Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đề cương Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.07 KB, 22 trang )

PPDH LUYỆN TỪ VÀ CÂU
1. Vị trí và nhiệm vụ của phân môn LT&C
a. Vị trí
Phân môn LT&C có vai trò rất quan trọng trong dạy học Tiếng
Việt bởi vị trí đặc biệt quan trọng của từ và câu trong hệ thống
ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị
nhỏ nhất có thể thực hiện chức năng giao tiếp.
b. Nhiệm vụ
Làm giàu vốn từ và phát triển năng lực sử dụng từ, câu của học
sinh bao gồm các công việc:
- Dạy nghĩa từ;
- Hệ thống hoá vốn từ;
- Tích cực hóa vốn từ (dạy dùng từ);
- Dạy đặt câu, dùng câu.
2. Cơ sở và nội dung của các nguyên tắc dạy học LT&C
a. Nguyên tắc giao tiếp
- Cơ sở: Chức năng xã hội của ngôn ngữ: Ngôn ngữ là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người.
- Nội dung nguyên tắc:
+ Xây dựng nội dung nguyên tắc dạy học dưới hình thức các bài
tập LT&C để học sinh tiến hành hoạt động giao tiếp, từ đó hình
thành năng lực giao tiếp.
+ Mọi quy luật cấu trúc và hoạt động của từ, câu chỉ được rút ra
trên cơ sở nghiên cứu lời nói sinh động, những kinh nghiệm
ngôn ngữ và kinh nghiệm sống đã có ở học sinh.
+ Bảo đảm sự thống nhất giữa lí thuyết ngữ pháp và thực hành
ngữ pháp với mục đích hình thành năng lực giao tiếp cho học
sinh
+ Trình bày các khái niệm ngữ pháp một cách đơn giản và chú
trọng dạy hệ thống quy tắc ngữ pháp.
b. Nguyên tắc tích hợp




- Cơ sở: Tính hệ thống, thống nhất của các đơn vị, bình diện
ngôn ngữ trong sử dụng.
- Nội dung nguyên tắc:
+ Luyện từ và luyện câu không thể tách rời, các bộ phận của
chương trình luyện từ và luyện câu cùng phải được nghiên cứu
trong sự gắn bó thống nhất.
+ Luyện từ và luyện câu phải được tiến hành mọi nơi, mọi lúc
trong các hoạt động khác, trong tất cả các môn học, trong tất cả
các phân môn khác của giờ tiếng Việt.
c. Nguyên tắc trực quan
- Cơ sở: Vai trò của trực quan trong nhận thức và nhận thức của
trẻ em, tính thống nhất và cụ thể trong mỗi khái niệm ngôn ngữ.
- Nội dung:
+ Dạy từ đồng thời tác động đến học sinh bằng vật thật (hoặc vật
thay thế) và bằng lời.
+ Học sinh phải kết hợp cả nghe, đọc, nói, viết từ, câu.
+ Các ngữ liệu đưa ra xem xét trong giờ LT&C phải tiêu biểu.
+ Nắm chắc mục đích của tài liệu trực quan để sử dụng phù hợp
với từng bước lên lớp, từng nhiệm vụ dạy học.
d. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống của từ, câu trong dạy học
LT&C
- Cơ sở: Giá trị của từ và cách dùng từ phụ thuộc vào những từ
khác trong
hệ thống. Giá trị của câu và sự phụ thuộc của câu vào ngữ cảnh.
- Nội dung:
+ Đối chiếu từ với hiện thực trong việc giải nghĩa từ, đặt từ trong
các hệ thống (hàng dọc, hàng ngang, phong cách xã hội) để xem
xét và sử dụng.

+ Đặt câu trong ngữ cảnh, trong văn bản để xem xét.
e. Nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất giữa nội dung và hình
thức ngữ pháp trong dạy học LT&C
- Cơ sở: Bản chất của khái niệm ngữ pháp và những khó khăn
của học sinh trong việc lĩnh hội chúng.


- Nội dung nguyên tắc: Phải để học sinh xác lập quan hệ giữa ý
nghĩa và hình thức ngữ pháp khi nhận diện và sử dụng một đơn
vị ngữ pháp.
3. Nội dung dạy học Luyện từ và câu
Về kiến thức, phân môn Luyện từ và câu cũng cấp cho học
sinh các kiến thức sơ giản về từ và câu, bao gồm:
- Mở rộng vốn từ cho học sinh theo các chủ điểm.
- Ngữ âm - chính tả: cấu tạo tiếng; cách viết tên người, tên địa lí
Việt Nam; cách viết tên người, tên địa lí nước ngoài; cách viết
tên các cơ quan, tổ chức, giải thưởng, danh hiệu, huân chương.
- Cấu tạo từ, từ phân loại theo cấu tạo (từ đơn, từ phức).
- Kiến thức về nghĩa của từ và các thao tác, phương pháp giải
nghĩa từ cơ bản.
- Các lớp từ vựng tiếng Việt: từ toàn dân - từ địa phương, từ
đồng nghĩa, từ đồng âm, từ trái nghĩa...
- Từ loại: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ
- Các kiểu câu: Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? (được xem là các
kiểu câu đơn trần thuật cơ bản); các loại câu xét theo mục đích
phát ngôn (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến), theo cấu tạo
(câu đơn, câu ghép); các quy tắc dùng từ
đặt câu và tạo văn bản (viết đoạn văn); thành phần câu (chủ
ngữ, vị ngữ, trạng ngữ); liên kết câu…
- Dấu câu: dấu phẩy, dấu chấm, dấu chấm than, dấu chấm hỏi,

dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang.
- Các biện pháp tu từ: so ánh, nhân hóa.
Hệ thống bài tập Luyện từ và câu khá phong phú và đa dạng.
Dựa vào mục tiêu dạy học, phạm vi nội dung kiến thức, kĩ năng
được hình thành, có thể chia bài tập dạy học Luyện từ và câu
thành hai mảng lớn: bài tập theo các mạch kiến thức kĩ năng về
từ và câu (gồm hai nhóm: (1) bài tập nhận diện, phân loại, phân
tích; (2) bài tập xây dựng, tổng hợp) và bài tập làm giàu vốn từ
(gồm ba nhóm: (1) bài tập dạy nghĩa từ; (2) bài tập hệ thống hóa
vốn từ; (3) bài tập tích cực hóa vốn từ). Mặc dù vậy, xuất phát từ


đặc trưng tích hợp trong dạy học Tiếng Việt, sự phân loại trên chỉ
mang tính tương đối. Bài tập làm giàu vốn từ không tách rời với
các mạch kiến thức, kĩ năng về từ và câu.
Nội dung dạy học Luyện từ và câu được thể hiện qua hai kiểu
bài lí thuyết và thực hành. Ở lớp 2, 3, các tri thức về từ và câu
được hình thành thông
qua hệ thống bài tập. Lên lớp 4, 5, bên cạnh các tiết thực hành
(được cấu thành từ một tổ hợp bài tập), học sinh được làm quen
với kiểu bài lí thuyết (có cấu trúc gồm ba phần: Nhận xét, Ghi
nhớ, Luyện tập). Tuy nhiên, từ mục tiêu dạy học phân môn, phần
trọng tâm của bài lí thuyết vẫn là phần Luyện tập.
4. Các nhóm, dạng bài tập Luyện từ và câu
Quan điểm thực hành được quán triệt trong dạy học LT&C.
Điều đó thể hiện ở việc các nội dung dạy học LT&C được xây
dựng dưới dạng các bài tập. Vì vậy, việc mô tả nội dung dạy học
LT&C không tách rời với việc chỉ ra những nhóm, dạng bài tập.
- Dựa vào nội dung dạy học, các bài tập LT&C được chia làm hai
mảng lớn là mảng bài tập làm giàu vốn từ và mảng bài tập theo

các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu.
+ Bài tập làm giàu vốn từ được chia thành ba nhóm: bài tập
dạy nghĩa, bài tập hệ thống hóa vốn từ và bài tập dạy sử dụng từ
(tích cực hóa vốn từ).
+ Bài tập theo các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu
được chia ra thành các nhóm: bài tập luyện từ (bài tập về các
lớp từ, về biện pháp tu từ, cấu tạo từ, từ loại), bài tập luyện câu
(các kiểu câu, cấu tạo câu, dấu câu, biện pháp liên kết câu),
ngoài ra còn có nhóm bài tập về cấu tạo tiếng và quy tắc viết
hoa.
- Dựa vào đặc điểm hoạt động của HS, bài tập theo các mạch
kiến thức kĩ năng về từ và câu có thể được chia ra thành hai
mảng lớn: những bài tập có tính chất nhận diện, phân loại, phân


tích (bài tập ngôn ngữ) và những bài tập có tính chất xây dựng
tổng hợp (bài tập lời nói).
Trong các bài tập nhận diện, phân loại các đơn vị từ, câu thì
các đơn vị ngôn ngữ và các kiểu loại đơn vị ngôn ngữ có thể
nằm trong câu, đoạn. Lúc này việc vạch đường ranh giới từ là rất
quan trọng. Nếu các từ được để rời, đường ranh giới từ đã được
vạch sẵn thì cần lưu ý những trường hợp đồng âm, đa nghĩa.
Nguyên tắc tích hợp được thể hiện rất rõ trong các bài tập
LT&C nên việc phân loại các bài tập nhiều lúc chỉ có tính tương
đối. Nhiều khi một bài tập cụ thể vừa có mục đích làm giàu vốn
từ vừa luyện tập củng cố một kiến thức ngữ pháp nào đó; thực
hành về từ, câu không tách rời với lí thuyết về từ, câu; luyện từ
không tách rời với luyện câu; cả hai bình diện sử dụng ngôn ngữ
là tiếp nhận và sản sinh cũng không tách rời nên có bài tập vừa
yêu cầu nhận diện, nhận xét, bình giá việc sử dụng một đơn vị

ngôn ngữ nào đó lại vừa có cả yêu cầu sử dụng đơn vị ngôn ngữ
đó.
5. Các kiểu bài học LT&C trong sách giáo khoa
Phần lớn các bài học LT&C trong sách giáo khoa được cấu
thành từ một tổ hợp bài tập. Đó là toàn bộ các bài học LT&C ở
lớp 2, 3 và các bài luyện tập, ôn tập LT&C ở lớp 4, 5. Ngoài ra ở
lớp 4, 5 còn có bài lí thuyết về từ và câu.
-Bài LT&C ở lớp 2, 3 trong SGK được ghi tên theo phân môn,
còn các tên bài chỉ được ghi ở phần mục lục. Hầu hết các bài
học LT&C ở lớp 2, 3 bao gồm cả nhiệm vụ luyện từ và luyện câu.
Các tên bài thể hiện điều này.
Ví dụ: Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về học tập – Dấu chấm hỏi
(lớp 2 tuần 1); Mở rộng vốn từ: Thiên nhiên - Ôn tập câu “Ai là
gì?” (lớp 3 tuần 1).
- Ở lớp 4, 5, các bài học đã tách thành những bài luyện từ và
luyện câu riêng.
Ví dụ các tên bài: Từ ghép và từ láy (lớp 4 tuần 4), Câu hỏi và
dấu chấm hỏi (lớp 4 tuần 13). Các bài học theo các mạch kiến


thức từ, câu có thể chia thành hai kiểu: bài lí thuyết và bài luyện
tập.
+ Những bài được xem là bài lí thuyết về từ và câu lớp 4, 5 là
những bài được đặt tên theo một mạch kiến thức và có phần ghi
nhớ được đóng khung. Bài lí thuyết về từ và câu gồm có ba
phần.
Phần Nhận xét đưa ngữ liệu chứa hiện tượng cần nghiên
cứu và hệ thống câu hỏi giúp HS nhận xét, phân tích để tìm hiểu
nội dung bài học, giúp HS rút ra được những nội dung của phần
ghi nhớ.

Phần Ghi nhớ tóm lược những kiến thức và quy tắc của bài
học.
Phần Luyện tập là một tổ hợp bài tập nhằm vận dụng kiến
thức đã học vào trong hoạt động nói, viết.
+ Bài luyện tập là những bài có tên gọi “Luyện tập”, chỉ gồm
các bài tập nhưng cũng có khi có thêm những nội dung kiến thức
mới, ví dụ kiến thức về các tiểu loại danh từ ở bài luyện tập về
danh từ, kiến thức về các kiểu từ ghép trong bài luyện tập về từ
ghép.
- Bài ôn tập và kiểm tra là nhóm bài có tên gọi “Ôn tập” và các
bài có nội dung luyện từ và câu trong tuần ôn tập giữa học kì,
cuối học kì, cuối năm.
6. Chú ý khi tổ chức dạy bài lí thuyết Luyện từ và câu
- Dạy học Luyện từ và câu không có mục đích lí thuyết thuần túy.
Việc cung cấp, hình thành các tri thức ngôn ngữ cho học sinh
cần được thực hiện một cách nhẹ nhàng, đơn giản và hiệu quả.
- Cần nhìn thấy mối liên hệ mật thiết giữa các phần trong bài lí
thuyết:
Việc phân tích từng hiện tượng ngôn ngữ ở phần Nhận xét
nhằm hướng đến rút ra các kết luận tương ứng ở phần Ghi nhớ;
phần Luyện tập vừa là mảnh đất để vận dụng những kiến thức
mới hình thành vừa củng cố, khắc sâu hơn lí thuyết về từ và câu.


- Phân bố thời gian hợp lí giữa các phần. Luyện tập luôn được
xác định là trọng tâm của bài dạy và vì thế, thời lượng thực hành
bài tập cần được ưu tiên.
- Ghi nhớ không phải là cái có sẵn. Chính vì thế, giáo viên cần tổ
chức tốt việc phân tích các ngữ liệu dạy học để hướng dẫn học
sinh tự tìm kiếm thông tin, khám phá và chiếm lĩnh chính xác,

đầy đủ về đối tượng nghiên cứu.
- Các bài tập trong phần Luyện tập thường có hai dạng cơ bản:
bài tập nhận diện và bài tập vận dụng. Cần nắm vững đặc trưng,
yêu cầu của các loại bài tập này để tổ chức hoạt động học tập
một cách hợp lí.
7. Tổ chức dạy bài thực hành Luyện từ và câu
Thực chất của tổ chức dạy bài thực hành Luyện từ và câu là
việc tổ chức thực hiện các bài tập về từ và câu. Để quá trình dạy
học kiểu bài này thu được hiệu quả cao, cần chú ý những vấn đề
cơ bản sau:
- Nắm vững hệ thống bài tập Luyện từ và câu: nhận diện đúng
kiểu bài tập, xác định rõ phạm vi kiến thức (cơ sở ngôn ngữ) và
mục tiêu về kĩ năng (giải nghĩa từ, hệ thống hóa vốn từ, sử dụng
từ).
- Đối với các lớp 2, 3, trong một bài thực hành thường bao gồm
nhiều bài tập đề cập đến những tri thức ngôn ngữ khác nhau, do
đó cần chú ý đến sự phức hợp này trong tổ chức thực hành bài
tập. Ở lớp 4, 5, tiết thực hành chỉ tập trung vào khai thác sâu một
đơn vị kiến thức cụ thể nên sự chú ý nằm ở mối liên hệ giữa các
bài tập.
- Nắm vững quy trình thực hành giải bài tập (gồm bốn bước),
trong đó chú trọng bước phân tích định hướng thực hiện bài tập
(bước 2). Đồng thời, do được cấu trúc theo dạng thức đồng tâm
phát triển, các bài tập ở lớp trên có sự nâng cao hơn về mặt kĩ
năng so với lớp dưới. Vì lẽ đó, khi dạy, giáo viên cần linh hoạt để
tinh giản một số bước, một số thao tác, hoạt động.


- Đa dạng hóa hình thức tổ chức thực hành; kết hợp vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh chủ động

giải quyết các nhiệm vụ học tập; tăng dần mức độ hoạt động độc
lập của học sinh.
8. Quy trình dạy học LT&C
A. Quy trình dạy học LT&C lớp 2 – 3
1. Kiểm tra bài cũ
- Kiểm tra bài tập của tiết trước.
- GV nhận xét, chữa bài
2. Dạy bài mới
a. Giới thiệu bài mới
Thường giới thiệu một cách trực tiếp: nêu yêu cầu của tiết học.
b. Hướng dẫn làm bài tập
GV hướng dẫn và tổ chức HS thực hiện từng bài tập theo trình
tự:
- Đọc và xác định yêu cầu bài tập.
- Hướng dẫn mẫu hoặc giải thích (nếu cần thiết).
- HS làm bài tập (vào vở bài tập, vào nháp, vào giấy khổ to;
theo lớp, cá nhân, nhóm, …)
- Nêu kết quả, trao đổi, nhận xét, GV đưa ra kết quả đúng.
3. Củng cố, dặn dò
- Nhắc lại kiến thức, kĩ năng trọng tâm của bài.
- Nhận xét, dặn HS về nhà làm bài, chuẩn bị bài.
B. Quy trình dạy học LT&C lớp 4 – 5
1. Kiểm tra bài cũ


- Kiểm tra bài tập hoặc nội dung kiến thức của tiết trước.
- GV nhận xét, chữa bài
2. Dạy bài mới
a. Đối với bài dạy lý thuyết
- Giới thiệu bài

- Hình thành khái niệm:
+ Phân tích ngữ liệu
+ Ghi nhớ kiến thức
- Hướng dẫn luyện tập
b. Đối với bài thực hành
- Giới thiệu bài
- Hướng dẫn thực hành
+ HS đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ Hướng dẫn hs làm mẫu một phần của bài tập
+ HS làm bài tập (hình thức: cá nhân, cặp đôi, nhóm, lớp,…)
+ GV tổ chức cho hs trao đổi, nhận xét kết quả giải các bài tập
3. Củng cố, dặn dò
- HS nhắc lại những kiến thức cơ bản.
- Nhận xét tiết học.
- Dặn dò học sinh làm bài tập và chuẩn bị bài.


PPDH KỂ CHUYỆN
1. Vị trí, nhiệm vụ của dạy học Kể chuyện
1.1. Vị trí của dạy học Kể chuyện
Kể là một dạng nói mang tính nghệ thuật. Kể chuyện vận
dụng sự hiểu biết phong phú về đời sống và tạo điều kiện để học
sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng tiếng Việt. Học
sinh tiểu học đặc biệt hứng thú với phân môn Kể chuyện. Những
câu chuyện thú vị “hé mở cho các em những nhận thức ban đầu
trong sáng như những tia nắng ban mai về cội nguồn và truyền
thống đẹp đẽ của dân tộc mà khó có một bài học lịch sử nào có
thể thay thế được”.
Không những thế, học sinh sau khi nghe kể còn được hướng
dẫn tập kể lại câu chuyện bằng ngôn ngữ của mình với những

phong cách diễn đạt hồn nhiên. Trẻ được nói, được sống cùng
nhân vật hay thậm chí được hoá thân thành những nhân vật
trong truyện. Cùng với quá trình dạy học Kể chuyện, học sinh
vừa thực hiện hoạt động tiếp nhận vừa thực hiện hoạt động sản
sinh, tái sản sinh ngôn bản.
Có thể nói, truyện kể và hoạt động kể chuyện có ý nghĩa rất
lớn đối với đời sống tâm hồn học sinh. Sức mạnh văn học mà
truyện kể mang lại có vị trí quan trọng trong hành trình tiếp nhận
tác phẩm, tích lũy vốn kiến thức văn học,
ngôn ngữ của các em.
1.2. Nhiệm vụ của dạy học Kể chuyện
Phân môn Kể chuyện có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phát triển kĩ năng tiếng Việt cho học sinh tiểu học: Kể chuyện
có nhiệm vụ rèn luyện và phát triển các kĩ năng nghe, đọc và nói.
Trong giờ học, học sinh thực hành kể với các hình thức độc thoại
và hội thoại, được tiếp xúc với tác phẩm văn học (truyện kể),
khám phá và cảm thụ để từ đó “tái sản sinh” ngôn bản. Đồng
thời, ở những kiểu bài đặc biệt (kể chuyện theo lời nhân vật, kể
chuyện được chứng kiến hoặc tham gia), các em bước đầu biết


sáng tạo ngôn ngữ kể, biết tham gia vào quá trình sản sinh
những “tác phẩm nghệ thuật” thực thụ.
- Phát triển tư duy, đặc biệt là tư duy hình tượng và cảm xúc
thẩm mĩ: Sống cùng truyện kể, tâm hồn học sinh sẽ đầy đặn
hơn, trọn vẹn hơn. Không những rèn luyện các thao tác tư duy,
các em còn phát triển tư duy hình tượng và cảm xúc thẩm mĩ
bằng những trải nghiệm, hóa thân cùng nhân vật trong câu
chuyện.
- Tích lũy vốn sống, vốn văn học: Kể chuyện mang đến cho học

sinh một khối lượng lớn các tác phẩm văn học, bao gồm văn học
trong nước và văn học nước ngoài, văn học dân gian và văn học
hiện đại. Theo từng câu chuyện, các em được mở rộng tầm hiểu
biết, được đến với những chân trời tri thức mới.
2. Nội dung dạy học Kể chuyện
Phân môn Kể chuyện xuất hiện khá sớm trong chương trình
Tiếng Việt tiểu học với sự đa dạng, phong phú về kiểu loại bài
tập. Mỗi loại bài tập kể chuyện có một đặc trưng riêng, hướng
đến rèn các kĩ năng cơ bản để từ đó hình thành năng lực kể năng lực “nói mang tính nghệ thuật“.
Ở lớp 1, trong giai đoạn Học vần, học sinh chủ yếu được
nghe kể những câu chuyện nhỏ về các loài vật đáng yêu, ngộ
nghĩnh, về những bài học thú vị trong cuộc sống. 13 tuần trong
phần Luyện tập tổng hợp, học sinh bắt đầu tham gia vào hoạt
động kể chuyện với các văn bản truyện ngắn gọn, nội dung giản
dị để chiếm lĩnh và tích lũy những lời khuyên bổ ích như đi đến
nơi về đến chốn (truyện Cô bé quàng khăn đỏ), phải biết kiên trì,
nhẫn nại; không kiêu căng, chủ quan (truyện Rùa và Thỏ), trân
trọng tình bạn (truyện Cô chủ không biết quý tình bạn)...
Ở lớp 2, 3, sự phong phú của các dạng thức bài tập kể
chuyện được thể hiện khá rõ nét bằng những loại cơ bản: kể


chuyện theo tranh hoặc theo gợi ý, kể phân vai, kể một chi tiết
truyện theo trí tưởng tượng, kể chuyện theo lời nhân vật.
Lên lớp 4, 5, về thực chất không có sự đột biến nào về kiểu
dạng bài tập song với các kiểu bài kể chuyện đã nghe, đã đọc và
kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, yêu cầu thực hành
đã tăng lên rất nhiều. Học sinh nhập cuộc với những loại bài tập
điển hình như: phân tích chủ đề, xây dựng cốt truyện, trao đổi về
ý nghĩa truyện.

Trong hệ thống bài tập kể chuyện, kể chuyện theo tranh
hoặc theo gợi ý là loại bài tập chiếm tỉ lệ cao nhất, được phân bố
từ lớp 1 đến lớp 5. Loại bài tập này dựa trên điểm tựa là tranh vẽ
hay các gợi ý bằng lời. Học sinh có thể tập kể lại từng đoạn hoặc
toàn bộ câu chuyện theo tranh, theo gợi ý.
Ví dụ: Dựa theo tranh, kể lại từng đoạn câu chuyện “Chiếc
bút mực” (Tiếng Việt 2, tập 1, trang 41); Dựa vào các tranh dưới
đây, kể lại câu chuyện đã được nghe [truyện Đôi cánh của Ngựa
Trắng] (Tiếng Việt 4, tập 2, trang 106). Trong các bài tập này,
tranh vẽ, gợi ý là những chỉ dẫn thú vị giúp học sinh hình thành
nội dung truyện, tái hiện lại các chi tiết trong truyện, xâu chuỗi
các tình tiết và hoàn thiện nội dung bài kể. Quan sát tranh, đọc kĩ
các gợi ý chính vì vậy là con đường chính để đến đích. Ở các
lớp đầu bậc tiểu học, trong một số bài, kèm theo tranh có thể
xuất hiện các câu nêu nội dung chính hay câu hỏi nhằm khai
thác nội dung đoạn truyện.
Trong hệ thống bài tập kể chuyện, phân vai và kể chuyện
theo lời nhân vật là các bài tập có “sức hút” mạnh mẽ đối với học
sinh. Đây cũng là hai kiểu bài thể hiện khá rõ nét đặc trưng tính
giao tiếp. Mặc dù vậy, phân vai có những nét khác biệt khá rõ
ràng so với kể chuyện theo lời nhân vật cả về hình thức tổ chức
thực hành lẫn khả năng sử dụng ngôn ngữ.
- Kể chuyện phân vai
+ Rèn kĩ năng đối thoại.
+ Mỗi học sinh nói lời một nhân vật.


+ Học sinh sáng tạo trong giọng kể, điệu bộ, cử chỉ và một số
lời thoại...
+ Tính hợp tác cao.

- Kể theo lời nhân vật
+ Rèn kĩ năng độc thoại
+ Học sinh kể cả truyện từ vai nhân vật.
+ Học sinh cần sáng tạo lời kể (chuyển đổi ngôi kể, đổi câu
+ chữ...).
+ Tính cá nhân, cá thể cao.
Đối với kiểu bài kể chuyện đã nghe, đã đọc và kể chuyện
được chứng kiến, tham gia, học sinh thường phải thực hiện các
yêu cầu bài tập: tìm truyện (theo chủ đề) từ những gợi ý của
sách giáo khoa, kể chuyện và trao đổi về ý nghĩa của truyện. Độ
khó trong những bài tập kể chuyện này chính là dung lượng
truyện lớn, hàm chứa nhiều nội dung thông tin, cốt truyện không
có sẵn (kể chuyện chứng kiến, tham gia). Vì vậy, trong quá trình
thực hành, cần có những định hướng và tiêu chí đánh giá cụ thể.
Giáo viên cũng phải có vốn tri thức văn học tốt, kĩ năng xây dựng
cốt truyện để hướng dẫn, tổ chức cho học sinh thực hiện nhiệm
vụ học tập.
3. Tổ chức dạy học Kể chuyện
3.1. Các kĩ năng cơ bản cần rèn luyện cho học sinh trong dạy
học Kể chuyện
Kĩ năng kể chuyện được hình thành từ các kĩ năng bộ phận
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giáo viên tiểu học cần rèn
luyện thường xuyên để có khả năng ghi nhớ nhanh câu chuyện,
lựa chọn được giọng điệu và ngôn từ phù hợp, đồng thời biết
phân tích truyện để dự kiến các điểm nhấn, điểm dừng tạo sự
cuốn hút đối với học sinh. Bên cạnh đó, cần phối hợp hài hòa
các hành vi phi ngôn ngữ phụ trợ nhằm làm sống dậy những xúc
cảm chứa đựng trong mỗi tác phẩm, trong mỗi nhân vật. Đối với
kiểu bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, ngoài
những kĩ năng được thể hiện trong sơ đồ sau, cần rèn luyện cho



học sinh kĩ năng quan sát và thu nhận thông tin từ cuộc sống, kĩ
năng xây dựng cốt truyện.
3.2. Quy trình dạy học Kể chuyện
Mỗi kiểu bài kể chuyện ở các khối lớp có những đặc trưng
riêng về cách thức tiến hành. Khi dạy bài mới, đối với những tiết
có thực hiện kể mẫu, giáo viên kể từ 2 đến 3 lần (lần 2, 3 có kết
hợp với chỉ dẫn, phân tích tranh). Ở lớp 3, do tích hợp với Tập
đọc nên thời lượng dành cho Kể chuyện là 0.5 tiết. Giáo viên cần
chú ý điều này khi tổ chức các hoạt động dạy học. Khi dạy học
các kiểu bài Kể chuyện được nghe thầy cô kể trên lớp; Kể
chuyện đã nghe, đã đọc, đã chứng chiến hoặc tham gia, quy
trình thực hiện như sau:
- Kiểm tra bài cũ
- Dạy bài mới:
+ Giới thiệu bài: Giới thiệu về truyện sẽ kể hoặc nêu yêu cầu của
bài học.
+ Giáo viên kể hoặc hướng dẫn học sinh phân tích định hướng
(tìm hiểu chủ đề, tìm các ví dụ phù hợp yêu cầu đề bài theo gợi
của của sách giáo khoa).
+ Học sinh thực hành kể chuyện: kể trong nhóm, kể trước lớp.
+ Trao đổi về nội dung, ý nghĩa câu chuyện: nói về nhân vật
trong truyện, về ý nghĩa của truyện.
- Củng cố, dặn dò
3.2.1. Quy trình dạy bài kể chuyện lớp 2, 3
1. Kiểm tra bài cũ
Gv nêu mục đích, yêu cầu của tiết học hoặc nêu tình huống để
gợi dẫn câu chuyện được kể trong tiết học.
2. GV Hướng dẫn kể chuyện

- thực hiện lần lượt từng bài luyện tập kể chuyện (độc thoại) theo
SGK; khuyến khích hs kể bằng lời của mình; nghe để kể nối tiếp
chuyện hoặc nhận xét lời kể của bạn.


- Hướng dẫn hs phân vai dựng lại câu chuyện hoặc kể có sáng
tạo … (theo y/c trong SGK)
Mỗi khi gặp lại những dạng bài tập mới hoặc khó, gv cần
giúp hs nắm được y/c, thực hành làm mẫu 1 phần của bài tập.
3. Củng cố, dặn dò
Vì giờ kể chuyện không phải là giờ trình diễn nghệ thuật kể
chuyện của gv mà là giờ thực hành nói của hs nên gv cần tăng
cường tổ chức kể chuyện theo nhóm để tạo điều kiện cho mỗi hs
đều được thực hành kể chuyện.
ở lớp 3, do thời lượng giờ học chỉ có 0,5 tiết nên bài kể
chuyện có thể bắt đầu từ bước hướng dẫn kể chuyện.
3.2.2. Quy trình dạy bài kể chuyện lớp 4, 5
a. Dạy bài kể chuyện nghe thầy cô kể trên lớp
1. Kiểm tra bài cũ
2. Bài mới
2.1. Giới thiệu bài
Giới thiệu bằng lời, có thể kết hợp với đồ dùng trực
quan hoặc giới thiệu băng hình.
2.2. Hs nghe kể chuyện
+ GV kể lần 1
+ GV kể lần 2, hs nghe kết hợp nhìn hình minh họa.
2.3. HS tập kể chuyện
+ Kể từng đoạn nối tiếp nhau trong nhóm.
+ Kể cả câu chuyện trong nhóm.
+ Kể cả câu chuyện trước lớp.



2.4. HS tìm hiểu nội dung, ý nghĩa câu chuyện
- Nói về nhân vật chính
- Nói về ý nghĩa câu chuyện
3.

Củng cố, dặn dò

b. Dạy bài kể chuyện đã nghe, đã đọc, đã chứng kiến hoặc tham
gia
1. Kiểm tra bài cũ
2. Bài mới
2.1. Giới thiệu bài: GV giới thiệu y/c kể chuyện của tiết học
2.2 HS tìm những ví dụ phù hợp với y/c của đề bài (theo gợi ý
SGK)
- HS tập kể chuyện: kể trong nhóm hoặc kể trước lớp
- HS trao đổi với nhau về nội dung, ý nghĩa câu chuyện
+ Nói về nhân vật chính
+ Nói về ý nghĩa câu chuyện
3.Củng cố, dặn dò
- một hs khá kể lại toàn chuyện
- nhận xét tiết học
- dặn dò hs về nhà kể lại, chuẩn bị cho bài mới.


5. Yêu cầu về kĩ năng kể chuyện
Yêu cầu về kĩ năng kể chuyện cho HS lớp 1 là sau khi nghe
thầy cô kể 2, 3 lần một câu chuyện đơn giản, phù hợp với trình
độ và đặc điểm lứa tuổi, các em phải nắm được nội dung chính

của câu chuyện và dựa vào trí nhớ, vào các tranh minh họa
trong SGK, các câu hỏi dưới tranh, kể lại được từng đoạn của
câu chuyện.
Ở các lớp 2, 3 kĩ năng nghe kể vẫn tiếp tục được rèn luyện.
Đó là các kĩ năng độc thoại và hội thoại nhưng với yêu cầu cao
hơn so với lớp 1. ở lớp 2, 3, trong độc thoại có thêm yêu cầu HS
kể bằng lời của mình, kể có thêm một hai chi tiết sáng tạo. Trong
hội thoại có thêm yêu cầu dựng lại câu chuyện đã học theo vai,
bước đầu sử dụng các yếu tố phụ trợ trong giao tiếp (nét mặt, cử
chỉ, điệu bộ ...). ở lớp 3, khi rèn kĩ năng độc thoại có thêm yêu
cầu kể lại truyện theo lời một nhân vật.
Ở lớp 4, 5, HS vẫn tiếp tục được củng cố kĩ năng kể chuyện
đã được hình thành từ lớp dưới, đồng thời được hình thành
những kĩ năng mới. Nội dung các câu chuyện được kể ở lớp 4, 5
đã phong phú hơn, độ dài lớn hơn. So với lớp 2, 3, có thêm yêu
cầu mới là HS kể lại các truyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ Kể
chuyện. Nhiều đề bài chỉ nêu ý nghĩa của câu chuyện mà không
chỉ rõ các chuyện cụ thể. Ngoài ra, HS còn phải kể lại được các
chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia.
5.Những điểm cần lưu ý khi thực hiện bài kể chuyện
5.1. Đối với lớp 2,3.
- Thực hiện tốt 2 bước: chuẩn bị cho việc kể và thực hành kể
chuyện.


+ Giúp hs nắm vững câu chuyện cần kể đã học trong bài
tập đọc.
+ Giúp hs xác định giọng kể và lựa chọn ngôn từ kể chuyện
- Tạo cho hs tâm thế tự tin, những điều kiện để có thể kể một
cách tự nhiên.

5.2. Đối với lớp 4,5
- Phải tổ chức tốt tâm thế kể chuyện cho hs. Trong giờ kể
chuyện, GV phải hướng dẫn hs chuẩn bị cho tiết kể chuyện
tuần sau. Trên lớp, gv tổ chức cho hs kể chuyện trong nhóm
trước để các em tập dượt.
- Trong khi hs kể chuyện, gv vần đứng đối diện với hs, dùng
ánh mắt, cử chỉ động viên, khích lệ và giúp đỡ kịp thời khi
các em gặp khó khăn. Đồng thời, khích lệ kịp thời để các em
có tinh thần cố gắng và hăng hái hơn.


HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA
1.

Vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu
1.1. Vị trí

- Đóng vai trò trong sự phát triển nhận thức, hứng thú sáng
tạo của hs.
- Tạo điều kiện để hs và gv gần gũi nhau trên cơ sở tính hấp
dẫn của môn học và cùng tham gia một hoạt động.
1.2. Nhiệm vụ
- Nâng cao hứng thú của hs đối với môn TV với lời nói sống
động; giáo dục các em lòng yêu quý tiếng mẹ đẻ - phương tiện
giao tiếp tinh tế nhất của dân tộc.
- Phát triển hoạt động nhận thức của hs làm cho các em quen
với việc sử dụng tài liệu tham khảo, phát triển nhu cầu tự học.
- Làm cho kiến thức về TV mà hs tiếp thu được trong giờ học
trở nên sâu sắc hơn; nâng cao hiệu quả dạy học TV trong giờ
chính khóa bằng cách phát triển các kỹ năng ngôn ngữ.

1.3. Yêu cầu
Cần đảm bảo nguyên tắc hệ thống, tự nguyện, đề cao tính
tích cực độc lập của hs cũng như phải tính đến nguyên tắc lựa
chọn, hứng thú của hs, tính hấp dẫn của hoạt động ngoại khóa
và tính thực hành của nó.
2.

Các hình thức hoạt động ngoại khóa

Hình thức HĐNK môn TV rất phong phú và đa dạng. Được
chia thành 2 loại lớn: HĐNK trong phạm vi lớp học, trường học
và HĐNK ngoài nhà trường.


2.1. Các HĐNK trong phạm vi lớp học, trong nhà trường
- Nhóm tiếng việt.
- Góc tiếng việt.
- Báo tường.
- Thi sáng tác thơ, văn, kịch.
- Thi vở sạch chữ đẹp.
- Thi đọc thơ, ngâm thơ, kể chuyện.
- Dạ hội văn học.
- Một số các trò chơi TV: đố vui, giải nghĩa từ, giải ô chữ, …
- Sổ tay chính tả, sổ tay từ ngữ.
- Sưu tầm tục ngữ, ca dao.
2.2. Các HĐNK ngoài nhà trường
- Thăm quan
- Thăm và gặp gỡ các tác giả có trong bài trích tiếng việt, bà
mẹ việt nam anh hùng, …
3.


Cách tổ chức một số HĐNK Tiếng Việt ở Tiểu học

Bất kỳ một HĐNK nào khi tổ chức cũng gồm các bước sau:
- Bước 1:
+ Xác định thời gian, địa điểm tổ chức HĐNK.
+ Xác định mục đích HĐNK.
+ Xác định yêu cầu HĐNK.
- Bước 2: Chuẩn bị
+ Chuẩn bị của giáo viên.


+ Chuẩn bị của hs.
- Bước 3: Cách tiến hành
+ GV nêu nội dung hoạt động.
+ HS trình bày sản phẩm.
+ GV nêu ý nghĩa của HĐNK.
Ví dụ: HĐNK trò chơi truyền điện
- Bước 1:
+Thời gian: cuối tiết học tập đọc – học thuộc lòng hoặc
ôn tập học thuộc lòng.
+Địa điểm: tại lớp học.
+Mục đích: rèn kỹ năng đọc trôi chảy, diễn cảm bài thơ.
Rèn khả năng tập trung suy nghĩ cao độ. Rèn phản xạ
nhanh, nhạy. Tạo hứng thú và không khí sôi nổi trong học
tập.
+Yêu cầu: tinh thần tự nguyện tự giác, chia làm 2 nhóm.
- Bước 2: Chuẩn bị
GV xác định bài thơ sẽ chơi (thường là bài thơ vừa học
xong);

HS 2 nhóm A & B ngồi quay vào nhau (hoặc đứng thành
2 hàng đối diện).
- Bước 3: Tiến hành trò chơi
+ GV nêu cách chơi: Hai nhóm bốc thăm hoặc oẳn tù tì để
giành quyền đọc trước.
Đại diện nhóm đọc trước, đọc câu đầu tiên của bài thơ
rùi chỉ định thật nhanh (truyền điện) một bạn bất kì của


nhóm kia. Bạn được chỉ định đọc tiếp, đọc nhanh câu thơ
của bài. Nếu đọc thuộc được sẽ chỉ định lại 1 bạn bất kì của
nhóm kia. Cứ như vậy cho đến hết bài.
Trường hợp hs được “truyền điện” chưa thuộc, các bạn
nhóm đối diện sẽ hô từ 1 đến 5. Nếu không đọc được phải
đứng yên tại chỗ (bị điện giật). Lúc đó hs chỉ định trước đó
sẽ chỉ định tiếp 1 bạn trong nhóm này.
Cuối cùng nhóm nào có nhiều hs “bị điện giật” nhiều
nhất sẽ thua cuộc.
+HS bắt đầu chơi
+Khi kết thúc trò chơi, gv hỏi hs ý nghĩa của trò chơi :
“truyền điện”.
Các em có thấy vui không?
Qua trò chơi, các em học được gì? …
HS trả lời …



×