BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NGUYỄN THỊ MINH XEN
GÂY CƯỜI BẰNG PHƯƠNG TIỆN
LOGIC TRONG TRUYỆN CƯỜI
DÂN GIAN VIỆT NAM
(TRÊN QUAN ĐIỂM NGỮ DỤNG HỌC)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
SƠN LA, NĂM 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NGUYỄN THỊ MINH XEN
GÂY CƢỜI BẰNG PHƢƠNG TIỆN
LOGIC TRONG TRUYỆN CƢỜI
DÂN GIAN VIỆT NAM
(TRÊN QUAN ĐIỂM NGỮ DỤNG HỌC)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60220102
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN HOÀNG YẾN
SƠN LA, NĂM 2015
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của
Trường Đại học Tây Bắc, lãnh đạo Sở, Phòng cùng Ban lãnh đạo khoa Ngữ
văn Trường Đại học Tây Bắc đã tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp đỡ tôi hoàn
thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy giáo,
TS. Nguyễn Hoàng Yến - người đã truyền cho tôi lòng say mê nghiên cứu
khoa học, tình yêu nghề, tinh thần làm việc nghiêm túc và đã nhiệt tình chỉ
bảo cho tôi những kiến thức mới mẻ trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô đã giúp đỡ tôi trong quá trình
làm nghiên cứu.
Sau cùng tôi xin gửi lời tri ân tới gia đình, bạn bè, những người luôn bên
cạnh chia sẻ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Sơn La, tháng 10 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Xen
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Gây cƣời bằng phƣơng tiện logic trong
truyện cƣời dân gian Việt Nam (trên quan điểm ngữ dụng học) mà tôi
nghiên cứu là có đóng góp mới. Đề tài luận văn, các số liệu, kết quả nghiên
cứu , kết luận của luận văn là của riêng tôi, không trùng lặp với các công trình
đã bảo vệ trước đây.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............... 5
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 5
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 6
3.3.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 6
3.3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu và ngữ liệu ............................................................ 6
4.1. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 6
4.2. Tư liệu khảo sát .......................................................................................... 7
5. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 7
5.1. Về mặt lí luận ............................................................................................. 7
5.2. Về mặt thực tiễn ......................................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 7
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI ............................................................................................................. 9
1.1. Logic học – điểm tựa trong nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên ...................... 9
1.1.1. Khái niệm logic ....................................................................................... 9
1.1.2. Mối quan hệ giữa logic và ngôn ngữ .................................................... 10
1.1.3. Những hệ thống logic được sử dụng trong nghiên cứu ngôn ngữ ............... 13
1.2. Các nguyên tắc ngữ dụng ........................................................................... 26
1.2.1. Chiếu vật và chỉ xuất ............................................................................... 26
1.2.2. Lập luận ................................................................................................. 33
1.2.3. Các phương châm hội thoại .................................................................. 40
1.3. Tiểu kết chương........................................................................................ 43
CHƢƠNG 2. GÂY CƢỜI BẰNG PHƢƠNG TIỆN NGÔN NGỮ VÀ
GÂY CƢỜI BẰNG PHƢƠNG TIỆN LOGIC TRONG TRUYỆN CƢỜI
DÂN GIAN VIỆT NAM ............................................................................... 44
2.1. Gây cười bằng phương tiện ngôn ngữ trong truyện cười dân gian Việt Nam.. 45
2.1.1. Gây cười bằng phép tu từ chơi chữ về phương tiện ngữ âm và chữ viết .. 45
2.1.2. Gây cười bằng phép tu từ theo lối phóng đại ........................................ 50
2.2. Gây cười bằng phương tiện logic trong truyện cười dân gian Việt Nam .... 51
2.2.1. Gây cười xét trong quan hệ với việc giải đoán hàm ý .......................... 54
2.2.2. Gây cười do việc thực hiện nguyên tắc cộng tác bị chặn ..................... 55
2.2.3. Cơ chế tạo nghĩa hàm ẩn – nguyên nhân tạo nên những hiện tượng phi logic
......................................................................................................................... 57
2.3. So sánh gây cười bằng phương tiện ngôn ngữ và gây cười bằng phương tiện
logic trong truyện cười dân gian Việt Nam ........................................................ 76
2.4. Tiểu kết chương .......................................................................................... 78
CHƢƠNG 3. LOGIC TRONG TRUYỆN CƢỜI DÂN GIAN VIỆT NAM
......................................................................................................................... 80
3.1. Nhận xét chung .......................................................................................... 80
3.2. Các loại logic trong truyện cười dân gian Việt Nam ............................... 81
3.2.1. Logic chống chế ngụy biện ................................................................... 81
3.2.2. Logic suy luận ....................................................................................... 86
3.2.3. Logic mặc nhiên thừa nhận .................................................................... 93
3.2.4. Logic lập lờ ........................................................................................... 98
3.2.5. Logic tính cách ...................................................................................... 103
3.3. Tiểu kết chương............................................................................................108
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Logic học là khoa học nghiên cứu những quy luật và hình thức suy
luận của tư duy nhằm đi tới nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan. Logic
học phát triển từ rất sớm và đạt được rất nhiều thành tựu, song chủ yếu ở lĩnh
vực toán học. Đến nửa cuối thế kỉ XX, những phương pháp toán học mới
được vận dụng vào nghiên cứu các ngành khoa học xã hội mà đầu tiên là ngôn
ngữ học. Sự xâm nhập mạnh mẽ của các phương pháp toán học đã dẫn đến
việc các phương pháp và các loại logic khác nhau được vận dụng rất nhiều
trong những khảo cứu ngôn ngữ. Logic trở thành một điểm tựa trong việc
nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên. Mối quan hệ giữa logic học và ngôn ngữ học
ngày càng trở nên gắn bó, hấp dẫn các nhà nghiên cứu khám phá, tìm hiểu.
Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ học trên cơ sở logic học cũng
đang được quan tâm chú ý. Các nhà logic học, ngôn ngữ học đã tiến hành xem
xét tập hợp những vấn đề lí thuyết logic, và đặc biệt có sự so sánh với ngôn
ngữ. Những công trình nghiên cứu về logic ngôn ngữ học đã hé mở những
vấn đề vô cùng thú vị, hấp dẫn. Cho nên, mặc dù biết việc vận dụng logic học
vào ngôn ngữ không phải là một việc đơn giản, dễ dàng nhưng chúng tôi vẫn
quyết định chọn đề tài theo hướng logic của ngôn ngữ học.
1.2. Truyện cười dân gian Việt Nam là một bộ phận quan trọng của văn
học dân gian được đưa vào giảng dạy ở các cấp học từ phổ thông đến đại học.
Hiện nay, tiếng cười được khai thác ở nhiều góc độ. Hướng khai thác các
truyện cười từ các góc độ ngữ dụng ngày càng được quan tâm và phát triển
bên cạnh những cách làm đã có từ lâu thuộc về văn học. Vì vậy, nguyên nhân
có tiếng cười, phương thức tạo ra tiếng cười…đó là vấn đề chúng tôi thực sự
quan tâm. Mặt khác truyện cười được xây dựng trên nhiều thủ pháp nghệ
thuật, trong đó phổ biến là gây cười bằng sự vi phạm các quy tắc chiếu vật,
1
chỉ xuất, quy tắc lập luận và quy tắc hội thoại. Tuy nhiên gây cười bằng
phương tiện logic thì chưa được quan tâm thỏa đáng dưới góc độ ngôn ngữ
học. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Gây cười bằng
phương tiện logic trong truyện cười dân gian Việt Nam”(trên quan điểm ngữ
dụng học). Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho
những người yêu thích và quan tâm để truyện cười có thêm tư liệu hữu ích
trong nghiên cứu và giảng dạy truyện cười.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện cười xuất hiện từ rất sớm và có vai trò quan trọng trong đời
sống. Nó giúp cho việc giải trí lành mạnh và bồi dưỡng phẩm chất lạc quan
cho con người, góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc. Ở nước ta đã có nhiều công trình đề cập tới truyện cười ở góc độ ngôn
ngữ học. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau (theo hiểu biết của
chúng tôi).
- Hành trình vào xứ sở cười của Nguyễn Đức Dân, NxbGD, năm 1996.
- Cái hay trong truyện cười dân gian, luận án Phó tiến sĩ Khoa học Ngữ
văn của Nguyễn An Tiêm, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
năm 1996.
- Truyện cười dân gian Việt Nam dưới góc độ dụng học, luận án Tiến sĩ Ngôn
ngữ học của Nguyễn Hoàng Yến, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam năm 2011.
Các công trình kể trên đã nghiên cứu truyện cười dân gian theo hướng
phân tích kết cấu, các thủ pháp sử dụng ngôn ngữ nhằm mục đích gây cười,
việc nghiên cứu biện pháp gây cười bằng phương tiện logic một cách có hệ
thống trong bộ môn khoa học liên ngành logic - ngôn ngữ học thì chưa thật rõ.
Logic là một khoa học có tính lịch sử phát triển từ lâu đời gắn với tên tuổi nhà
bác học vĩ đại của Hi Lạp Aristote (384-322 TCN). Logic học ngày càng
được hoàn thiện hơn qua các giai đoạn: thời cổ đại, thời trung đại, thời phục
2
hưng và cho đến thời hiện đại. Song phải đến nửa cuối thế kỉ XX, logic học
mới xâm nhập mạnh mẽ vào các ngành khoa học xã hội trong đó có ngôn ngữ
học. Các phương pháp, các loại logic khác nhau đã được vận dụng rất nhiều
và thành công trong những khảo cứu ngôn ngữ trên thế giới.
Ở Việt Nam, phải đến năm 1987 cuốn sách logic - Ngữ nghĩa - cú
pháp của Nguyễn Đức Dân mới được xuất bản và những kiến thức cơ bản về
logic. Phép tính mệnh đề, phép tính lượng từ, logic tình thái, logic suy
luận…bước đầu được trình bày một cách có hệ thống. Do khuôn khổ có hạn
mà cuốn sách chưa đề cập tới những vấn đề logic hiện đại đang có đầy ứng
dụng hiệu quả trong ngôn ngữ học gần hai thập kỉ qua. Đó là logic đa trị,
logic mờ.
Trên nền tảng cuốn sách trên, năm 1998, Nguyễn Đức Dân đã cho ra
đời cuốn sách logic và tiếng Việt - Nxb Giáo dục. Cuốn sách đã khắc phục
được phần thiếu sót của “logic - ngữ nghĩa - cú pháp”, đồng thời chỉ ra mối
quan hệ tất yếu thú vị của ngôn ngữ tiếng Việt từ cái nhìn logic. Ở logic và
tiếng Việt, tác giả đã chỉ ra những hiện tượng thú vị của ngôn ngữ tiếng Việt
như hư từ, logic và sự tri nhận, logic của những hiện tượng phi logic…
Năm 2003, Hoàng Phê đã tái bản có sửa chữa cuốn sách logic - Ngôn
ngữ học góp phần tạo nền tảng cơ sở cho sự ra đời của bộ môn khoa học liên
ngành: logic học và ngôn ngữ học. Cuốn sách khẳng định sự tồn tại của logic
ngôn ngữ tự nhiên và đặt ra yêu cầu vận dụng các phương pháp logic để miêu
tả nhận diện.
Cũng trong năm 2003 tác giả Hồ Lê đã cho ra đời cuốn Quy luật ngôn
ngữ. (Quyển II: Bản thể ngôn ngữ, Nxb Khoa học xã hội, 2004). Trong
cuốn sách này có một phần viết về logic và gợi mở nhiều vấn đề thú vị. Tác
giả đã bắt đầu nhắc đến việc tồn tại “logic của sự nghiêm túc” và “logic sự nói
3
cười đùa”. Ở logic lời nói bông đùa, tác giả đã dẫn ra một số cách nói bông
đùa, đùa cợt làm ví dụ.
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Con gà ngậm rượu nuốt người lao đao
Song tác giả mới chỉ nhận xét chung: “Như vậy, logic ngôn từ đùa cợt
phải được xây dựng theo một hướng riêng, không thể giống – thậm chí có khi
còn trái ngược – với logic ngôn từ trong lời nói nghiêm túc” [29, 547]. Nhận
xét này đã bước đầu thừa nhận sự tồn tại của logic trong những câu chuyện
vui đùa, công nhận “logic trong những câu chuyện đùa cợt” là một lĩnh vực
rộng “Lâu nay chưa có chuyên đề đi sâu nghiên cứu nó. Nhưng nó lại có một
vị trí quan trọng trong đời sống” [29, 686].
Trên cơ sở những nền tảng lí thuyết nêu trên, giới nghiên cứu ngôn
ngữ đã có nhiều nỗ lực cố gắng trong việc đi sâu khám phá logic ngôn ngữ tự
nhiên. Song những khám phá đó mới chỉ dừng lại ở cấp độ câu từ riêng lẻ.
Vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu logic văn bản, xem xét
logic trong phạm vi một văn bản hoàn chỉnh.
Trong khả năng và điều kiện có thể, chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu việc
gây cười bằng phương tiện logic trong truyện cười dân gian Việt Nam. Việc
nghiên cứu truyện cười từ trước tới nay chủ yếu xoay quanh mục đích gây
cười, nội dung gây cười, nghệ thuật gây cười… do các nhà nghiên cứu văn
học dân gian tiến hành. Từ góc độ ngôn ngữ học mới chỉ có luận văn thạc sĩ
của Nguyễn Thị Dung, ĐHSP Hà Nội, 1993, nghiên cứu các cơ chế gây cười
nói chung từ lí thuyết hội thoại và một số luận văn thạc sĩ khác.
Việc tìm hiểu logic trong truyện cười dân gian Việt Nam là một việc
làm hấp dẫn song vô cùng khó khăn. Tác giả Hoàng Phê trong bài Logic ngôn
4
ngữ học đã đề cập đến những hiện tượng được coi là mơ hồ khó hiểu song
vẫn có logic. Logic của sự kiện, tình huống đó được đặt trong những mối
quan hệ với những tri thức phổ thông của người đọc, gắn với tình huống, văn
cảnh riêng của văn bản. Lắm khi cái gọi là phi logic thật ra là cái logic mà
chúng ta chƣa phát hiện ra [35, 166]. Do đó, chắc chắn tồn tại những loại
logic khác nhau trong mọi tình huống, hoàn cảnh, ngay cả những hiện tượng
vốn bị coi là “phi logic” nhất định cũng có logic riêng.
Từ những gợi ý của tác giả Hoàng Phê và Hồ Lê, chúng tôi tin rằng
những hiện tượng phi logic do vi phạm các quy tắc ngữ dụng nhằm mục đích
gây cười trong truyện cười dân gian Việt Nam chắc chắn cũng có những logic
riêng của nó. Với suy nghĩ đó chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu:
Gây cƣời bằng phƣơng tiện logic trong truyện cƣời dân gian Việt Nam
(trên quan điểm ngữ dụng học)
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lí thuyết cơ bản về logic học và ngữ dụng học vận dụng vào
tìm hiểu biện pháp gây cười bằng phương tiện logic trong truyện cười dân
gian Việt Nam, chỉ ra được một phần sự hấp dẫn của logic ngôn ngữ học nói
chung và logic trong truyện cười dân gian Việt Nam nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thống kê những truyện cười dân gian có cơ chế gây cười do vi phạm
các nguyên tắc ngữ dụng.
- Tập hợp kiến thức có liên quan đến đề tài (các quy tắc ngữ dụng,
các kiến thức về logic học và tình hình vận dụng logic trong nghiên cứu
ngôn ngữ).
- Phân loại và miêu tả các loại logic của những hiện tượng phi logic do
vi phạm các nguyên tắc ngữ dụng trên nền tảng tư liệu và kiến thức đã có.
5
- Tìm hiểu logic trình bày của truyện cười dân gian Việt Nam như một
phương tiện góp phần tạo nên logic của những hiện tượng phi logic gây cười
đã được nhận diện.
- Nhận xét chung về gây cười bằng phương tiện logic trong truyện cười
dân gian Việt Nam.
3.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là biện pháp gây cười bằng phương
tiện logic trên quan điểm ngữ dụng học trong truyện cười dân gian Việt Nam.
3.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Logic có rất nhiều loại song trong phạm vi luận văn này, chúng tôi
chủ yếu đề cập đến hai loại logic, đó là: logic đối tượng và logic trình bày.
Hơn nữa, trên thực tế vấn đề logic rất khó nhận biết. Các hiện tượng logic chỉ
được thực sự nhận diện rõ nét qua những hiện tượng được xem là phi logic.
Do đó, chúng tôi chỉ tiến hành tìm hiểu gây cười bằng phương tiện logic trong
truyện cười dân gian Việt Nam qua hiện tượng phi logic do phạm vi các quy
tắc ngữ dụng.
- Khối lượng các truyện cười Việt Nam ngày càng gia tăng do được bổ
sung từ nhiều nguồn khác nhau. Không chỉ có truyện cười dân gian mà còn có
truyện cười hiện đại, không chỉ là truyện cười trong nước mà còn có truyện
cười thế giới. Ở đề tài này, chúng tôi chỉ xét logic của những hiện tượng phi
logic trong truyện cười dân gian Việt Nam. Cụ thể, tư liệu khảo sát chủ yếu là
cuốn sách Tiếng cười dân gian Việt Nam do Trương Chính - Phong Châu sưu
tầm và tuyển chọn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và ngữ liệu
4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp miêu tả
6
- Phương pháp thống kê phân loại
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
4.2. Tƣ liệu khảo sát
Tư liệu khảo sát bao bao gồm 215 truyện trong mục 1. Truyện cƣời
của chương một có cùng tên Truyện cười trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
(do Trương Chính - Phong Châu sưu tầm và tuyển chọn).
Ngoài ra các cuốn sách sau cũng được xem xét và lựa chọn:
- Kho tàng truyện tiếu lâm Việt Nam của Nguyễn Cừ, Nxb Văn học,
Hà Nội, 2001.
- Kho tàng truyện tiếu lâm của Lương Kim Nghĩa, Nxb Thời đại, Hà
Nội, 2012.
5. Đóng góp của đề tài
5.1. Về mặt lí luận
Góp thêm một minh chứng về một bộ môn khoa học liên ngành mới,
logic - ngôn ngữ học.
5.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao
chất lượng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày, đồng thời giúp cho
việc học tập truyện cười dân gian Việt Nam có thêm một tài liệu tham khảo.
Cuối cùng là sự đóng góp với tư cách là một kiểu phân tích các tác
phẩm văn chương và phi văn chương được giảng dạy trong nhà trường, giúp
cho quá trình phân tích trong giảng dạy có cơ sở vững chắc và rõ ràng.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài
7
Tại chương này, chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề lí thuyết được coi
là có quan hệ với đề tài:
1.1. Logic học - điểm tựa trong nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên
1.2. Các nguyên tắc ngữ dụng
Chương 2. Gây cười bằng phương tiện ngôn ngữ và gây cười bằng
phương tiện logic trong truyện cười dân gian Việt Nam
Ở chương này chúng tôi tìm hiểu và xác định những truyện cười được
gây cười bằng phương tiện ngôn ngữ và đặc biệt quan tâm đến gây cười bằng
phương tiện logic. Sau khi xác định chúng tôi tiến hành phân tích các truyện,
nhận xét, rút ra tiểu kết.
Chương 3. Logic trong truyện cười dân gian Việt Nam
Ở chương này, chúng tôi tìm hiểu và xác định những truyện cười được
gây cười bằng phương pháp tạo ra cái hợp lí một cách bất ngờ và những
truyện cười được gây cười bằng thủ pháp tạo ra cái sai về logic. Trường hợp
thứ hai (gây cười bằng cách tạo ra cái sai về logic - cái phi logic) được chúng
tôi đặc biệt quan tâm. Sau khi xác định chúng tôi tiến hành phân tích các
truyện, nhận xét, rút ra kết luận.
Trên tinh thần đó những kiểu tạo ra cái sai (do tác giả hư cấu tạo nên) sẽ
được xếp thành từng loại và chúng tôi thử đặt tên.
Trong văn học dân gian nước ta có những truyện cười gây cười bằng thủ
pháp tạo ra cái hợp logic một cách bất ngờ, song vì số lượng của chúng ít và hiệu
quả nghệ thuật không cao nên chúng tôi chỉ đề cập đến những truyện cười được
gây cười bằng thủ pháp tạo ra cái sai về logic (cái phi logic).
Cái sai về logic, trong một số truyện cười dân gian Việt Nam, không chỉ là
đối tượng của tiếng cười mà còn là phương tiện để gây cười. Người ta cười là vì
phát hiện ra cái sai, và do đó, muốn gây cười phải tạo ra cái sai, cái sai đang nói
không phải là cái sai thông thường mà là cái sai nghệ thuật, cái sai đặc biệt.
8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Từ nửa cuối thế kỉ XX xuất hiện nghiên cứu liên ngành. Đặc biệt việc
vận dụng logic vào nghiên cứu ngôn ngữ đạt được nhiều thành tựu đáng ghi
nhận. Logic đã được coi như “một điểm tựa trong nghiên cứu ngôn ngữ tự
nhiên” [35, 15].
Trong những năm gần đây có một vấn đề hấp dẫn đối với các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ học. Đó là sự chuẩn bị ra đời của bộ môn logic ngôn
ngữ học. Mối quan hệ giữa logic và ngôn ngữ là mối quan hệ đa dạng, phức
tạp không dễ gì khai phá hết. Lí thuyết về logic học giúp cho việc khảo cứu
ngôn ngữ tìm ra được nhiều vấn đề thú vị. Ngược lại, ngôn ngữ cũng giúp
logic có dịp soi chiếu lại những tri thức đã có.
Nói về lý thuyết logic và lý thuyết ngôn ngữ sẽ là vô cùng rộng lớn
phức tạp. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ xin trình bày một số vấn đề
lí thuyết có liên quan đến đề tài.
1.1. Logic học – điểm tựa trong nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên
1.1.1. Khái niệm logic
Về từ nguyên, trong tiếng Hi Lạp có thuật ngữ logike với ý nghĩa là
một khoa học về tư duy. Thuật ngữ này lại bắt nguồn từ một từ khác: logos có nghĩa là lời nói, lí lẽ, trí tuệ. Thuật ngữ logike đi vào tiếng La Tinh thành
logica. Từ này là nguồn gốc của hàng loạt từ cùng nghĩa trong các ngôn ngữ ở
Châu Âu: logika (Nga, Ba Lan), logic (Anh), logique (Pháp)…
Trong Tiếng Việt từ Lô ghích (thường viết “logic”) bắt nguồn từ
logique - một từ của Pháp xuất hiện vào khoảng thế kỉ XIII gốc La Tinh.
Thuật ngữ logic học trước đây còn được gọi là “lí luận học”, “lí học”.
Về ý nghĩa: Từ logic được dùng với 2 ý nghĩa sau:
9
a. Khoa học về hình thức và quy luật của tư duy. Người ta cũng thường
nói: “logic là khoa học về tư duy, về những suy luận đúng đắn”.
b. Những mối liên hệ tất yếu có tính quy luật giữa các sự vật và các
hiện tượng trong thực tế khách quan cũng như giữa những ý nghĩ, tư tưởng
trong tư duy, trong lập luận của con người. Cho nên chúng ta gặp những lối
nói như “logic của sự kiện”,“logic của quá trình phát triển”…
Một số chuyên ngành khoa học khác cũng nghiên cứu về tư duy như:
tâm lí học, sư phạm học, sinh lý học, thần kinh cao cấp, trí tuệ nhân tạo, triết
học …Tuy nhiên, logic học nghiên cứu những qui luật và hình thức suy luận
của tư duy nhằm đi tới sự nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan.
Logic cung cấp cho ta một công cụ, phân tích, tìm hiểu, trả lời những
thắc mắc về mọi hiện tượng “có lí” hay “phi lí” trong cuộc sống, giúp ta biết
cách bác bỏ những lập luận sai lầm hoặc ngụy biện. Nó cung cấp cho ta một
công cụ tư duy sắc bén, biết cách phân tích tìm ra được bản chất của sự kiện,
và do đó, đạt hiệu quả cao trong nghiên cứu khoa học.
1.1.2. Mối quan hệ giữa logic và ngôn ngữ
Trong nửa cuối của thế kỷ XX có sự xâm nhập mạnh mẽ của toán học
vào các ngành khoa học xã hội. Ngôn ngữ tự nhiên có thể được mô hình hóa
theo phương pháp thống kê. Do đó, ngôn ngữ là lĩnh vực đầu tiên mà các
phương pháp toán học đã vận dụng để nghiên cứu và đạt được những thành
công đặc biệt có ý nghĩa trong nhiều công trình. Chính do việc đi tìm quy luật
về sự chuyển đổi luân phiên các phụ âm và nguyên âm trong tác phẩm
Epghênhi Ônhêghin của văn hào Nga Puskin mà nảy sinh ra lí thuyết toán học
mang tên “xích Markov”. Từ đây, N. Chomsky xây dựng mô hình ngôn ngữ
đầu tiên của mình mang tên “Ngữ pháp các trạng thái hữu hạn”. Lí thuyết
thông tin của ngôn ngữ tự nhiên, phương pháp đại số, đặc biệt là lí thuyết tập
hợp được vận dụng để xây dựng các mô hình ngôn ngữ mang tên “các mô
10
hình phân tích” (Anylytical models). Dùng lí thuyết ôtômát, N. Chomsky
cũng xây dựng các ngữ pháp hình thức của ngôn ngữ tự nhiên, chẳng hạn
“ngữ pháp phi ngữ cảnh” CFG (Context – Free Grammar), “ngữ pháp ngữ
cảnh” CSG (Context – Sensitive Grammar),… Lí thuyết tôpô, lí thuyết kì dị
cũng được vận dụng để nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên.
Đặc biệt các phương pháp và các loại logic khác nhau được vận dụng
để nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên.
Có một mối quan hệ chặt chẽ giữa logic và ngôn ngữ tự nhiên. Đối
tượng của logic hình thức là cấu trúc hình thức khái quát và quy luật của tư
duy. Trong logic người ta xây dựng những khái niệm, phán đoán, các phương
pháp suy luận, nêu giả thuyết, chứng minh, bác bỏ…Con người không thể tư
duy nếu không dùng ngôn ngữ. Khái niệm được thể hiện bằng từ ngữ, phán
đoán được thể hiện bằng câu, phép suy luận được thể hiện bằng chuỗi câu. Cho
nên, ngôn ngữ là công cụ để tư duy - công cụ quan trọng nhất để giao tiếp.
Giao tiếp là quá trình phát và nhận thông tin. Trong giao tiếp con người
cũng thông báo, biểu đạt tư tưởng, cũng chứng minh, cũng thuyết phục, cũng lập
luận, chất vấn, nghi ngờ, bác bỏ…nghĩa là chúng ta cũng tư duy. Do vậy cũng có
những quy luật ngôn từ để biểu hiện, phản ánh tư duy và tiếp nhận thông tin.
Logic và ngôn ngữ đều là những hệ thống kí hiệu, giữa chúng có nhiều
điểm giống và khác nhau.
Về kí hiệu:
- Kí hiệu logic: là những kí hiệu nhân tạo và hình thức. Do vậy, là
những kí hiệu thuần nhất, đơn trị, bất biến.
- Kí hiệu ngôn ngữ: Là những kí hiệu tự nhiên. Do vậy, không thuần
nhất không bất biến. Nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác thay đổi theo
thời gian, thời đại, thay đổi theo không gian tạo ra các vùng phương ngữ, thay
đổi theo giới tính nghề nghiệp, trình độ văn hóa.
11
Về đơn vị:
Logic và ngôn ngữ có những đơn vị cơ bản chung. Hai đơn vị cơ bản
của logic là khái niệm và phán đoán. Hai đơn vị cơ bản này tương ứng với từ
và câu trong ngôn ngữ. Tuy nhiên trong ngôn ngữ có âm vị, hình vị. Khái
niệm thường thể hiện bằng từ, song cũng có những khái niệm thể hiện bằng
cụm từ. Lại có những lớp từ, như những hư từ, không thể dùng khái niệm để
biểu thị khái niệm nào. Phán đoán cũng chỉ tương ứng với câu tường thuật mà
thôi. Trong ngôn ngữ còn có những loại câu khác không phải là phán đoán:
câu cảm thán, câu mệnh lệnh, câu nghi vấn.
Về cú pháp:
Logic dùng các từ logic (liên từ logic) để tạo phán đoán mới từ một
hoặc nhiều phán đoán đã biết. Ngôn ngữ có những liên từ logic tương ứng và
có chức năng tương tự như các liên từ logic.
Sự khác nhau căn bản giữa logic và ngôn ngữ ở điểm sau:
- Trong logic người ta quan tâm đến giá trị chân lí của các phán đoán.
Giá trị chân lí của các phán đoán lại được xác định qua các phán đoán thành
phần của nó. Do vậy mà các liên từ logic được định nghĩa qua bảng giá trị
chân lí cho từng khả năng tổ hợp của các giá trị chân lí của hai phán đoán
thành phần.
- Trong khi đó, ở ngôn ngữ tự nhiên, một câu ngoài việc có cấu tạo
đúng theo quy tắc ngữ pháp còn cần phải đúng về phương diện ngữ nghĩa.
Tóm lại, trong ngôn ngữ có những cách khác nhau để diễn đạt cùng
một nội dung với những sắc thái ý nghĩa khác nhau (các từ đồng nghĩa, câu
đồng nghĩa). Và cũng có những trường hợp, cùng một biểu thức nhưng có thể
diễn đạt nội dung khác nhau (từ đồng âm, câu mơ hồ). Nghĩa là từ đồng âm có
hiện tượng đa trị về cấu trúc.
Về quy luật:
12
Những quy luật, quy tắc của logic hình thức là những quy luật, quy tắc hình
thức phổ quát và cố định. Còn những quy luật, quy tắc của ngôn ngữ, bên cạnh đặc
điểm hình thức còn phụ thuộc vào nội dung. Bên cạnh những quy tắc phổ quát
chung cho mọi ngôn ngữ còn có những quy tắc đặc thù cho một nhóm hoặc cho
riêng một ngôn ngữ. Những quy tắc này cũng không bất biến, nó thay đổi theo thời
gian, theo không gian.
Ví dụ: - Bạn Mai học giỏi quá!
- Con nhà giáo mà!
Người nói câu thứ hai bày tỏ sự đồng tình với ý kiến vừa nói đồng thời giải
thích lý do vì sao bạn Mai học giỏi. Chúng ta nói đó là hành vi giải thích. Cũng
hành vi này, ở phương ngữ Bắc Bộ có thể thêm từ lại vào cuối. Nghĩa là nói: Con
nhà giáo mà lại! Phương ngữ Nam Bộ không chấp nhận lối nói này. Như vậy là
có khác biệt giữa hai phương ngữ.
Phép suy luận trong logic thì hoàn toàn hình thức còn phép suy luận trong
ngôn ngữ, ngoài suy luận hình thức như trong logic, con người còn suy luận qua từ
ngữ, qua tri thức và kinh nghiệm.
Ví dụ:
- Em tưởng anh ấy tốt với em à?
Trong câu này nhờ từ “tưởng” mà ta suy luận là anh ấy không tốt với em.
Như vậy mối quan hệ giữa logic và ngôn ngữ là mối quan hệ qua lại. Nhờ logic mà
những hiện tượng ngôn ngữ được lí giải, miêu tả, phân biệt, và ngược lại, qua việc
vận dụng các hệ thống logic vào nghiên cứu ngôn ngữ những hệ thống logic tự
chúng cũng hoàn thiện hơn. Điều này cũng cho thấy sự tồn tại của logic ngôn ngữ
toán học, văn học…và mỗi hệ thống logic này mang lại những đặc trưng riêng.
1.1.3. Những hệ thống logic đƣợc sử dụng trong nghiên cứu ngôn ngữ
Có rất nhiều hệ thống logic được sử dụng trong nghiên cứu ngôn ngữ,
miêu tả ngôn ngữ tự nhiên như: logic mệnh đề, logic đa trị, logic tình thái,
13
logic thời gian, logic mờ…Trong luận văn chỉ trình bày cụ thể những loại
logic được vận dụng vào nghiên cứu, còn những loại logic khác chúng tôi xin
chỉ kể tên. Đặc biệt luận văn đi vào nghiên cứu tìm hiểu logic vẫn thường gặp
trong văn bản là logic đối tượng và logic trình bày. Những lí thuyết này chúng
tôi dựa vào cuốn “Logic và Tiếng Việt” của Nguyễn Đức Dân, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1998.
1.1.3.1. Logic mệnh đề
Mệnh đề (cũng gọi là phán đoán) là một hình thức thức cơ bản của tư
duy, dưới dạng khẳng định hoặc phủ định, thể hiện nhận thức của con người
về thế giới khách quan. Mệnh đề thường nhận hai giá trị đúng hoặc sai. Một
biểu thức mệnh đề được tạo ra từ một hoặc nhiều mệnh đề bằng những phép
toán mệnh đề.
Ví dụ: Mệnh đề được biểu hiện dưới dạng câu tường thuật
a, A viết sách
b, B đọc truyện
Nhận thức đó có thể phù hợp với thế giới khách quan (mệnh đề có giá
trị đúng hay gọn hơn: mệnh đề đúng) hoặc không (mệnh đề có giá trị sai hay
gọn hơn: mệnh đề sai). Như vậy, một mệnh đề sẽ có một trong hai giá trị,
đúng hoặc sai.
Biểu thức mệnh đề: Một mệnh đề được tạo ra từ một hoặc nhiều mệnh đề
bằng những phép toán mệnh đề (còn gọi tác tử mệnh đề) được gọi là một biểu
thức mệnh đề. Các phép toán này liên kết các mệnh đề lại trong mỗi biểu thức.
Ví dụ: Từ hai phán đoán trên đây, ta có các biểu thức, chẳng hạn:
c, A không viết sách
d, A viết sách và B đọc truyện
đ, A viết sách hoặc B đọc truyện
e, Nếu A viết sách thì B đọc truyện
14
g, Nếu A không viết sách thì B đọc truyện.
1.1.3.2. Logic vị từ
Logic vị từ là loại logic cho phép biểu hiện cấu trúc nội tại của mệnh đề
đúng với bản chất logic của chúng.
Ví dụ, trong hai câu sau:
(1). Một bức ảnh đặt ở trên tường.
(2). Một bức ảnh treo ở trên tường.
Theo ngữ pháp truyền thống, cấu trúc hai cặp trên là hoàn toàn giống
nhau. Tuy nhiên, nhờ logic vị từ ta nhận ra sự khác nhau về bản chất. Trong (1)
bức ảnh là chủ thể logic của hành động “đặt”, còn trong câu (2) bức ảnh lại là
chủ thể logic của hành động “treo”.
Như vậy, logic vị từ cho phép miêu tả một câu theo những cách khác nhau
song bản chất logic lại giống nhau.
1.1.3.3. Logic tình thái
The S.C.Kleene, logic tình thái xuất hiện trong những sự kiện có hai khả
năng, ứng với hai giá trị chân lí, trong đó một khả năng lại hiển nhiên hơn khả
năng kia. Khi đưa vào nghiên cứu ngôn ngữ, logic tình thái được vận dụng vào
việc tìm hiểu các từ tình thái đã được từ vựng hóa trong các phát ngôn cụ thể. Sự
đa dạng của các lớp từ tình thái đã dẫn đến những giả thuyết khác nhau về lớp từ
này như: giả thuyết cú pháp, giả thuyết ngữ nghĩa, giả thuyết ngữ vi.
Giả thuyết cú pháp cho rằng lớp từ tình thái nhận thức có chức năng cú
pháp với lớp từ tình thái tạo nghĩa và cũng theo đó, lớp từ tình thái tạo nghĩa là
cơ bản. Nhưng giả thuyết này không đủ sức giải thích nhiều hiện tượng tình thái
khác nhau. Do đó đã đẩy các nhà nghiên cứu tới giả thuyết ngữ nghĩa về từ
tình thái.
Giả thuyết ngữ nghĩa cho rằng mỗi cách dùng tình thái có một cấu trúc
ngữ nghĩa riêng biệt. Trong hướng này, có các cách tiếp cận ngữ vi – ngữ
15
nghĩa, cú pháp – ngữ nghĩa và logic – ngữ nghĩa. Chẳng hạn, theo cách tiếp
cận logic – ngữ nghĩa người ta chỉ ra con đường chuyển từ nghĩa tình thái
logic sang nghĩa tình thái nhận thức. Chẳng hạn, Horn (1972) chỉ ra rằng tình
thái có thể đối lập với tình thái chắc chắn, tình thái phải trong nghĩa nhận
thức hơn là với tình thái cần phải (tình thái phải trong nghĩa logic).
Giả thuyết ngữ vi cho rằng có sự tương ứng giữa các tình thái với các
động từ ngữ vi. Mỗi nghĩa của một từ tình thái ứng với một hành vi ngôn ngữ
cụ thể. Chẳng hạn, có sự tương ứng giữa nghĩa cần phải (có bổn phận) với
hành vi mệnh lệnh. Trong khi đó, nếu dùng từ phải trong câu hỏi thì nó lại là
một tình thái nhận thức.
1.1.3.4. Logic giá trị
Logic truyền thống là logic hai trị, đây là loại logic có một trong hai giá
trị chân lí hoặc đúng hoặc sai. Tuy nhiên, trong cuộc sống chúng ta gặp không
ít những phán đoán không thể rạch ròi được là đúng hay sai. Lại có những
phán đoán mà người này cho rằng đúng còn người kia lại cho là sai.
Ví dụ:
- Ngày mai trời sẽ có nhiều mây.
Không thể đánh giá phán đoán này sai hay đúng. Có những tình huống
mà sự đánh giá là đúng, nhưng cũng có những tình huống cho là sai. Do đó,
sự đánh giá một phán đoán chỉ là tương đối, được xác định một cách “mờ”.
Truyện cười dân gian Việt Nam đã vận dụng rất nhiều logic mờ vào việc tạo
ra các hàm ý gây cười. Những cách hiểu khác nhau về cùng một hiện tượng,
sự kiện chính là biểu hiện của logic mờ trong ngôn ngữ.
1.1.3.5. Logic mờ
Trong ngôn ngữ có những hiện tượng mờ do giá trị phán đoán là không
rõ ràng. Trong ngữ nghĩa của từ, của câu / lời, hiện tượng ranh giới không rõ
ràng, dứt khoát là tương đối phổ biến.
16
Ví dụ:
- Nhiều sinh viên nói như vậy.
Thế nào là nhiều sinh viên? Trên hai sinh viên được coi là số nhiều,
năm bảy sinh viên cũng thường cho là nhiều, vài ba chục sinh viên…đến mức
nào thì cho là “nhiều” nữa? Không thể định ở đây một ranh giới dứt khoát.
Những con số về độ tương thích với một khái niệm thường chỉ có giá
trị tương đối, không nên hiểu với sự chính xác toán học. Trong nhiều trường
hợp, tính tương thích với một khái niệm mờ còn tùy thuộc ở một mức độ nhất
định – có khi tùy thuộc rất nhiều vào quan niệm của con người, quan niệm
này ít nhiều có thay đổi với những xã hội, những thời đại, những giới, những
người, thậm chí những hoàn cảnh phát ngôn khác nhau. Cùng là một người 40
tuổi, nhưng trong một hoàn cảnh phát ngôn nào đó thì được đánh giá là rất trẻ
(chẳng hạn khi là cán bộ được xét đề bạt vào một chức vụ rất cao), và trong
một hoàn cảnh phát ngôn khác thì lại có thể được đánh giá là hơi già (chẳng
hạn khi cầu hôn một cô gái 20 tuổi). Nếu trong hiện thực khách quan không
thể có những đường ranh giới dứt khoát, cứng nhắc (hard and fast lines, F.
Engels), thì trong nhận thức của con người khái niệm mập mờ càng phổ biến
gấp bội, với một mức độ càng cao hơn, sâu hơn, đậm hơn. Phản ánh vào trong
ngôn ngữ, tất cả những cái đó lại được nhân lên nữa và trong ngôn ngữ của
lời, vì phải tính đến những yếu tố của hoàn cảnh phát ngôn, những yếu tố
dụng học, lắm khi chúng ta đứng trước những hiện tượng không phải chỉ mờ,
mà lại rất mờ, mờ bình phương, nếu có thể nói được như vậy.
Nếu hiện tượng ngữ nghĩa mờ là phổ biến thì có thể nói rằng: logic của
ngôn ngữ tự nhiên thường là một loại logic mờ. Nhờ có logic mờ mà chúng ta
nhận ra có sự tồn tại của những logic, những “cái lí” đằng sau vẻ bề ngoài bị
coi là phi logic, là sai trong một số truyện cười dân gian Việt Nam.
Xét một ví dụ khác:
17
(1). Ít người tới rạp xem phim.
(2). Nhiều người tới dự buổi bảo vệ luận văn.
Trong (1), với 400 người xem phim vẫn bị xem là ít, còn trong (2), chỉ
cần 40 người tới dự buổi bảo vệ luận văn đã là nhiều lắm rồi. Như vậy đánh
giá câu (1), (2) là đúng hay sai còn tùy thuộc vào phạm vi được xác định của
lượng từ trong mỗi câu. Sự chính xác của phán đoán tùy thuộc vào sự chính
xác tương ứng với cái chuẩn thông thường của sự vật mà ngữ cảnh đòi hỏi.
Nhờ logic mờ chúng tôi nhận ra có sự tồn tại của những logic, những
“cái lí” đằng sau vẻ bề ngoài bị coi là phi logic, là sai.
Những lỗi hệ thống logic nêu trên chỉ là một trong số những hiện tượng
logic của ngôn ngữ tự nhiên, của hiện thực khách quan. Nghiên cứu văn bản,
chúng tôi nhận thấy khi đưa vào văn bản ngoài những hệ thống logic nêu trên
lại có những hệ thống logic khác tồn tại, tạo nên tính liên kết cho văn bản.
1.1.3.6. Logic của sự vật (logic đối tƣợng)
Sự vật, sự kiện, hoạt động, tính chất tạo nên hiện thực được nói tới tự
bản thân chúng là những thể hoàn chỉnh gồm các bộ phận, các chi tiết, các
biểu hiện giữa chúng và toàn bộ hiện thực có cấu trúc, có quan hệ toàn bộ - bộ
phận. Người viết phải tôn trọng quan hệ giữa các bộ phận, chi tiết, các biểu
hiện đó với nhau khi đưa sự vật, sự kiện, hoạt động, tính chất,…vào văn bản
thành hiện thực được nói tới.
Mỗi loại sự vật hiện tượng được nói tới có một kiểu logic sự vật riêng,
không giống nhau. Các sự vật vật lí (như cái áo, cái nhà, con sông…), sinh lí
(con mèo, một bé trai…) có quan hệ không gian giữa các bộ phận cùng với
các đặc trưng. Các sự kiện (hành động, chuyện…) có quan hệ không gian,
thời gian giữa hành động, thao tác, giữa các sự kiện hợp thành sự kiện. Rồi
các trạng thái tình cảm cũng có logic tâm lí đặc thù. Mặc dầu, chưa thể tổng
kết được những logic sự vật đặc trưng cho từng loại sự vật được nói tới (tức
18
đề tài) nhưng bất cứ ai khi nói về một cái gì đó trong văn bản của mình hoặc
tự giác, hoặc không tự giác đều tuân theo một logic sự vật nào đó.
Vận dụng những lý thuyết về logic này sẽ giúp cho việc nhận diện logic
của truyện cười. Những khuôn hình cơ sở của từng loại logic được xây dựng lên
trên cơ sở những hiểu biết về logic đối tượng, logic chống chế, ngụy biện, mặc
nhiên thừa nhận vv… là kết quả của sự hiểu biết về tâm lí, tính cách nhân vật.
1.1.3.7. Logic trình bày
Sự vật, sự kiện trong hiện thực ngoài văn bản (chưa thành hiện thực
được nói tới trong văn bản) có cấu trúc nội tại khách quan, có logic sự vật
ngoài ý muốn chủ quan của con người, người viết. Nhưng khi được đưa vào
văn bản thành hiện thực được nói tới thì đã được nhìn nhận bởi con người, bởi
người viết. Mà như đã biết, người viết bao giờ cũng có một hướng đích, tức
một chủ đề theo nghĩa hẹp nhất định, do đó cái cấu trúc nội tại khách quan,
cái logic của hiện thực sẽ được trình bày theo logic trình bày của người viết.
Nói cách khác, logic trình bày của văn bản là trật tự triển khai hiện thực
theo một cách thức nào đó của người viết. Việc dùng logic trình bày vào một
phần quan trọng do hướng, đích của văn bản quyết định. Hiện thực được nói
đến trong văn bản tự sự nói chung là các sự kiện. Do đó, logic trình bày các
sự kiện biểu hiện chủ yếu ở cách triển khai sự kiện theo mối quan hệ không
gian - thời gian. Thi pháp tự sự được kể lại trong tiểu thuyết, thông thường
theo ba trục thời gian: thời gian phát ngôn tức là thời gian kể chuyện cũng là
thời gian đối thoại giữa tác giả và người đọc, thời gian của chuyện tức là thời
gian sự vật và thời gian tự sự, tức thời gian trình bày. Thời gian trình bày là
thời gian sự vật được tổ chức theo mục đích của người viết. Trong truyện tiếu
lâm Việt Nam, thời gian tự sự chính là thời gian đẳng tuyến - tức thời gian
tự sự trùng với thời gian của truyện. Theo kiểu kết cấu này các sự kiện
19