thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau
Kitô giáo, và là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất, với số tín đồ hiện nay là 1,57 tỷ,
chiếm 23% dân số thế giới.
Hầu hết người theo đạo hồi thuộc hai dòng, Sunni (75–90%), hoặc Shia (10–
20%). Có khoảng 13% người theo đạo Hồi sống ở Indonesia,[11] cộng đồng quốc gia
Hồi giáo lớn nhất chiếm 25% ở Nam Á, 20% Trung Đông và 15% ở hạ Sahara. Một số
cộng đồng khác ở Châu Âu, Trung Quốc, Nga, và châu Mỹ. Các cộng đồng di dân và
chuyển đạo cũng có ở nhiều nơi trên thế giới.
1.2. Nguồn gốc
Đối với người ngoài, đạo Hồi giáo ra đời vào thế kỷ 7 tại bán đảo Ả Rập, do
Thiên Sứ Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho con người qua thiên
thần Jibrael. Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng Tối Cao, Đấng Duy Nhất (tiếng Ả Rập:
‫ الله‬Allāh). Đối với tín đồ, Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng được Allah mặc khải
Thiên Kinh Qur'an (còn viết là Koran) qua Thiên thần Jibrael.
Điều đầu tiên chúng ta nên biết và hiểu rõ về Islam là từ "Islam" có nghĩa là gì.
Tên Islam không được đặt theo tên người như trong trường hợp Kitô giáo, được đặt tên
theo Chúa Giê-su, Phật giáo được đặt tên theo Đức Phật, đạo Khổng được đặt tên theo
Đức Khổng Tử, và chủ nghĩa Mác được đặt tên theo Các Mác.
1.3. Sự phân chia Hồi giáo
Đến nay Hồi giáo đã chia ra làm nhiều nhánh với những giáo lý và quan điểm
chính trị khác biệt.
1.3.1 Sunni

Hồi giáo dòng Sunni chiếm 75%–90% số người theo Đạo Hồi. Dòng Sunni cũng
có tên Ahl as-Sunnah nghĩa là "người truyền thống [của Muhammad]".
Người theo Sunni tin rằng bốn Khalip đầu tiên là những người thừa kế hợp pháp
của Muhammad; vì Chúa không chỉ định bất kỳ lãnh đạo đặc biệt nào để kế thừa ông
và những người này được bầu ra. Người theo Sunni tin rằng bất cứ ai là người công
chính và chỉ có thể là một khalip nhưng họ phải hành động theo kinh Qur'an và
Hadith.
Sunni theo Quran, sau đó là Hadith. Sau đó, các vấn đề pháp lý không được tìm
thấy trong Kinh Qur'an hoặc Hadith, họ theo bốn madh'habs (trường phái tư tưởng):

Trang 4


Hanafi, Hanbali, Maliki và Shafi'i, được thành lập xung quanh những lời dạy tương
ứng của Abū Hanifa, Ahmad bin Hanbal, Malik ibn Anas và al-Shafi'i.
Tất cả 4 chấp nhận tính hợp pháp của nhau và Đạo Hồi có thể chọn bất kỳ một để
theo.[22] Salafi (hay Ahl al-Hadith (Arabic: ‫ ;أهل الحديث‬The people of hadith), hoặc từ
miệt thị Wahhabi theo cách gọi của đối thủ họ) là một phong trào Hồi Giáo cực kỳ
chính thống đã đưa lớp người Hồi Giáo đầu tiên là một hình mẫu điển hình.
1.3.2 Shia
Shi'a chiếm 10–20% số người theo đạo Hồi và là nhánh lớn thứ 2.
Trong khi Sunni tin rằng Muhammad không chỉ định một người kế nhiệm và do
đó kế nhiệm ông sẽ được chọn bởi cộng đồng thì Shia tin rằng trong lần hành hương
cuối cùng của Muhammad đến Mecca, ông đã chỉ định con nuôi của ông là Ali ibn Abi
Talib, làm người kế vị trong Hadith of the pond of Khumm. Và thế là họ tin rằng Ali
ibn Abi Talib là Imam (lãnh đạo) đầu tiên, và bác bỏ tính hợp pháp của các khalip Hồi
giáo trước Abu Bakr, Uthman ibn al-Affan và Umar ibn al-Khattab.
Hồi Giáo Shia có nhiều nhánh, nhánh lớn nhất là Twelvers phát triển phần lớn ở
Iran, Iraq, Azerbaijan, Bahrain, Ấn Độ, Pakistan và Liban. Tiếp theo là Zaidis và
Ismaili. Sau cái chết của Imam Jafar al-Sadiq (cháu lớn của Abu Bakr và Ali ibn Abi

Talib) được xem là lãnh tụ thứ 6 của người Shia, Ismailis bắt đầu theo con trai ông
Isma'il ibn Jafar và Twelver Shia's (Ithna Asheri) bắt đầu theo con trai khác của ông
Musa al-Kazim làm Imam thứ 7. Zaydis theo Zayd ibn Ali, chú của lãnh tụ Jafar alSadiq, là lãnh tụ thứ 5.
Các nhóm khác nhỏ hơn gồm Bohra và Druze, cũng như Alawites và Alevi.
1.3.3 Sufi
Sufi giáo (tiếng Ả Rập: ‫ الصوفية‬al-ṣūfiyya; tiếng Ba Tư: ‫ تصوف‬taṣawwuf), hay Hồi
giáo Sufi hay Hồi giáo mật tông thường được hiểu là xu hướng hay chiều kích thần bí
của Hồi giáo (Islam) xuất hiện gần như đồng thời với Hồi giáo trên cơ sở của chủ
nghĩa khổ hạnh. Mục đích của Sufi giáo là sự nhận thức chân lý tuyệt đối thông qua
Tình yêu và sự hòa nhập với Thượng Đế. "Con người – sáng tạo cuối cùng của
Thượng Đế – cần hướng tới sự hòa nhập với Người. Để đạt được điều này cần từ chối
những sung sướng vật chất và kìm nén những mong muốn, khát khao ngoài một điều
mong muốn khát khao duy nhất là được hoà nhập với Thượng Đế".

Trang 5


PHẦN 2. HỒI GIÁO Ở VIỆT NAM
2.1. Sự ra đời và quá trình truyền bá hồi giáo tại Việt Nam
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Hồi giáo:
Đạo Islam khi truyền bá vào Việt Nam được gọi là đạo Hồi hay Hồi giáo. Trong
những sách sử Trung Hoa xưa, đạo Islam được gọi là Hồi giáo hoặc Hồi Hột giáo, vì
khi nó được truyền vào Trung Hoa thông qua một bộ lạc thuộc dân tộc Hồi Hột, nên
người Trung Hoa gọi Islam là đạo Hồi hoặc Hồi Hột giáo. Sự ra đời của Hồi giáo bởi
những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII.
Hồi giáo ra đời ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII sau Công nguyên. Sự ra đời
của tôn giáo này xuất phát bởi một loạt nguyên nhân về kinh tế, chính trị, xã hội và tư
tưởng; nó gắn liền với những biến chuyển xã hội, từ chế độ công xã nguyên thuỷ sang
chế độ xã hội có giai cấp. Lịch sử thống nhất nhà nước Ảrập thành một nhà nước
phong kiến độc quyền, đồng thời trên cơ sở thống nhất giữa các tín ngưỡng, tôn giáo

trên bán đảo Ảrập.
Sự ra đời của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Mohammad người mạc khải, khai sáng tín ngưỡng Hồi giáo. Mohammad được tín đồ Hồi giáo thế
giới tôn vinh là "tinh thần", "duy nhất", "toàn năng", "độ lượng", "siêu việt" và "vĩnh
cửu"... là thiên sứ và Giáo chủ.
Sau khi Hồi giáo ra đời, vào khoảng thời gian từ năm 622 đến năm 630, cùng với
việc xây dựng lực lượng, tôn giáo này phải trải qua thời kỳ đấu tranh quyết liệt, kết
hợp những cuộc "thánh chiến" với những hoạt động chính trị và ngoại giao,
Mohammad và những người Hồi giáo đã chinh phục được thành Mecca và truyền bá
Hồi giáo đến vùng này. Mohammad cùng những người anh em Hồi giáo xây dựng
Mecca thành "Thánh địa " - trung tâm Hồi giáo thế giới cho tới ngày nay. Sau khi
chinh phục thành Mecca, Hồi giáo đã trở thành một đế quốc bành trướng thế lực, tiếp
tục mở rộng "thánh chiến" tấn công để mở rộng thế giới Hồi giáo. Mục tiêu trước hết
là tiêu diệt người Do Thái ở Arabia, tàn sát và bắt những người có thái độ chống đối
làm nô lệ cho người Hồi giáo chiến thắng. Từ năm 636, Hồi giáo bắt đầu những cuộc
viễn chinh tấn công, mở đầu cho một thời kỳ truyền bá Hồi giáo sang các quốc gia
khác. Cho đến thế kỷ XI, Hồi giáo trở thành một tôn giáo quốc tế, thống soái các quốc
gia dân tộc từ Địa Trung Hải đến Vịnh Ba Tư. Vào khoảng ba thế kỷ sau (từ thế kỷ
XIV đến XVI), Hồi giáo truyền bá xuống vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Hiện nay, Hồi giáo là tôn giáo có tín đồ đông nhất thế giới (trên 1,3 tỷ tín đồ), có
mặt ở hơn 100 quốc gia trên tất cả các châu lục. Quốc gia có đông người Hồi giáo nhất
hiện nay không phải là nước ở khu vực Trung Đông như nhiều người vẫn tưởng, mà là

Trang 6


Indonesia nước ở khu vực Đông Nam Á với trên 180 triệu tín đồ chiếm 87% dân số
của đất nước này.
Mặc dù Hồi giáo Islam là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng lại không có hệ
thống tổ chức giáo hội quốc tế và không có hệ thống phẩm trật chức sắc (người giữ vai
trò trung gian thay quyền Thượng đế Allah) mà chỉ có các giáo sĩ đảm nhận những

chức trách như: Khalifat, Mufti, Naep, Hakim, Ahly, Imâm, Tuôn...
Từ khi Mohammad qua đời, nội bộ Hồi giáo xảy ra nhiều cuộc tranh chấp quyền
lực. Vì vậy, sau này Hồi giáo phải chia thành các dòng, các hệ phái khác nhau. Cho
đến nay, Hồi giáo vẫn không có người thừa kế ngôi vị Khalifat (Giáo chủ). Đây là
nguyên nhân chính, là hệ quả của việc Hồi giáo không có tổ chức giáo hội quốc tế. Từ
thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại đây, với sự gia tăng không ngừng số lượng tín đồ
Hồi giáo trên thế giới làm cho dạng thức thuần nhất của Hồi giáo thời Mohammad
không thể duy trì được mà đã có sự biến dạng thành những cộng đồng (Jamah) ngăn
cách bởi chế độ xã hội của mỗi quốc gia. Theo đó, Hồi giáo cũng phát triển mối tương
giao với những tín ngưỡng, tôn giáo khác. Chính vì vậy, các quốc gia có đông người
Hồi giáo có khuynh hướng thành lập tổ chức Hồi giáo gắn với lãnh thổ của từng nước,
kết hợp hoạt động tôn giáo với chăm lo đời sống mọi mặt cho cộng đồng. Mặt khác,
một số tổ chức Hồi giáo quốc tế cũng ra đời, tuy nhiên các tổ chức này mang hình thức
"liên hiệp" lỏng lẻo, không phải là tổ chức giáo hội quốc tế.
2.1.2 Sự du nhập Hồi giáo vào Việt Nam
Hồi giáo truyền vào khu vực Đông Nam Á khá sớm, khoảng thế kỷ XI, XII. Nếu
so với các khu vực Hồi giáo khác trên thế giới, thì việc truyền bá Hồi giáo vào Đông
Nam Á chủ yếu bằng con đường "hoà bình" qua những thương nhân Ảrập, Ấn Độ, Ba
Tư. Những thế kỷ đầu sau khi ra đời, Hồi giáo phát triển nhanh như vũ bão bằng chiến
tranh với công thức “thanh gươm - vó ngựa - kinh Qur'an". Tuy nhiên, khi chinh phục
được Ấn Độ, đoàn quân Hồi giáo đã mệt mỏi, lại đứng trước biển cả mênh mông đã
cản bước tiến quân các chiến binh Hồi giáo đến khu vực Đông Nam Á nên Hồi giáo
đành phải truyền bá đến đây qua các thương nhân và các giáo sỹ. Chính sự du nhập và
phát triển bằng con đường "hoà bình", lại từ nguồn Hồi giáo Ấn Độ đã dung hoà với
văn hoá Ấn Độ nên Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á thường bị pha trộn với tín
ngưỡng, phong tục tập quán địa phương. Điều này khác hẳn với những nơi Hồi giáo
bành trướng bằng những cuộc chiến tranh chinh phục. Hồi giáo khu vực Đông Nam Á
nói chung, ở Việt Nam nói riêng ít chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa Hồi giáo
như một số khu vực khác.
Hồi giáo du nhập vào Việt Nam qua các thời điểm khác nhau. Theo Tống sử

Trung Quốc thì thế kỷ X đã thấy người Chăm khi giết trâu để cúng, họ đều cầu nguyện

Trang 7


câu kinh đề cao Thượng đế Allah của người Hồi giáo, điều này có thể giả định từ thế
kỷ thứ X, Hồi giáo đã được truyền vào đất Chiêm Thành.
Vậy có thể nói: Từ thế kỷ X, tín ngưỡng Hồi giáo đã manh nha ở Vương quốc
Chămpa thông qua các thương nhân từ Trung Cận Đông đem vào, gây ảnh hưởng nhất
định trong đời sống tâm linh người Chămpa. Nhưng Hồi giáo không phát triển, có lẽ vì
lòng sùng tín thần thánh Bàlamôn giáo, tập tục, lễ nghi cùng chế độ mẫu hệ đã bén rễ
ăn sâu, trở thành truyền thống trong xã hội Chămpa, trải qua hơn nghìn năm không dễ
gì thay đổi. Vì vậy, ở Vương quốc Chămpa cổ vào khoảng trước năm 1470 Hồi giáo
chưa phải là tôn giáo chính thống của người Chăm.
Sau năm 1470, một bộ phận cư dân Chămpa lưu tán đã tiếp xúc với người
Malaysia, Indonesia, Campuchia... và họ bắt đầu tìm hiểu Hồi giáo ở các nước đó,
nhiều người Chăm bỏ tôn giáo truyền thống (đạo Bàlamôn) để theo Hồi giáo. Những
người Chăm khi tiếp thu được tôn giáo mới, họ quay về nước để truyền lại cho đồng
bào mình. Từ đó Hồi giáo có chỗ đứng đáng kể trong cộng đồng cư dân Chămpa và
chính thời điểm này sự giao hoà giữa đạo Islam và đạo Bàlamôn đã sản sinh ra một tôn
giáo mới của người Chăm, đó là đạo Bàni tại miền Nam Trung bộ.
Vào năm 1840, dưới triều Nguyễn, quan bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng
bị quân của An Dương - Campuchia đánh bại phải rút chạy về vùng thượng nguồn
sông Tiền (Châu Đốc - An Giang ngày nay) mang theo quân lính và người Chàm,
người Mã lai theo Hồi giáo, lúc đó nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập các đội
quân để giữ biên giới. Từ đó hình thành vùng thứ hai theo Hồi giáo chính thống của
người Chăm - đạo Islam.
Những năm cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, vùng Sài Gòn - Gia Định mở
rộng giao lưu buôn bán với một số quốc gia phương tây, từ đó trở thành trung tâm
buôn bán của Nam bộ. Các thương nhân đã thu nhận người Malaysia, Indonesia, Ấn

Độ theo Hồi giáo. Tuy nhiên, cho mãi đến cuối thế kỷ XIX khi Nam bộ bị Pháp chiếm
đóng, quá trình giao thương với bên ngoài ngày càng phát triển, là môi trường và điều
kiện để cho người Malaysia và Indonesia nhập cư vào đất này đông hơn. Ngoài ra,
trong khoảng thời gian từ năm 1880 - 1890, ở Gia Định cũng xuất hiện một bộ phận
người Ấn Độ, Pakistan có tín ngưỡng Hồi giáo là những thương nhân làm nghề buôn
bán tơ lụa, đồ gia vị cho những tiệm buôn, quán ăn. Đó là nguồn gốc hình thành cộng
đồng cư dân ngoại lai theo Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh cho tới ngày nay.
2.2. Đức tin và giáo luật của Hồi giáo
Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan
niệm về thế giới và con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín
ngưỡng cổ của người Ảrập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo là niềm tin vào Thượng đế Allah và
Trang 8


Thiên sứ Mohammad, tin vào thiên thần và sự bất tử của linh hồn, tin vào ngày phục
sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh Qur'an và luật
Sariat.
Kinh Qur'an là thánh thư của Hồi giáo, được thiết lập gồm 30 phần, 114 chương
(Surah) với 6.211 câu (Ayat) và được viết bằng tiếng Ảrập. Theo Hồi giáo, kinh
Qur'an là những lời giáo huấn của Thượng đế cho mọi người mà Thiên sứ Mohammad
đã nhận được qua thiên thần Gabriel trong khoảng 22 năm (610-632). Thực ra, kinh
Qur'an là tập hợp những lời thuyết đạo của Mohammad lúc còn tại thế, mãi về sau này
được sưu tầm, biên soạn thành văn bản chính thức lưu truyền cho đến ngày nay. Kinh
Qur'an được người Hồi giáo coi là "cuốn sách vĩ đại nhất, thông thái nhất" chứa đựng
mọi "chân lý và tri thức" của loài người.
Thực tiễn cho thấy, kinh Qur'an không chỉ đơn thuần là kinh sách tôn giáo mà nó
còn có ý nghĩa về tính pháp lý trong xã hội, có nhiều quy định về vệ sinh, ăn ở, hôn
nhân, cách cư xử trong gia đình và trong quan hệ xã hội như: quan hệ mua bán, tài
chính, chính trị - có cả tội ác và hình phạt. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất của
Hồi giáo, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo với đời, giữa tôn giáo và chính trị.

Ngoài những điều, những hành vi cuộc sống thường nhật của con người mà kinh
Qur'an không quy định, hành vi “đối nhân xử thế” của Mohammad hoặc những việc
làm của tín đồ mà không bị ngăn cấm đều được coi như những điều luật về tôn giáo và
đạo đức của con người. Sự ghi nhận đó là cơ sở và nguồn gốc sách luật thứ hai của tín
ngưỡng Hồi giáo - luật Sariat.
Hồi giáo là một tôn giáo không có hệ thống phẩm trật chức sắc, tuy nhiên giáo
luật Hồi giáo lại chứa đựng nhiều nội dung và hành vi xử thế trong cuộc sống xã hội con người có tính chất bắt buộc cao và rất khắt khe. Nó vượt ra khỏi phạm vi đức tin
và những sinh hoạt tôn giáo thuần tuý để trở thành tiêu chuẩn pháp lý trong đời sống
xã hội, chi phối mọi hoạt động của người Hồi giáo. Vì vậy, một số quốc gia Hồi giáo
áp dụng và đưa luật Hồi giáo vào quản lý đất nước hoặc được thực hiện với luật pháp
nhà nước. Giáo luật Hồi giáo tập trung vào 5 điều sống đạo cơ bản (còn gọi là 5 cốt
đạo) sau đây:
- Xác tín hoặc còn gọi là biểu lộ đức tin (Tawhid).
- Cầu nguyện mỗi ngày (Solah).
- Tháng lễ Ramadan - tháng 9 Hồi lịch.
- Bố thí (Zakat).
- Hành hương (Hadji) viếng thánh địa Mecca.
Ngoài ra, những tín đồ Hồi giáo còn có nghĩa vụ dự thánh chiến (Jihad).

Trang 9


2.3. Đạo Hồi giáo tại Việt Nam hiện nay
Sau năm 1975 với cuộc chiến Việt Nam kết thúc, một bộ phận trong số 55.000
tín đồ đạo Hồi người Chăm tại Việt Nam đã trốn sang Malaysia. Ở Yemen cũng có
1.750 người tỵ nạn Việt Nam gốc Chăm, hầu hết định cư ở Ta'izz. Tuy nhiên, hầu hết
các tín đồ ở lại Việt Nam vẫn được phép sinh hoạt tôn giáo như bình thường cho dù
những thánh đường Hồi giáo bị đóng cửa, cũng như các cơ sở giáo dục của người Hồi
giáo bị trưng dụng bởi chính quyền mới. So với các tôn giáo khác, tín đồ Hồi giáo tại
Việt Nam chiếm tỷ lệ rất thấp cũng như không có những va chạm với chính quyền, vì

vậy chính quyền ít kỳ thị và kiểm soát chặt chẽ với tín đồ. Là láng giềng của một quốc
gia có đông tín đồ Hồi giáo nhất trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, cộng đồng Hồi
giáo chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp so với toàn thể dân số Việt Nam (0.075%). Tín đồ hồi
giáo chủ yếu là người Chăm, có khoảng 70 nghìn tín đồ tập trung ở khu vực Ninh
Thuận, Bình Thuận, An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai.
Vào năm 1981, khách nước ngoài đến Việt Nam vẫn được tự do nói và cầu
nguyện bằng tiếng bản xứ của họ. Vào năm 1985, các thánh đường Hồi giáo tại miền
Nam được cho phép mở cửa lại, thậm chí, chính quyền còn cho phép thành lập tổ chức
Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1992. Ước tính,
ngoài những tín đồ người Chăm, cũng có những tín đồ người Indonexia, Mã Lai,
Pakistan, Yemen, Oman, và người Nam Phi; với khoảng 10000 người vào thời điểm
đó. Năm 2004, một Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo khác cũng được thành lập ở An
Giang.
Do vị trí địa lý và hoàn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và sự giao lưu của đồng
bào Chăm với bên ngoài nhất là vơi thế giới Hồi giáo mà ở Việt Nam hình thành 2
khối Hồi giáo với nhiều khác biệt đáng kể:
+ Hồi giáo vùng Ninh Thuận, Bình Thuận là Hồi giáo không chính thống gọi là
Chăm Bani, đượm sắc thái của yếu tố sinh hoạt và tôn giáo bản địa. Các lễ thức được
tiếp biến cho phù hợp với chế độ gia đình mẫu hệ và các lễ liên quan đến chu kỳ đời
sống của con người và các lễ thức nông nghiệp, không có liên hệ với Hồi giáo thế giới.
+ Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh gọi là Chăm
Ixlam theo Hồi giáo chính thống, không bị pha trộn với phong tục, tập quán, tín
ngưỡng cũ và thường xuyên liên hệ với thế giới Hồi giáo Campuchia và Malaysia.
Tuy có sự khác nhau nhưng giữa hai khối Hồi giáo này không có sự kỳ thị mà
hòa hợp với nhau.
- Về tổ chức, thời Pháp thuộc có tổ chức Saykhon Ixlam đại diện cho người
ChămXà và những người Mã Lai theo Hồi giáo. Năm 1960 khối người Chăm Hồi giáo
lập ra “Hiệp hội Chăm Hồi giáo Việt Nam” có văn phòng đặt tại Sài Gòn. Năm 1966
Trang 10



có thêm tổ chức “Hội đồng giáo cả các Thánh đường Hồi giáo Việt Nam” đặt văn
phòng tại Châu Đốc và tồn tại cho đến ngày nay.
- Hiện nay các tín đồ Hồi giáo sinh hoạt bình thường, vừa tuân phục các giáo luật
khắt khe vừa thực hiện tốt các nghĩa vụ công dân, tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản và sự quản lý của chính quyền mong muốn được sinh hoạt tôn giáo hợp pháp,
muốn duy trì mối quan hệ với thánh địa Mecca. Nói chung trong những năm qua tín đồ
Hồi giáo tăng chậm do đồng bào Chăm thường sống ở những vùng có kinh tế khó
khăn, có thu nhập thấp, diện nghèo còn cao và rất cần có sự quan tâm hỗ trợ của các
cấp chính quyền để xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
Tháng 1 năm 2006, Thánh đường Hồi giáo tại xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc,
tỉnh Đồng Nai, được xây dựng lại trên nên giáo đường cũ đã được mở cửa, dựa trên sự
đóng góp một phần từ Ả Rập Saudi. Đây được xem là một trong những sự liên hệ trực
tiếp trở lại của tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam với thế giới Hồi giáo Ả Rập. Tiếp sau đó,
Thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam (tính đến hết năm 2009) đã được xây dựng
tại ấp Đồng Ki, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang, khởi công vào ngày 7
tháng 4 năm 2008 và khánh thành ngày 3 tháng 12 năm 2009, với tổng kinh phí thực
hiện 5,8 tỉ đồng, trong đó có một phần kinh phí do Hội Trăng lưỡi liềm đỏ (Các tiểu
vương quốc Ả Rập thống nhất) ủng hộ.
• Tài liệu tham khảo:
Trong bài viết có sử dụng một số tài liệu tham khảo tại các trang web:





Wikipedia:
Cộng đồng Hồi giáo Việt Nam: />Ban Tôn giáo chính phủ: /> />
Trang 11




×