Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.54 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
động và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại”. Vị lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của
cách mạng Việt Nam đã đi xa, nhưng để lại cho chúng ta những di sản tinh
thần to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả. Trong đó tư
tưởng của Người về đạo đức cách mạng và chủ nghĩa cá nhân chiếm một vị trí
hàng đầu, cho đến ngày nay, những tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị.
Trong thời kì đổi mới, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển kinh tế xã hội vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Mặt tiêu cực
của kinh tế thị trường và mặt trái của toàn cầu hoá kinh tế mang tính chất tư
bản chủ nghĩa cùng với chiến lược diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch
là những nhân tố gây tác hại đến nền tảng đạo đức cách mạng của Đảng, tạo
điều kiện cho chủ nghĩa cá nhân phát sinh và phát triển. Sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một lực cản to lớn đối với sự nghiệp đổi
mới đất nước, làm tổn thất nghiêm trọng cho kinh tế, gây ảnh hưởng xấu cho
chính trị, làm sói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã cảnh báo hai vấn đề lớn liên quan đến nguy cơ của Đảng cầm
quyền: Một là, sai lầm về đường lối của Đảng, và hai là, sự suy thoái về phẩm
chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bối cảnh đó đòi hỏi các cấp lãnh đạo có những biện pháp tích cực
nhằm xoá bỏ chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi, đồng thời nâng cao đạo đức của
người cách mạng. Do đó cần thiết phải “học tập và làm theo tấm gương đạo
đức đạo đức Hồ Chí Minh”. Vì tư tưởng đạo đức của Người luôn là bộ phận
quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, nguồn sức mạnh to lớn
để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt qua thử thách khó khăn tiến lên xây


dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt học tập và làm theo tấm gương
đạo đức của Người là một biện pháp quan trọng để mọi cán bộ đảng viên và
tổ chức Đảng sửa chữa, khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức. Chính vì
vậy, việc tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng có ý


ngha cc kỡ quan trng v mang tớnh cp thit cao.
Vi ý ngha quan trng ú, tụi quyt nh chn vn T tng H
Chớ Minh v nõng cao o c cỏch mng, quột sch ch ngha cỏ nhõn
lm ti nghiờn cu. ti chỳ trng i sõu tỡm hiu rừ hn quan im ca
Bỏc v o c cỏch mng, ch ngha cỏ nhõn v nhng gii phỏp u tranh
chng ch ngha cỏ nhõn, xõy dng nn tng o c cỏch mng. õy l mt
ni dung khụng mi tuy nhiờn ti s cung cp mt chnh th cú h thng
nhng t tng ca Ngi, t ú giỳp ngi c cú mt cỏi nhỡn tng quỏt
hn.
Ngoi phn M u, Kt lun, Danh mc ti liu tham kho, ti
c kt cu nh sau:
CHƯƠNG I: chủ nghĩa cá nhân và đạo đức cách
mạng.
Chơng II: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân.
Chơng III: giá trị của t tởng nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

2


b. nội dung
CHƯƠNG I:
chủ nghĩa cá nhân và đạo đức cách mạng.


1- Ch ngha cỏ nhõn theo t tng H Chớ Minh.
1.1. Quan nim v ch ngha cỏ nhõn trong lch s.
Nhng biu hin u tiờn ca ch ngha cỏ nhõn xut hin cựng vi
phong tro vn hoỏ Phc Hng, gn lin vi vn hc ỏnh sỏng, cỏc nh trit
hc khai sỏng. Lỳc u, ch ngha cỏ nhõn xut hin nh trng thỏi i lp vi
ch chớnh tr ng thi, núi lờn tớnh c lp ca con ngi, s n lc
vn lờn ca cỏ nhõn, quyn t do dõn ch ca cỏ nhõn trong lũng xó hi. Vỡ
vy ch ngha cỏ nhõn xut hin cú tỏc dng thỳc y s phỏt trin ca lch
s, tin b xó hi. Chớnh giai cp t sn ó li dng trit mt tớch cc ny.
T tng ch ngha cỏ nhõn cú t rt sm, nhng v thut ng ch
ngha cỏ nhõn xut hin vo nhng nm 20 ca thộ k XIX. Ch ngha cỏ nhõn
cc oan gn vi ch ngha ớch k ca giai cp t sn, nhng mt tớch cc dn
b che khut, cũn mt tiờu cc li nhanh chúng ni cm lờn. Sau ny rt nhiu
phõn tớch ỏnh giỏ ch ngha cỏ nhõn ú l mt th gii quan m th gii quan
ú da trờn s i lp cỏ nhõn v xó hi.
1.2. Quan nim v ch ngha cỏ nhõn theo t tng H Chớ Minh.
1.2.1. Ch ngha cỏ nhõn l mt th vi trựng rt c.
H Chớ Minh s dng thut ng ch ngha cỏ nhõn t nm 1947 trong
tỏc phm Sa i li lm vic. Trong ú Ngi coi Ch ngha cỏ nhõn l
nh mt th vi trựng rt c, do nú m sinh ra cỏc th bnh rt nguy him.
Sau ny trong quỏ trỡnh lónh o cỏch mng, vi mi s phỏt trin tinh vi ca
ch ngha cỏ nhõn, Ngi u cú nhng nh ngha khỏc nhau cựng nhng tỏc
phm quan trng ỏnh vo th vi trựng ny. Nhng H Chớ Minh luụn cú
quan im nht quỏn v nhng mt tiờu cc ca ch ngha cỏ nhõn, Ngi coi
nú i lp vi o c cỏch mng, gn lin vi ch ngha quc. Theo
Ngi ch ngha cỏ nhõn chớnh l s tụn th tuyt i hoỏ, tụn th quyn li
v li ớch cỏ nhõn, n mc nú i lp hon ton vi li ớch tp th v li ớch
xó hi, Bỏc núi : Ch ngha cỏ nhõn l mt tr ngi ln cho vic xõy dng


3


chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời
thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”1.
Nhưng Hồ Chí Minh không hoàn toàn phủ nhận vai trò của chủ nghĩa
cá nhân, theo Người: “ Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân chứ không phải là
giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Bác khẳng định: “Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội
quyền và lợi ích cá nhân được đảm bảo triệt để”.
Hồ Chí Minh dã nhiều lần có định nghĩa khái niệm chủ nghĩa cá nhân,
sau đây xin giới thiệu một vài khái niệm mà Người sử dụng nhiều nhất:
Chủ nghĩa cá nhân là đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên
trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh chính, bệnh mẹ, do đó
mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác như: Tự tư, tự lợi, sợ khó, sợ khổ. Không
yên tâm công tác. Ham địa vị danh tiếng. Lãng phí, tham ô. Quan liêu, mệnh
lệnh...
Chủ nghĩa cá nhân là trái với chủ nghĩa tập thể. Do chủ nghĩa cá nhân
mà đẻ ra các tư tưởng sai lệch khác” như “tư tưởng công thần”; “lo lắng tiền
đồ bản thân”; “đòi hưởng thụ đãi ngộ”...
Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích của mình trước hết.
Họ không lo mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì mình.
Chủ nghĩa cá nhân là lợi mình, hại người, tự do vô tổ chức, vô kỉ luật
và những tính xấu khác là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội , là kẻ địch
hung ác của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng , chủ nghĩa cá
nhân là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống
dốc; tóm lại cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do đó mà nó sinh ra
các thứ bệnh rất nguy hiểm. Sẽ được giới thiệu trong phần sau.
Chủ nghĩa cá nhân là so bì đãi ngộ: lương thấp, lương cao, quần áo đẹp,

xấu, là uể oải, muốn nghỉ ngơi, muốn hưởng thụ, an nhàn. Chủ nghĩa cá nhân
như vi trùng đẻ ra nhiều bệnh khác: sợ khó, sợ khổ, tự do chủ nghĩa; vui thì
làm, không vui thì không làm, thích thì làm, không thích thì không làm.
Chủ nghĩa cá nhân như tự tư, tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham việc gì có
danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường.
Tranh công đổ lỗi là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa đơn vị.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 1996, tập 9, tr 291

4


Chủ nghĩa cá nhân là tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi
người chúng ta... Nó là bạn đồng minh của hai kẻ thù kia (chủ nghĩa đế quốc
và thói quen truyền thống lạc hậu)
Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải
luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt.
1.2.2. Những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân1.
“Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra
các thứ bệnh rất nguy hiểm, thí dụ những bệnh sau đây:
a) Bệnh tham lam - Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của
mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ "tự tư tự lợi". Dùng
của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng
của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không
xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu.
Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình.
b) Bệnh lười biếng - Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết.
Làm biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc
khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách để trốn tránh.

c) Bệnh kiêu ngạo - Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người
ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được
việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng
mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình.
Việc gì cũng muốn làm thầy người khác.
d) Bệnh hiếu danh - Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái
tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê
bình thì tinh thần lung lay. Những người đó chỉ biết lên mà không biết xuống.
Chỉ chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, uỷ
viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực.
đ) Thiếu kỷ luật - Đã mắc bệnh cá nhân thì tư tưởng và hành động cũng
đặt cá nhân lên trên. Vì thế mà việc gì cũng không lấy Đảng làm nền tảng.
Mình muốn thế nào thì làm thế ấy. Quên cả kỷ luật của Đảng. Phê bình thì cốt
công kích những đồng chí mình không ưa. Cất nhắc thì cốt làm ơn với những
người mình quen thuộc.
e) Óc hẹp hòi - ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt,
sợ người ta hơn mình. ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách
1

Sđd, tập 5, tr 255 – 261.

5


mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế màkhông biết liên lạc hợp tác với
những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng. Vì thế mà người ta uất ức và
mình thành ra cô độc.
g) Óc địa phương - Bệnh này tuy không xấu bằng các bệnh kia nhưng
kết quả cũng rất tai hại. Miễn là cơ quan mình, bộ phận mình, địa phương
mình được việc. Còn các cơ quan, bộ phận, địa phương khác ra sao cũng mặc

kệ. Đó là vì cận thị, không xem xét toàn thể. Không hiểu rằng lợi ích nhỏ phải
phục tùng ích lợi to, ích lợi bộ phận phải phục tùng ích lợi toàn thể.
h) Óc lãnh tụ - Đánh được vài trận, hoặc làm được vài việc gì ở địa
phương đã cho mình là tài giỏi lắm rồi, anh hùng lắm rồi, đáng làm lãnh tụ
rồi. Nào có biết so với công cuộc giải phóng cả dân tộc thì những thành công
đó chỉ là một chút cỏn con, đã thấm vào đâu! Mà so với những sự nghiệp to
tát trong thế giới, càng không thấm vào đâu.
i) Bệnh "hữu danh, vô thực" - Làm việc không thiết thực, không tự
chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy
rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét
kỹ lại thì rỗng tuếch.
k) Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà
đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng
cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì
người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói
xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại
đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được
đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí.
Nó gây ra những mối nghi ngờ.
l) Bệnh cận thị - Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì
không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ. Thí dụ: việc tăng gia sản
xuất, việc tiếp tế bộ đội thì không lo đến, mà chỉ lo thế nào để lợi dụng cơm
cháy và nước gạo trong các bộ đội. Những người như vậy, chỉ trông thấy sự
lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn.
m) Bệnh tị nạnh - Cái gì cũng muốn "bình đẳng". Thí dụ: Cấp trên vì
công việc phải cưỡi ngựa, đi xe. Cấp dưới cũng muốn cưỡi ngựa, đi xe. Người
phụ trách nhiều việc, cần có nhà rộng. Người không phụ trách nhiều việc,
cũng đòi nhà rộng. Phụ cấp cho thương binh cũng muốn nhất luật, không kể
thương nặng hay nhẹ. Làm việc gì, thì muốn già, trẻ, mạnh, yếu đều làm bằng
nhau. Có việc, một người làm cũng được, nhưng cũng chờ có đủ mọi người


6


mới chịu làm. Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình đẳng. Không hiểu
rằng: người khoẻ gánh nặng, người yếu gánh nhẹ. Người làm việc nặng phải
ăn nhiều, người làm việc dễ thì ăn ít. Thế là bình đẳng”.

2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
2.1. Đạo đức là gốc của người cán bộ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức có vị trí rất quan trọng, Người coi đạo đức
là “cái gốc”, là “nền tảng” của người cách mạng. Bác căn dặn: “ Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự
mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì?”1 .
Chính vì vậy Người có tới 55 tác phẩm bàn về đạo đức cách mạng
không kể những tác phẩm có liên quan đến đạo đức. Trong tác phẩm
“Đường Kách mệnh” , nội dung đầu tiên mà Bác nhắc đến là “tư cách người
cách mệnh” với 23 điểm mà nội dung chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức.
Điều này đã bộc lộ rõ tư tưởng của Người, theo Bác muốn làm cách mạng,
muốn học chủ nghĩa Mác - Lênin thì trước hết phải có được nền tảng đạo
đức cách mạng, phải có được các “tiêu chuẩn của một người cách mệnh”.
Hồ Chí Minh nói: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” 2.

2.2. Hệ giá trị đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2.1. Trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng.
a) Trung với nước, hiếu với dân

Trung với nước, hiếu với dân là những phẩm chất hàng đầu của đạo
đức cách mạng. Trung và hiếu là những khái niệm có trong tư tưởng đạo đức
truyền thống Việt Nam và phương Đông. Thế nhưng tư tưởng của Hồ Chí
Minh không chỉ kế thừa những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống
của dân tộc mà còn vượt qua những hạn chế của chúng, nâng thành chuẩn
mực giá trị đạo đức mới - đạo đức cách mạng ở phạm vi rộng hơn.
1
2

sđd, T5, tr 252
sđd, T9, tr 283

7


Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ
nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với các cường quốc
năm châu”. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là lại là chủ đất nước,
“bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao
nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, Đảng và chính phủ là đầy tớ
nhân dân. Chính vì vậy trung với nước cũng chính là trung với dân.
Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, nhà nướcvùa là “người lãnh đạo”,
vừa “là người người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Tư tưởng hiếu với
dân không dừng lại ở chỗ thương dân mà còn phải phục vụ hết lòng. Đòi hỏi
phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy
dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, nắm vững dân tâm, cải thiện dân sinh,

nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu dược quyền và trách nhiệm của người chủ
đất nước. Có được cái đức ấy thì người lãnh đạo, người cách mạng mới được
dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo ra sức mạnh to lớn cho cách
mạng .
Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi
sinh vì độc lập dân tộc tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
b) Nhân, nghĩa, trí, dũng1.

“NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào.
Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng,
đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh
phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không
sợ oai quyền. Những người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là
việc phải họ đều làm được.
NGHĨA là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có
việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo
toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy
việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà
phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn.
TRÍ vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong
sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết
xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì
Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian.
DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết
1

trích, sđd, T5, tr 251- 252

8



điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại
những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh
cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.”
Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu.
Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân,
mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.
2.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nền tảng của đời sống mới, là
phương châm tư tưởng của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo dức Hồ
Chí Minh. Người khẳng định:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông,
Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa,
thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức
thì không thành người”1.
a) Cần:

Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo,
có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ: “lao động là thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Cần: “Tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Người Tàu có câu:
không có việc gì khó. Chỉ e ta không siêng. Tục ngữ ta có câu: Nước chảy
mãi, đá cũng mòn. Kiến tha lâu, cũng đầy tổ. Nghĩa là Cần thì việc gì, dù khó
khăn mấy, cũng làm được...
... Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, như: Tay siêng làm thì hàm
siêng nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải
Cần... Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi
công việc. Nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng…

… Cần và Chuyên phải đi đôi với nhau… Cần không phải là làm xổi…
Cần là luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời. Nhưng không làm
quá trớn… Lười biếng là kẻ địch của Cần”2.
b) Kiệm:

Tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều
1
2

sđd, T5, tr 631.
sđd,T5, tr 632 - 634

9


cái nhỏ cộng lại thành cái to; không phô trương hình thức không kiên hoan
linh đình, chè chén lu bù.
Kiệm tức “Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.
CẦN với KIỆM , phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. CẦN mà
không KIỆM, "thì làm chừng nào xào chừng ấy". Cũng như một cái thùng
không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn
không. KIỆM mà không CẦN , thì không tăng thêm, không phát triển được.
Mà vật gì đã không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít
nước, không tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho
đến khi khô kiệt.
… Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải… Tiết kiệm thời giờ
của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người…
… Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một
đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng

bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng.
Như thế mới đúng là kiệm….
… Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ... Cho nên, muốn tiết kiệm có
kết quả tốt, thì phải khéo tổ chức”1.
c) Liêm:

Tức là: “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại,
không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến
bộ”.
“Liêm là trong sạch, không tham lam… Ngày nay, nước ta là Dân chủ
Cộng hoà, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM… Chữ
LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM. Cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ
CẦN. Có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam.
Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên
đều là BẤT LIÊM. Người cán bộ, cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của
đút, hoặc trộm của công làm của tư…
…Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo
là trộm). Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham
vật uý lạo. Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh uý tử. Đều làm
trái với chữ LIÊM.
1

sđd, T5, tr 636 – 638

10


… Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu
cho dân… Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết

trong nhân dân. Một dân tộc biết Cần, Kiệm, Liêm là một dân tộc giàu về vật
chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”1.
d) Chính:

“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của
CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới
là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải CHÍNH
mới là người hoàn toàn.
Đối với mình: không tự kiêu, tự đại, luôn chịu khó học cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa điều dở của bản thân mình.
“Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc
mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của
mình”2.
Đối với người: “Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân,
là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người
khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ
xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn
kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”3.
Đối với việc: “Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà.
Đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không
sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm… Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm.
Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước”4.
e) Chí công vô tư:

Chí công là rất mực công bằng, công tâm, vô tư là không được có lòng
riêng, thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”. Phải “đem lòng
chí công vô tư mà đối với người, với việc”. “Khi làm bất cứ việc gì cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thi mình nên đi sau”, “phải lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Chúng
không tách rời nhau mà có quan hệ mật thiết với nhau. Cần, kiệm, liêm,
1

sđd, T5, tr 640 – 642
sđd, T5, tr 644
3
sđd, T5, tr 644
4
sđd, T5, tr 645
2

11


chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại đã chí công vô tư, một lòng vì
nước, vì dân, vì Đảng thì sẽ thực hiện cần, kiệm, liêm, chính và có được
nhiều tính tốt khác. “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít,
mà những tính tốt sẽ ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm 5 điều:
nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” 1.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho
con người vững vàng trước những thử thách: “giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Trong di
chúc của Người có đoạn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.”2
2.2.3. Tình yêu thương con người và tinh thần quốc tế trong sáng.
a) Tình yêu thương con người:


Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỉ, cùng
với việc thể nghiệm bản thân mình qua hoạt động cách mạng thực tiễn, Hồ
Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất của người cán bộ cách mạng nói riêng và con
người nói chung.
Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những
người lao động bị áp bức. Ở Người, đó là lòng ham muốn tột bậc là làm cho
nước được độc lập, dân được tự do, mọi người “ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”.
Thương yêu con người là phải tin vào con người. Đòi hỏi mọi người
luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Yêu
thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì
vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình, chân thành, giúp nhau sửâ chữa
khuyết điểm để không ngừng tiến bộ. Yêu thương là phải biết và dám dấn
thân đấu tranh giải phóng con người.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Học chủ nghĩa Mác- Lênin là để sống với
nhau có tình, có nghĩa. Nếu sống với nhau không có nghĩa có tình thì làm sao
coi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”.
b) Tinh thần quốc tế trong sáng.
1
2

sđd, T5, tr 251
sđd, T12, tr 498

12


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết là sự mở rộng những quan

niệm đạo đức cách mạng của Người ra phạm vi toàn nhân loại.
Đoàn kết quốc tế trong sáng tức là đoàn kết với nhân dân các nước vì
mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột. Là
đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì mục tiêu chung,
“bốn phương vô sản đều là anh em”. Là đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà
bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Đó là chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, nó gắn liền với chủ
nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống
mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỉ, hẹp hòi, kì thị dân tộc... Tất cả
những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ cả một quốc gia
dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ đoàn kết quốc tế trong
cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu, đối địch.

13


Chơng II:
Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

1- Nõng cao o c cỏch mng phi gn lin vi quột sch
ch ngha cỏ nhõn.
H Chớ Minh luụn coi o c cỏch mng l mt nhõn t quan trng
quyt nh n s thnh cụng ca cỏch mng Vit Nam. Theo Ngi, o c
cỏch mng giỳp cho con ngi vn vng trong mi th thỏch, cú o c
cỏch mng thỡ gp khú khn, gian kh, tht bi khụng rt rố, lựi bc, khi
gp thun li, thnh cụng vn gi vng tinh thn cht phỏc, khiờm tn.
Chớnh nh coi trng o c cỏch mng m ng ta mi cú c nhng th
h thanh niờn cỏch mng, gỏi cng nh trai, rt hng hỏi, dng cm trong mi
cụng tỏc. Nh vy m ng mi cú th lónh o nhõn dõn ginh nhiu thng

li. Chớnh vỡ vy phi khụng ngng nõng cao o c cỏch mng, cú nh th
ng mi t c nhiu thnh cụng hn na.
Tuy nhiờn mun nõng cao o c cỏch mng trc ht phi quột sch
ch ngha cỏ nhõn. Bi vỡ: Ch ngha cỏ nhõn trỏi ngc vi o c cỏch
mng, nu nú cũn li trong mỡnh, dự l ớt thụi, thỡ nú s ch dp phỏt trin,
che lp o c cỏch mng, ngn tr ta mt lũng mt d u tranh cho
s nghip cỏch mng1. H Chớ Minh cn dn, cỏch mng v nhng ngi
cỏch mng phi chin thng 3 k thự: ch ngha t sn v bn quc; thúi
quen v t tng lc hu; ch ngha cỏ nhõn.
Khi ngi cỏn b mang trong mỡnh ch ngha cỏ nhõn thỡ vic gỡ cng
ngh n li ớch riờng trc ht. H khụng lo mỡnh vỡ mi ngi m ch
mun mi ngi vỡ mỡnh. H tr nờn : ngi gian kh, khú khn, sa vo
tham ụ, h húa, lóng phớ, xa hoa,.... iu ú lm hi n li ớch ca cỏch
mng, ca nhõn dõn. Cú th coi ch ngha cỏ nhõn l mt k ch hung ỏc
ca ch ngha xó hi. Cho nờn thng li ca ch ngha xó hi khụng th
tỏch ri thng li ca u tranh tr b ch ngha cỏ nhõn.
Núi cỏch khỏc, nõng cao o c cỏch mng phi ngn lin vi quột
sch ch ngha cỏ nhõn.

2- Gii phỏp thc hin.
2.1. i vi ng.
2.1.1. Ra sc tng cng giỏo dc trong ton ng.
1

sd, T9, tr 283

14


Nội dung giáo dục ở đây là giáo dục về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về

đường lối, về nhiêm vụ và đạo đức của người đảng viên. Thực chất đây là giải
pháp nhằm thiết lập nền tảng tư tưởng, lý luận, kim chỉ nam cho hành động,
tạo dựng cái nền cái gốc của toàn Đảngvà với mỗi cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đế làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi đảng
viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố lập trường giai cấp
vô sản, cố gắng nắm vững những quy luật của cách mạng Việt Nam, phải luôn
luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản, cần kiệm xây dựng
nước nhà, một lòng một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ
quốc.
Muốn vậy, việc giáo dục cần phải có phương pháp, nội dung cách thức
tổ chức giáo dục đúng đắn.
2.1.2. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong
Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng, là vũ khí sắc bén trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là
phương thuốc hay nhất giúp cho toàn Đảng và mỗi đảng viên sửa chữa khuyết
điểm, phát huy ưu điểm, tiến bộ không ngừng, ngày một mạnh thêm. Người
đòi hỏi: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê
bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ
không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng”1.
Theo Bác, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình chính là phê bình phải
có tình đồng chí thương yêu giúp đỡ nhau, thấu tình đạt lý: “Phê bình mình
cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không
thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng
những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải
phê bình người.”2. Cần tránh lợi dụng phê bình để đạt mục đích tư lợi, tránh
thái độ dĩ hòa vi quý” cho xong chuyện, tránh cực đoan máy móc, có thái độ
thái quá với khuyết điểm.
Bác còn nhấn mạnh “phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng

thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”.
2.1.3. Chế độ sinh hoạt của Đảng phải nghiêm túc, kỉ luật của Đảng
phải nghiêm minh.
1
2

sđd, T5, tr 239
sđd, T5, tr 232

15


Theo Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản là tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất,
là đội tiền phong của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Do đó, chế độ sinh
hoạt đảng từ chi bộ đến cấp cao phải nghiêm túc. Với người cộng sản, sự
nghiêm minh, chặt chẽ không tách rời tinh thần tự nguyện, tự giác. Người
viết: Về kỉ luật, Đảng Lao Động Việt Nam phải có kỉ luật sắt, đồng thời là kỉ
luật tự giác.
“Phải kiên quyết thực hành kỉ luật, tức là cá nhân tuyệt đối phục tùng tổ
chức, số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phải
phục tùng trung ương”
2.1.4. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ.
Công tác kiểm tra chặt chẽ tức là thực hiện có hệ thống, thường
xuyên. Kiểm tra từ trên xuống, từ dưới lên, đánh giá từng cá nhân, từng tổ
chức đảng, tiến tới đánh giá toàn Đảng. Khi kiểm tra phải chon người có uy
tín, có trách nhiệm.
“Phải nghiêm ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành
những nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống lại cái thói nghị quyết một
đường, thi hành một nẻo”. “Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng
thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm,

phát triển ưu điểm” 1.
Như vậy để có thể nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, về phía Đảng phải thực hiện đồng bộ các biện pháp đã nêu, tức là:
“Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng.
Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng
viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải
nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”2.
2.2. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên.
2.2.1. Phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên
hết.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn
cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu
khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá
nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”3.
Theo Bác: “Lợi ích của dân tộc, gồm có lợi ích của Đảng. Lợi ích của
1
2
3

sđd, T5, tr 267 -276
sđd, T12, tr 439
sđd, T9, tr 289

16


Đảng, gồm có lợi ích của đảng viên. Vì vậy, sự phát triển và thành công của
Đảng, một mặt tức là thành công của dân tộc, một mặt tức là thành công của
đảng viên. Vì vậy, chỉ có khi Đảng thành công và thắng lợi, thì đảng viên mới
có thể thành công và thắng lợi. Chính vì vậy mà đảng viên cần phải hy sinh

lợi ích của mình cho lợi ích chung của Đảng”1.
Do đó: “Mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất
định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải
phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi
ích lâu dài. Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết”2.
2.2.2. Về nhận thức tư tưởng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần
đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”3.
Theo Bác: nếu mỗi đảng viên có thái độ rõ ràng đối với chủ nghĩa cá
nhân thì tự nó hình thành nên chủ nghĩa tập thể, trong tổ chức đảng luôn phát
triển, ổn dịnh, đoàn kết, người cán bộ đảng viên nhân cách cũng hoàn thiện
hơn.
Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong
Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”4.
2.2.3. Phải sâu sát thực tế, gắn bó với dân.
Hồ Chí Minh nói: “Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật
sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”5.
Mối quan hệ Đảng - Dân luôn là một nhân tố quyết định thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng
làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên” 6. Thấu hiểu
tầm quan trọng của vấn đề, từ 1954 - 1964, trong vòng 10 năm Bác đã thực
hiện tới 700 cuộc đi về các địa phương, cơ sở, trung bình một lần đi hơn một
1
2
3

4
5
6

sđd, T5, tr 253
sđd, T5, tr 251
sđd, T12, tr 439
sđd, T12, tr 497 - 498
sđd, T12, tr 439
sđd, T5, tr 293

17


lần.
Bác viết: “Hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí,
họ tự cho mình cái gì cũng giái, họ xa dời quần chúng, không muốn học hỏi
quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng”. Đó là những người mắc bệnh
quan liêu, mệnh lệnh theo tư tưởng chủ quan, Bác kịch liệt phê bình lối làm
việc đó. Người gọi cách làm việc đó là làm việc theo cách “khoét chân cho
vừa giầy”; “chân là quần chúng, giầy là cách tổ chức và làm việc của ta. Ai
cũng đóng giầy theo chân không ai đóng chân theo giầy” 1. Người kết luận:
“đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần
chúng hiểu quần chúng lắng nghe ý kiến quần chúng”2
2.2.4. Ra sức học tập nâng cao trình độ.
“Phải cố gắng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt
mọi nhiệm vụ”3.
Bác nói: cán bộ đảng viên đừng có tham, nhưng có một việc việc tham
mà Bác thích đó là ham học, tham làm những việc ích nước lợi dân. Đối với
cán bộ đảng viên quá trình học là quá trình tự nâng cao trình độ, nâng cao sự

hiểu biết, đó là quá trình mang tính đạo đức cách mạng, nhằm phục vụ tốt hơn
cho Đảng và nhân dân. Bác cho rằng: trước hết là học chủ nghĩa Mác - Lênin,
học để làm thế nào đó cán bộ đảng viên biết cách sống với nhau có tình có
nghĩa. Học là học về văn hóa để nghiên cứu hiểu biết về tự nhiên, xã hội; học
về khoa học - kinh tế để không tụt lùi so với cuộc sống; học phương pháp,
phong cách của quần chúng để làm việc với quần chúng. Như vậy học ở Hồ
Chí Minh là học toàn diện, học cả về tri thức, phong cách lãnh đạo, cách sống,
cách đối nhân xử thế. Học như vậy thì chiều sâu đó là chiều sâu về đạo đức.
Trong học đó, Bác luôn nhấn mạnh “học đạo đức là yếu tố hàng đầu”.
Theo Người: “Có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo
đức cách mạng, giữ vững lập truờng nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính
trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình. Bác phê bình những
hiện tướng: “Học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tư tưởng Mác Lênin. Học để trang sức chứ không phải vận dụng vào công việc cách mạng”4

1

sđd, T5, tr 248
sđd, T9, tr 290
3
sđd, T12, tr 439
4
sđd, T9, tr 292
2

18


Chơng III:
giá trị của t tởng nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân


1- Giỏ tr lý lun.
T tng v nõng cao o c cỏch mng, quột sch ch ngha cỏ
nhõn cú mt v trớ quan trng trong h thng t tng m Ch tch H Chớ
Minh li cho ng v nhõn dõn ta. Trong ú Ngi ó cú s tng kt
khỏch quan v o c cỏch mng, v ch ngha cỏ nhõn vi nhng tiờu chớ
ht sc c th, lm cn c ỏnh giỏ o c ca ng v thc trng cỏ
nhõn ch ngha trong ng.
Thụng qua ú Bỏc ó m rng ni hm cụng tỏc xõy dng ng trờn
bn mt: V t tng, v chớnh tr, t chc cỏn b v v o c li sng (xõy
dng ng v li sng tc l vn húa ng). Bn mt ny cú quan h cht
ch vi nhau khụng th tỏch ri. Trong ú o c l gc.

2- Giỏ tr thc tin.
2.1. i vi cỏch mng ng thi.
T tng H Chớ Minh v nõng cao o c cỏch mng, quột sch ch
ngha cỏ nhõn cú ý ngha quan trng i vi cỏch mng Vit Nam khi ú.
Nhng t tng ca Ngi ó cú tỏc ng tớch cc trong vic xõy dng nn
tng o c cỏch mng trong cỏn b ng viờn núi riờng v ụng o qun
chỳng nhõn dõn núi chung. ng thi nhng t tng ú cũn l ũn ỏnh
mnh m vo ch ngha cỏ nhõn, tip thờm sc mnh, sc chin u ca
ng.
T tng ca Ngi v nõng cao o c cỏch mng, quột sch ch
ngha cỏ nhõn c th hin qua nhng tỏc phm bn v o c cỏch mng
v ch ngha cỏ nhõn. Thng nhng tỏc phm ú ra i trong bi cnh c
bit, quan trng i vi cỏch mng Vit Nam. Chớnh vỡ vy nhng t tng
ú mang tớnh chin u cao, k c i vi cỏch mng Vit Nam ngy nay.

2.2. i vi cỏch mng Vit Nam hin nay.
Hin nay, ng ta ang thc hin ng li i mi, a cỏch mng

nc ta vt qua khú khn, thỏch thc, tip tc phỏt trin tin lờn, thu c
nhiu thnh tu to ln. Quỏ trỡnh ú ca t nc cú nhiu thun li nhng
gp cng khụng ớt khú khn th thỏch. iu ú ũi hi ng phi cú s lónh

19


đạo sáng suốt, cần thiết những cán bộ, đảng viên vừa có tài có đức, đóng góp
phát triển nước nhà.
Thế nhưng mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa đã kéo theo
sự đi xuống về phẩm chất đạo đức của một bộ phận không nhỏ những cán bộ
đảng viên. Họ sẵn sáng chịu khuất phục trước sức mạnh đồng tiền, sa vào
tham nhũng, quan liêu, ăn hối lộ,... làm xãi mòn nền tảng đạo đức của Đảng,
gây thiệt hại cho Tổ quốc và nhân dân.
Thực trạng này đã được Hồ Chí Minh cảnh báo từ rất sớm mà nguyên
nhân như Bác đã chỉ rõ, là do một bộ phận cán bộ đảng viên “đang mang
trong mình một ba lô chủ nghĩa cá nhân”1. Vì vậy tư tưỏng Hồ Chí Minh về
nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân có một ý nghĩa
thực tiễn vô cùng to lớn. Việc học tập và làm theo tấm gưong đạo đức Hồ Chí
Minh càng trở nên cấp thiết.
Trong tư tưởng của Người, những biện pháp nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân vẫn còn nguyên giá trị vì đó là những giải
pháp rất cơ bản và thiết thực, Những biện pháp đó luôn được đặt trong các
chương trình nghị sự của Đảng, Nhà nước ta qua các thời kì cách mạng và
được quan tâm sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới .

3- Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay.
3.1. Những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và một số tồn tại hạn
chế trong Đảng hiện nay.

Vận dụng những tư tưởng của Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân ta có thể chỉ ra những biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân trong Đảng hiện nay. Đó là:
+

Phai nhạt lý tưởng, cơ hội chủ nghĩa.

+

Tham nhũng, tham ô, hối lộ, lãng phí.

+
Quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tự cao tự đai, coi thường tập
thể, xem khinh quần chúng.
+
Lợi dụng địa vị, chức quyền, dung túng bao che cho người thân
làm ăn phi pháp, chiếm đoạt tài sản bất chính.
+

Nịnh hót cấp trên, dọa nạt cấp dưới, thành kiến hẹp hòi, bảo thủ trì

trệ.
1

sđd, T7, tr 576

20


+


Phô trương hình thức, chạy theo thành tích, báo cáo sai sự thật.

+
Chạy danh, chạy lợi, chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội,
chạy bằng, chạy tuổi.
+
Địa phương chủ nghĩa, cục bộ bản vị, hành xử theo kiểu phép
vua thua lệ làng.
+

Ngại khó, ngại khổ, tranh công đổ tội, lợi mình hại người.

+

Dĩ hòa vi quý, gió chiều nào theo chiều ấy, thủ tiêu đáu tranh

Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Khoá XI bên cạnh việc chỉ ra những kết quả đã đạt được cũng đã thẳng thắn
chỉ rõ những hạn chế yếu kém của công tác xây dựng Đảng trong thời gian
qua:
“Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít
hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều
nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai
nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo

danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc...”
Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, đồng
chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã thẳng thắn nhận định:
“Về khuyết điểm chủ yếu: Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa ngăn chặn,
khắc phục được tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong
đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả cán bộ cao cấp, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt về lý tưởng, sa vào
chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục
bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc.
Việc một số đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư (cả đương chức và
nguyên chức) có lúc, có việc còn có biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức,
lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh
hưởng đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các
đồng chí đó, đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí

21


thư chưa tập trung chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ, thực chất tình hình để
kịp thời có biện pháp kiên quyết khắc phục một số tiêu cực trong công tác cán
bộ (như chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp…) và đề bạt con một số cán
bộ lãnh đạo không dựa trên năng lực, trình độ và quá trình rèn luyện, gây dư
luận bức xúc”1.
3.2. Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
trong giai đoạn hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh Đảng và Nhà nước đã đề ra một số
biện pháp để có thể nâng cao đạo đức cách mạng và quét sạch chủ nghĩa cá
nhân trong bối cảnh hiện nay.
Một là: “Việc học tâp và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là

nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi
bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên không
ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về
phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ
cấp dưới, đảng viên và nhân dân.
Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc,
trước Đảng và nhân dân, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Các tổ chức Đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng
suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.
Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi
mới và nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến
nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý
nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức,
lối sống”2.
Hai là: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm điểm, đánh giá và
biện pháp giải quyết vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng của các
cấp theo tinh thần Nghị quyết này, tạo niềm tin trong Đảng và nhân dân.
Ba là: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đưa
vào nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp trung ương.
1
2

Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXBCTQG 2011, tr 257-258

22



Bốn là: Chấn chỉnh hoạt động thông tin, tuyên truyền; quản lý có hiệu
quả hoạt động báo chí theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Chú
trọng làm tốt hơn việc nêu gương những người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích
cực để đẩy lùi tiêu cực; đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa
sút về tư tưởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm những
chuẩn mực đạo đức, lối sống... Tập trung chấn chỉnh, quản lý thông tin trên
mạng Internet, các mạng xã hội và blog cá nhân.
Năm là: Cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên
tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá,
dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết
kịp thời. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê
phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ
gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội”1.
Để làm tốt những vấn đề trên trên, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ Tư của Đảng đã chỉ ra ba vấn đề cấp bách trong công tác
xây dựng Đảng như sau:
Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của
nhân dân đối với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp
trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong thời gian qua, các cấp uỷ đảng và mỗi Đảng viên từ Trung ương

đến địa phương đã nghiêm túc triển khai việc kiểm điểm tự phê bình và phê
bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI của Đảng. Chính điều đó đã góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và củng cố lòng tin của các tầng
lớp nhân dân đối với Đảng.

1

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng khoá XI

23


c. kÕt luËn.
Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhân
dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong cả xây dựng và bảo vệ đất
nước. Trong mỗi bước trưởng thành của Đảng, của đất nước đều in đậm
những giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng tư tưởng của
Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng tiến lên trong một thế giới
nhiều biến động.
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, trong bối cảnh tình hình
thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp hiện nay, sứ mệnh lịch sử
của Đảng ta hết sức to lớn, đòi hỏi Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên, có đạo đức cách mạng và trí tuệ ngang tầm với yêu cầu nhiệm
vụ. Điều này càng trở nên hết sức cấp bách và nặng nề, khi một bộ phận
không nhỏ cỏn bộ đảng viên suy thoái tư tuởng chính trị, đạo đức, lối sống...
sa vào tham ô, tham nhũng, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân, gây hại cho
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng chứng tỏ giá trị
triết học - thực tiễn và nhân văn sâu sắc, thiết thực đối với Đảng ta, nhất là

trong việc quét sạch chủ nghĩa cá nhân, trong việc xây dựng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng ta ngày càng xứng đáng
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ hết sức trung thành hết lòng phục
vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
---------//---------

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 1996, tập 5.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 1996, tập 7.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 1996, tập 9.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 1996, tập 12.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXBCTQG 2011.
6. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng khoá XI.
7. Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI.
8. HCM về Xây dựng Đảng (NXB Sự thật, 1980).

25


×