TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH SÁCH CÔNG
Đề tài:
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (từ 1986 đến nay)
Học viên :
Lớp
: Cao học XDĐ
Mở đầu
1) Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi quốc gia đa dân tộc bao giờ cũng coi trọng bảo vệ và thực hiện lợi
ích của các dân tộc thông qua Chính sách dân tộc. Chính sách dân tộc là toàn
bộ những chủ trương, biện pháp tác động vào tất cả các lĩnh vực của đời sống
các dân tộc nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản là Đảng duy
nhất cầm quyền, Đảng vừa có vai trò lãnh đạo Nhà nước, vừa có vai trò lãnh
đạo xã hội, những chủ trương, nghị quyết của Đảng được thể chế hoá thành
các Chính sách cụ thể của Nhà nước. Nếu như Chính sách công là những
chiến lược khai thác, phân phối, sử dụng các nguồn lực cho các mục tiêu
chính trị, kinh tế, xã hội của một quốc gia thì Chính sách dân tộc là một bộ
phận của Chính sách công, mang tính đặc thù là toàn bộ những nỗ lực của
Nhà nước, thông qua những nguyên tắc, biện pháp ứng xử, những chủ trương,
chính sách của Nhà nước đối với sự phát triển của các dân tộc, phù hợp với
nhu cầu giải quyết các vấn đề dân tộc ở mỗi thời kỳ. Chính sách dân tộc là
những chính sách mang tính tổng hợp, gắn việc phát triển, khai thác tiềm
năng, thế mạnh truyền thống của các dân tộc và vùng đồng bào trong quan hệ
hữu cơ với phát triển, khai thác tiềm năng, thế mạnh truyền thống của các
vùng khác trong cả nước, hướng tới phát triển con người, phục vụ con người.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, phần lớn các dân tộc thiểu số
sống ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo - những địa
bàn có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị và môi trường sinh thái. Đời sống
của đồng bào các dân tộc nói chung còn gặp nhiều khó khăn so với các vùng
khác trong cả nước, đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà
nước, nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển của các dân tộc. Những yêu
cầu đòi hỏi của các dân tộc cần được thoả mãn thông qua vai trò điều tiết của
Nhà nước. Và nếu những đòi hỏi chính đáng của các dân tộc không được giải
quyết, không được thoả mãn thì rất có nguy cơ dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội, dẫn tới xung đột chính trị và bất ổn trong quan hệ giữa các dân tộc.
Đặc biệt là trong thời kỳ đất nước đang tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá,
2
hiện đại hoá để đi lên chủ nghĩa xã hội thì việc nhận thức và giải quyết đúng
đắn vấn đề dân tộc càng có ý nghĩa chiến lược để thực hiện sự bình đẳng và
tạo sự phát triển đồng đều giữa các dân tộc.
Việc hoạch định và thực hiện tốt Chính sách dân tộc lại càng có ý nghĩa
hơn khi bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, xu thế hội nhập nền kinh tế
quốc tế và khu vực tăng lên, các mặt tích cực và tiêu cực của xu thế ấy diễn ra
đan xen và tác động nhiều mặt, nhiều chiều khiến cho vấn đề dân tộc và quan
hệ dân tộc lại càng có những diễn biến phức tạp và các thế lực thù địch vẫn
tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” hòng lật đổ chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn khu vực các vùng dân
tộc nói riêng, việc thực hiện Chính sách dân tộc trong điều kiện mới, dưới tác
động của tình hình chính trị - xã hội phức tạp trên thế giới, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội ở từng địa phương cũng như trên cả nước
đòi hỏi phải được làm sáng tỏ về phương diện lý luận và thực tiễn để nâng cao
hiệu quả việc thực hiện Chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đưa những định hướng Chính sách dân
tộc trong thời kỳ phát triển mới.
Từ những vấn đề mang tính thực tiễn và cấp bách như trên, em chọn đề
tài Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (từ 1986 đến nay) làm đề tài tiểu luận của
mình.
2) Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ khi ra đời cho đến nay, Vấn đề dân tộc và Chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta luôn thu hút được sự quan tâm và nghiên cứu của nhiều
người, nhiều ngành nhằm xây dựng và hoạch định Chính sách dân tộc đúng
đắn cho từng thời kỳ phát triển, có thể kể ra một số công trình nghiên cứu sau:
Ban Tư Tưởng Văn hoá Trung ương: Vấn đề dân tộc và Chính ách dân
tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002.
Viện Nghiên cứu Chính sách dân tộc và Miền núi: Vấn đề dân tộc và
định hướng xây dựng Chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
Tuy nghiên cứu về Chính sách dân tộc dưới nhiều góc độ khác nhau
3
nhưng các công trình của các tác giả chỉ nghiên cứu khái quát từng lĩnh vực
nhỏ trong hệ thống Chính sách dân tộc. Đặc biệt chưa có tác giả nào đi sâu
làm rõ việc hoạch định và thực hiện Chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới,
nhất là sau Đại hội đổi mới, từ 1986 đến nay. Với đề tài tiểu luận của mình,
em sẽ đi sâu giải quyết những vấn đề đó.
3) Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích của đề tài là nghiên cứu về Chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ 1986 đến
nay, đề tài đi sâu nghiên cứu tìm hiểu những cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự
ra đời Chính sách dân tộc, việc hoạch định Chính sách dân tộc cụ thể trên
từng lĩnh vực và quá trình thực hiện Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta. Nghiên cứu những vấn đề bức thiết đặt ra trong việc thực hiện Chính
sách dân tộc và những định hướng, giải pháp xây dựng Chính sách dân tộc
trong thời kỳ phát triển mới.
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, tiểu luận cần làm tốt những
nhiệm vụ sau:
Đưa ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho sự hình thành Chính sách
dân tộc của Đảng, đặc biệt là Chính sách dân tộc từ năm 1986 đến nay.
Làm rõ những nội dung Chính sách dân tộc của Đảng thể hiện trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế, môi trường…Phân tích thực trạng
thực hiện Chính sách dân tộc của Đảng qua 20 năm đổi mới và những vấn đề
bức thiết đặt ra trong việc thực hiện Chính sách dân tộc.
Hệ thống khái quát những thành tựu mà Chính sách dân tộc mang lại và
những định hướng xây dựng Chính sách dân tộc trong thời kỳ phát triển mới.
4) Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Để làm sáng tỏ nội dung và đảm bảo tính khoa học của đề tài, tiểu luận
được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Mác xít, vận dụng chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc làm rõ cơ sở lý luận và
cơ sở thực tiễn cho sự hình thành Chính sách dân tộc. Ngoài ra tiểu luận còn
sử dụng các phương pháp lôgíc- lịch sử, phương pháp phân tích- tổng hợp
4
thông tin, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê để phân tích, đánh giá
những vấn đề có liên quan đến tiểu luận.
5) Cái mới của đề tài.
Dưới góc độ nhìn nhận Chính sách dân tộc là một bộ phận của Chính
sách công, tiểu luận làm rõ những vấn đề có liên quan đến Chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta từ 1896 đến nay, quá trình thực hiện Chính sách dân
tộc và những thành tựu mà Chính sách mang lại trong đời sống thực tiễn của
đồng bào các dân tộc về kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục v.v…Những đánh
giá và giải pháp xây dựng Chính sách dân tộc trong thời kỳ phát triển mới.
6) ý nghĩa của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta từ 1986 đến nay sẽ cho chúng ta có cái nhìn bao quát và toàn diện về Chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, thấy được sự phát triển trong việc
nhận thức và hoạch định Chính sách dân tộc trong thời kỳ phát triển mới.
Đồng thời, tiểu luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến Vấn đề dân tộc và Chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
5
NI DUNG
Chng 1:
C s lý lun v thc tin v Vn dõn tc v Chớnh sỏch
dõn tc ca ng v Nh nc ta
1.1. C s lý lun
1.1.1 Quan im ca Ch ngha Mỏc Lờnin v Vn dõn tc v
Chớnh sỏch dõn tc.
Trong tỡnh hỡnh th gii t do cnh tranh chuyn sang giai on ch
ngha quc, cc din th gii cú nhiu bin i sõu sc, cỏc nc ch ngha
quc tin hnh xõm lc cỏc nc thuc a. Lỳc ny vn dõn tc, gii
phúng dõn tc tr thnh vn núng bng. Chớnh trong lỳc ny nhng nghiờn
cu ca Lờnin v vn dõn tc ó c hon thin trờn c s ca ch ngha
Mỏc.
Ch ngha Mỏc ngghen ra i trc thi k ch ngha t bn c
quyn, lỳc ny vn dõn tc cha mõu thun ti mc gay gt, nờn cỏc ụng
cha trỡnh by mt cỏch tp trung quan im ca mỡnh v vn dõn tc. Tuy
nhiờn, cú th khỏi quỏt mt s lun im ca C.Mỏc v ngghen v vn
dõn tc nh sau: Mt l, C.Mỏc v ngghen kiờn quyt chng li ỏch ỏp bc
v búc lt cỏc dõn tc khỏc ca giai cp t sn: Hóy xoỏ b tỡnh trng ngi
búc lt ngi thỡ tỡnh trng dõn tc ny búc lt dõn tc khỏc cng s b xoỏ
b(1). Hai l, khi cp n phong tro gii phúng dõn tc Ba Lan, Airlen,
vựng Ban Cng v.v C.Mỏc v ngghen trc sau nh mt, ng h u
tranh ca cỏc dõn tc b ỏp bc, ũi thnh lp ch t tr, thm chớ tỏch ra
thnh mt nh nc c lp riờng bit. gii quyt vn dõn tc mt cỏch
trit trờn lp trng giai cp vụ sn.C.Mỏc v ngghen ch trng phi
tin hnh cuc cỏch mng xó hi ch ngha, th tiờu nh nc t sn, xõy
dng mt nh nc kiu mi, khụng cũn i khỏng giai cp na.
Trong iu kin lỳc ú, hai ụng nhn thc rng cỏch mng xó hi ch
ngha khụng th thng li trong mt nc riờng l, m ch cú th thng li
ng thi trong mt lot nc. Vỡ vy, t c mc ớch lt nh nc
t sn, giai cp vụ sn cỏc nc phi liờn hip li. Nhu cu tt yu l phi
thit lp mt s on kt quc t, ch ngha quc t vụ sn l nột rt quan
(1)
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.624
6
trọng trong thế giới quan cộng sản chủ nghĩa. Chính vì vậy, Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản nổi tiếng được kết thúc bằng khẩu hiệu có sức mạnh động viên
và cổ vũ lớn lao, mang tính thời đại: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.
Trên cơ sở của Chủ nghĩa Mác, Lênin đã phát triển và có những đóng
góp rất quan trọng về phương diện lý luận, cũng như về mặt thực tiễn của vấn
đề dân tộc. Trong tác phẩm Ý kiến phê phán về vấn đề dân tộc, Lênin viết:
“Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, có hai xu hướng lịch sử
trong vấn đề dân tộc. Xu hướng thứ nhất là: Sự thức tỉnh của đời sống dân
tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi áp bức dân tộc,
việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là: Việc phát triển và
tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xoá bỏ những hàng rào
ngăn cách các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư sản, của
đời sống kinh tế nói chung, của chính trị, của khoa học v.v… Cả hai xu
hướng đó là quy luật phổ biến của chủ nghĩa tư bản”
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, bắt đầu thời kỳ thứ hai của sự phát
triển các phong trào giải phóng, khuôn khổ của các nhà nước riêng lẻ đã trở
nên chật chội đối với chủ nghĩa tư bản. Khi trong thị trường dân tộc, quần
chúng lao động bị bần cùng hoá, không có khả năng tiêu thụ tất cả khối lượng
hàng hoá sản xuất ra, thì Anh, Pháp và một số nước tư bản khác đã đi xâm
chiếm các nước nhỏ yếu, thành lập các thuộc địa. Vấn đề dân tộc trở thành
vấn đề dân tộc thuộc địa. Chủ nghĩa đế quốc trở thành kẻ bóc lột các dân tộc
tàn bạo nhất. Cuộc đấu tranh của các dận tộc bị áp bức, hoà nhịp với cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp vô sản ở các nước đế quốc chống lại toàn bộ hệ
thống chủ nghĩa đế quốc, hình thành sự thống nhất quốc tế trong cuộc đấu
tranh chung để giải phóng khỏi ách áp bức giai cấp và áp bức dân tộc. Chính
trong những điều kiện như vậy, phát triển khẩu hiệu cách mạng của Các Mác
và Ăngghen. Lê nin đã nêu khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại”.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Vấn đề
dân tộc và Chính sách dân tộc.
Với tư cách là hệ thống những luận điểm sâu sắc và toàn diện về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận động và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
7
thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá của nhân loại, tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung toàn diện và
phong phú, trong đó có nội dung vô cùng quan trọng về Vấn đề dân tộc và
Chính sách dân tộc. Đấy cũng chính là cơ sở, là định hướng cho Đảng ta đề ra
Chính sách dân tộc nhằm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội miền núi, thực
hiện đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và củng cố mối quan hệ giữa các dân tộc
ngày càng bền chặt, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn của cộng đồng dân tộc
Việt Nam thống nhất. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Vấn đề
dân tộc và Chính sách dân tộc có thể khái quát thành những ý chính sau:
Thứ nhất, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người Việt Nam.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin , Hồ Chí Minh đã sớm ý
thức được tính chất của thời đại mới, thời đại thắng lợi của cách mạng vô sản
mở đầu bằng thắng lợi của cách mạng tháng Mười – Nga vĩ đại, Người sớm ý
thức được rằng: Chủ nghĩa đế quốc giống như con đỉa hai vòi, một vòi bám
vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc
phải chặt cả hai vòi của nó; cách mạng vô sản và cách mạng ở thuộc địa phải
như hai cánh của một con chim, phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu
giữa vô sản như chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa; phải
xoá bỏ thuộc địa trước, cách mạng thuộc địa không nhất thiết phải chờ đợi,
phải phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà phải chủ động, đem sức ta mà
giải phóng cho ta, cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, từ đó
giúp cho cách mạng vô sản ở chính quốc giành thắng lợi. Xác định được con
đường đúng đắn. Hồ Chí Minh đã phấn đấu thành lập chính đảng của giai cấp
công nhân nước ta. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, đường lối cách
mạng nước ta được xác định rõ: Làm cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do
giai cấp công nhân lãnh đạo, đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, thực
hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, tiến lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa mà mục đích cuối cùng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Đường lối cách mạng thể hiện sự kết hợp chặt chẽ, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; kết hợp cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và đấu tranh
giải phóng dân tộc trong điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta, đưa cách
mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến vào quỹ đạo của cách mạng vô
8
sản. Có như vậy mới thực hiện được sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người Việt Nam.
Để thực hiện được cuộc cách mạng như thế, Hồ Chí Minh chủ trương
giáo dục, đánh thức ý thức dân tộc, xoá bỏ hiềm khích, thành kiến giữa các
dân tộc do thực dân, phong kiến gieo rắc, thực hiện sự đoàn kết các dân tộc: “
Là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với
những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ.
Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ
vang và các dân tộc xoá bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng
nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”.
Thứ hai, Chính sách dân tộc phải hướng tới thực hiện sự bình đẳng,
giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về cương lĩnh dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng nước ta là một nước
thống nhất gồm nhiều dân tộc. Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực
hiện sự bình đẳng, giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Theo Người, làm cách mạng giành độc lập dân tộc mà độc lập rồi dân
cứ đói, rét, chỉ một số người được hưởng hạnh phúc, đồng bào các dân tộc
thiểu số ở vùng sâu, vùng xa vẫn nghèo khổ, bệnh tật, chưa xoá xong nạn mù
chữ thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Bởi vậy các dân tộc miền núi cũng như
đồng bào miền xuôi phải giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội. “Đồng bào miền núi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền xuôi.
Và đồng bào miền xuôi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền núi )”. Người
yêu cầu Đảng và Chính phủ phải có chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội để phát triển toàn diện miền núi, nhằm đưa miền núi tiến kịp miền
xuôi, để đồng bào cả nước ai cũng có cơm ăn, ai cũng được học hành, ai cũng
được làm chủ đất nước.
Thứ ba, Chính sách dân tộc phải chú ý tính đặc thù dân tộc và phải khơi
dậy, phát huy khả năng vươn lên của các dân tộc.
Là thành viên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, song mỗi dân tộc
thiểu số đều có một nền văn hoá đậm đà bản sắc, với một tâm lý, với một
phong tục tập quán, lối sống đặc thù, bởi vậy trong công tác, đặc biệt là công
tác tuyên truyền phải chú ý tới đặc điểm này. Người nói: “Một tỉnh có đồng
9
bào Thái, đồng bào Mèo, thì tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào Thái
khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp” Theo Hồ Chí
Minh, không chỉ có chương trình, kế hoạch phù hợp với đồng bào miền núi
mà ngay cả thể hiện cũng được diễn tả “nôm na” để đồng bào dễ hiểu, dễ làm
theo. Người căn dặn: “Nếu cứ nói là làm “cách mạng xã hội chủ nghĩa”, nào
là “tiến lên chủ nghĩa xã hội” nào là “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, đồng bào
dân tộc thiểu số khó hiểu, ít người hiểu. Phải nói rõ xây dựng chủ nghĩa xã
hội là làm gì? Nói nôm na để người ta dễ hiểu, hiểu để người ta làm được"
Thứ tư, Chính sách dân tộc phải hướng vào sự phát triển toàn diện miền
núi, song phải lấy phát triển lâm nghiệp làm khâu đột phá, tạo tiền đề cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Là đất nước mà 3/4 diện tích là rừng núi với nhiều tiềm năng, thế
mạnh, đặc biệt là về đất và rừng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới yêu cầu phát
triển của đồng bào miền núi và đặc điểm, khả năng phát triển của miền núi.
Theo Người, đi lên chủ nghĩa xã hội phải đi bằng hai chân, công nghiệp và
nông nghiệp. Song ở miền núi, tiềm năng và thế mạnh là đất và rừng, bởi vậy,
phải đi lên trước hết bằng thế mạnh của mình, phát triển lâm nghiệp, coi đây
là khâu đột phá, tạo điều kiện, tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá miền
núi.
Thứ năm, Chính sách dân tộc phải được bắt đầu từ công tác cán bộ,
phải hướng trọng tâm vào công tác lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và
chăm sóc đội ngũ cán bộ, con em của đồng bào dân tộc.
Trong thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới công tác
cán bộ. Theo Người, cán bộ là gốc của mọi công việc… công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Người đòi hỏi công tác cán bộ phải
chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cân nhắc cán bộ miền núi. Người cán bộ Kinh
phải giúp đỡ anh em cán bộ địa phương, để làm cho cán bộ địa phương tiến
bộ, để anh em tự quản lý lấy công việc ở địa phương. Trong công tác cán bộ
đối với đồng bào dân tộc thiểu số, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới cán bộ
nữ, bởi vai trò của họ rất quan trọng: “phụ nữ các dân tộc miền núi đã có
công ủng hộ phong trào cách mạng và đóng góp cho kháng chiến rất nhiều"
Bởi vậy, đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số nói riêng là đòi
hỏi thực tiễn miền núi và của cách mạng nước ta.
10
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vị trí của Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trong lịch sử và hiện tại ở nước ta
luôn là vấn đề xã hội, có tính đặc thù trong chiến lược phát triển của quốc gia
đa dân tộc và của nhân loại. Giải quyết Vấn đề dân tộc thông qua chính sách
dân tộc là một ‘kênh” cơ bản nó phản ánh quan điểm giai cấp, bản chất của
Đảng lãnh đạo và Nhà nước cầm quyền cụ thể.
Thực chất của Vấn đề dân tộc là việc nhận thức và giải quyết mối quan
hệ dân tộc trong một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau. Trong lịch sử
nhân loại và của nhiều quốc gia trên thế giới, việc giải quyết tốt hay không tốt
mối quan hệ dân tộc sẽ dẫn đến có hay không có xung đột giữa các dân tộc
trên nhiều phương diện. Các quan hệ của các khối cộng đồng người trong xã
hội tiền giai cấp có đặc điểm riêng ở mức độ nhất định do trình độ phát triển
kinh tế và xã hội chưa phân hoá gay gắt. Nếu có chỉ là mối quan hệ xung đột
quanh địa bàn cư trú và vùng ảnh hưởng của các khối cộng đồng đó. Trong
tình hình đó có ý kiến cho rằng, Vấn đề dân tộc và Chính sách dân tộc chưa
đặt ra. Khi xã hội loài người xuất hiện giai cấp và nhà nước, Vấn đề dân tộc,
quan hệ dân tộc và Chính sách dân tộc được đặt ra và trở thành vấn đề không
giản đơn đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đa dân tộc. Vấn đề dân
tộc và Chính sách dân tộc trên thế giới và của nước ta có vị trí rất quan trọng
tác động toàn diện và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình phát triển của một
quốc gia. Ở nước ta, Vấn đề dân tộc, Chính sách dân tộc có vị trí, ý nghĩa
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta.
Vị trí, ý nghĩa chiến lược của Vấn đề dân tộc và Chính sách dân tộc:
Một quốc gia thuộc phạm trù của chế độ Tư bản hay chế độ Xã hội chủ nghĩa
nhưng nếu không quan tâm đúng mức và giải quyết đúng Vấn đề dân tộc thì
sẽ gặp không ít khó khăn trong ổn định tình hình xã hội, trong phát triển kinh
tế và nhiều vấn đề khác liên quan đến an ninh, quốc phòng v.v… Trong điều
kiện của một quốc gia đa dân tộc, nếu không coi Vấn đề dân tộc có vị trí, ý
nghĩa chiến lược thì sẽ không có những chính sách và đầu tư đúng tầm yêu
cầu thực tế khách quan đòi hỏi, sẽ gặp không ít khó khăn trong thực tiễn đặt
ra, ảnh hưởng đến đường lối và sự nghiệp phát triển chung của quốc gia.
11
1.2.2. Các quan điểm và nguyên tắc cơ bản trong việc hoạch định
Chính sách dân tộc.
• Các quan điểm cơ bản
Đảng và Nhà nước ta trong quá trình hoạch định Chính sách dân tộc đã
căn cứ trên một hệ thống các quan điểm tư tưởng cơ bản về Vấn đề dân tộc và
yêu cầu của Chính sách dân tộc với các nội dung sau đây:
Giải quyết Vấn đề dân tộc ở nước ta là giải phóng con người thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu; thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; thực hiện dân chủ tự do cho các dân tộc; phát huy truyền
thống đoàn kết xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Thực hiện Chính sách dân tộc là nghiên cứu, thấm nhuần và vận dụng
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể,
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ sao cho phù hợp như:
nắm thực trạng tình hình dân tộc từng vùng, từng địa phương; nắm tâm tư
nguyện vọng của đồng bào các dân tộc; hiểu biết về phong tục tập quán, điều
kiện môi trường tự nhiên, xã hội của đồng bào các dân tộc sinh sống; đề xuất,
thực hiện, kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung Chính sách dân tộc; tổ chức bộ máy
làm cho công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương sao cho hiệu quả.
Thực hiện Chính sách dân tộc là quán triệt và thực hiện chính sách phát
triển kinh tế, chính sách xã hội kết hợp với an ninh quốc phòng. Để thực hiện
Chính sách dân tộc theo nội dung trên cần quán triệt quan điểm, phương pháp
luận trong một quy trình: nắm thực trạng để thấy được nhu cầu, và từ đó rút ra
được bản chất, yêu cầu của vấn đề, để hoạch định nội dung Chính sách dân
tộc, đồng thời cũng thấy được tính phức tạp, lâu dài của Chính sách dân tộc.
Nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện Chính sách dân tộc ở Việt Nam là căn cứ
vào đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội, văn hoá của các dân tộc và của từng
vùng đồng bào dân tộc sinh sống:
• Các nguyên tắc cơ bản
Trên cơ sở quán triệt cương lĩnh về dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin,
ngay sau khi ra đời Đảng ta đã xây dựng những nguyên tắc cơ bản cho vấn đề
dân tộc, đó là: Bình đẳng giữa các dân tộc, Đoàn kết giữa các dân tộc, Tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Các nguyên tắc cơ bản là những cơ sở
quan trọng, là định hướng xuyên suốt cho mọi thời kỳ cách mạng để hoạch
12
định chính sách dân tộc. Chính sách dân tộc trong thực tiễn cách mạng nước
ta trong suốt thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI rất đa dạng và phong phú, phù hợp
với tính chất và yêu cầu của từng thời kỳ. Các nguyên tắc cơ bản được quán
triệt và xuyên suốt tạo nên tính ổn định và góp phần làm nên thành tựu vĩ đại
của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm giành lại hoà
bình, thống nhất đất nước và đang từng bước thu được những thành quả quan
trọng trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bình đẳng giữa các dân tộc: Bình đẳng giữa các dân tộc là một thái độ
khách quan, thái độ chính trị đúng đắn của giai cấp cầm quyền ở một quốc gia
đa dân tộc, trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với các dân tộc. Đây là
luận điểm quan trọng về dân tộc của học thuyết mácxít – lêninnít được Đảng
ta quán triệt và vận dụng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Bình đẳng về
dân tộc là thực hiện quyền ngang nhau của mọi dân tộc không phân biệt đa số
hay thiểu số; da trắng hay da vàng, da đen; trình độ phát triển cao hay thấp.
Bình đẳng về dân tộc là thực hiện quyền ngang nhau của mọi thành phần dân
tộc về các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội như tự quyết về chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hoá v.v… thông qua các hình thức pháp lý.
Đoàn kết các dân tộc: Đoàn kết các dân tộc là sự đoàn kết giữa những
người lao động thuộc các thành phần tộc người khác nhau trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vì sự phát triển của con người và của các tộc
người. Đoàn kết là nguyên tắc quan trọng trong việc hoạch định và thực hiện
Chính sách dân tộc ở nước ta. Dân tộc ta trong lịch sử vốn có truyền thống
yêu nước, đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc
và đoàn kết trong lao động xây dựng đất nước. Đoàn kết các dân tộc là
nguyên tắc được Đảng và Nhà nước ta coi trọng như một tài sản vô giá của
quốc gia và được vận dụng một cách sáng tạo để tập hợp lực lượng, nhân tài
vật lực của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tạo nên sức mạnh vật chất to lớn
đánh thắng các thế lực ngoại xâm hùng mạnh của thời đại và đang tiến hành
công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá với những thành công quan
trọng bước đầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đồng bào, chiến sỹ, cán bộ, đảng
viên phải nêu cao tinh thần đoàn kết mọi lúc, mọi nơi trong quá trình thực
hiện các nhiệm vụ chính trị: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,
thành công, đại thành công”. Đoàn kết với vị trí, vai trò lịch sử và hiện tại của
nó là nguyên tắc quan trọng trong quá trình hoạch định và thực hiện chính
13
sách dân tộc. Có thể nói, điều đó cũng chính là yếu tố tạo nên tính đặc thù của
Chính sách dân tộc ở nước ta trong thời gian qua, hiện nay cũng như về sau.
Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc: Nguyên tắc này ra đời
trong điều kiện các thành phần tộc người ở nước ta vừa nhiều, vừa phát triển
không đồng đều trên nhiều bình diện, nới nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan khác nhau. Từ những lý do lịch sử, các thành phần tộc người ở
nước ta có những trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, cư trú sinh
sống có nơi thuận lợi, có nơi lại rất nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế
(trồng trọt, chăn nuôi…), phát triển hạ tầng. Mặt khác, do đặc điểm lịch sử
nên ở nước ta tiến trình dựng nước luôn đi đôi với giữ nước. Sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập để xây dựng, phát triển đất nước không chỉ hao người tốn
của mà còn là nguyên nhân thường xuyên và quan trọng kéo chậm nhịp độ
phát triển của quốc gia và của các tộc người.
Các yếu tố trên tác động và chi phối sâu sắc đến chiến lược hoạch định
và thực hiện Chính sách dân tộc ở nước ta. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng
phát triển trong bối cảnh đó không chỉ là nguyên tắc mà còn là quy luật tất
yếu trong chính sách, chiến lược phát triển của dân tộc Việt Nam và của các
thành phần tộc người trong quốc gia. Chính sách dân tộc nếu không quán triệt
nguyên tắc tương trợ, không thấy được tình hình phát triển rất không đồng
đều, không thấy được các nguyên nhân khách quan và chủ quan trong lịch sử
và hiện tại chi phối lối sống, phong tục tập quán, chi phối dân trí; không thấy
được cái tạo nên mức sống thấp, nghèo nàn của các tộc người thì sẽ hạn chế
về nội dung và kết quả trong hoạt động thực tiễn.
14
Chương 2
Nội dung và quá trình thực hiện Chính sách dân tộc trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (từ 1986 đến nay)
2.1. Nội dung Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta từ 1986
đến nay.
Khi đề cập đến phương hướng của Chính sách dân tộc, Nghị quyết Đại
hội lần thứ VI của Đảng đã nêu rõ: Chính sách dân tộc luôn luôn là một bộ
phận trọng yếu trong chính sách xã hội và sự phát triển mọi mặt của từng dân
tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước
ta. sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy
luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ
tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc. Tình cảm dân tộc,
tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi
xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng đối với những gì
liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi người. Chống
những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu hiện
của tư tưởng dân tộc hẹp hòi.
Quan điểm, chính sách về Vấn đề dân tộc được kế thừa, thống nhất và
cụ thể hoá trong từng giai đoạn, kế hoạch xây dựng và phát triển đất nước nói
chung và vùng dân tộc và vùng miền núi nói riêng. Thực hiện các Nghị quyết
Đại hội VII, VIII, XI, X của Đảng, Trung ương Đảng và Chính phủ đã tập
trung đề ra nhiều chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
và miền núi. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá tập trung vào các lĩnh vực cơ bản
sau:
2.1.1. Chính sách dân tộc về phát triển kinh tế.
Chính sách dân tộc thể hiện các chủ trương chính sách của và Nhà nước
về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi
nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương và từng bước khắc phục
sự chênh lệch giữa các vùng, miền và góp phần vào sự phát triển chung của
đất nước. Các chính sách đó là: hỗ trợ và phát triển khoa học kỹ thuật, đổi
mới cơ cấu kinh tế định canh, định cư, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao đất, giao
rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế
15
trang trại, kinh tế hợp tác xã dưới mọi hình thức và mức độ, gắn với quá trình
chuyển giao công nghệ tiên tiến, bồi dưỡng nghiệp vụ… nhằm thúc đẩy quá
trình chuyển biến từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi
với những kết quả và hạn chế Bộ chính trị đã ra Nghị quyết quan trọng số 22
– NQ/TW ngày 27/12/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển
kinh tế - xã hội miền núi. Đây là một Nghị quyết quan trọng chi phối cơ bản
chính sách, tình hình phát triển kinh tế - xã hội tạo nên nét mới trong quốc
sách phát triển vùng miền núi, dân tộc thiểu số so với các chính sách trước đó.
Trên cơ sở đánh giá, phân tích tình hình kinh tế - xã hội, chính sách thời gian
trước năm 1989, đặc biệt là những tồn tại về tình hình kinh tế - xã hội miền
núi, Bộ chính trị đã chỉ ra các nguyên nhân chủ yếu là về nhận thức chưa sâu
sắc vị trí, điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội; còn nhiều sai lầm trong công tác
xây dựng quan hệ sản xuất; phương thức đào tạo, sử dụng cán bộ tại chỗ, cán
bộ dân tộc thiểu số chưa tốt; sự lãnh đạo chỉ đạo của Trung ương chưa tương
xứng, hiệu lực thấp.
2.1.2 Chính sách dân tộc trên lĩnh vực chính trị.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện Chính sách dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển. Đảm bảo quyền làm chủ
của đồng bào các dân tộc, phát huy truyền thống đoàn kết trong cộng đồng,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, lý tưởng Hồ Chí Minh,
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng chính quyền cơ sở, các
tổ chức quần chúng, các đoàn thể chính trị vững mạnh, ổn định trong vùng
đồng bào dân tộc.
Tại Đại hội lần thứ VII (tháng 6/1991) trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định một trong những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
đang xây dựng là: “Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ”. Đó cũng là quan điểm cơ bản trong Chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách ấy được thể chế hoá bằng pháp luật, tại
điều 5, Hiến pháp 1992 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ:
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước thống nhất của
16
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; Nhà nước thực hiện
chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi
hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết,
giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán truyền thống,
văn hoá tốt đẹp của dân tộc mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển
về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
đồng bào dân tộc thiểu số ). Những điều đã được ghi trong Hiến pháp thể hiện
tính nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc thiết lập chế độ chính trị
ổn định, vững chắc, đó cũng là tiền đề để Đảng và Nhà nước ta thực hiện tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong thời kỳ đổi mới
2.1.3. Chính sách dân tộc trên lĩnh vực giáo dục – đào tạo.
Đảng và Nhà nước tập trung chỉ đạo ưu tiên phát triển giáo dục - đào
tạo và coi trọng hoạt động công tác đào tạo cán bộ và đội ngũ cán bộ tri thức
người dân tộc thiểu số. Vấn đề và chính sách giáo dục đối với vùng dân tộc
thiểu số được tập trung vào thực hiện nhiệm vụ cơ bản nhằm nâng cao dân trí
thông qua hoạt động xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học cho thanh niên và
cán bộ cơ sở. Nhà nước tăng cường vốn đầu tư cho các trường học, xây dựng
các trường phổ thông dân tộc nội trú, có chế độ đãi ngộ đối với giáo viên và
học sinh miền núi nhằm thu hút con em đồng bào vùng dân tộc đi học. Thực
hiện chủ trương đó, Chính phủ đã ra Quyết định số 253 – CP ngày 7/7/1990
về bổ sung quỹ học bổng học sinh, sinh viên các trường sư phạm và học sinh,
sinh viên miền núi. Chỉ thị của Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng số 287 – CT
ngày 4/8/1992 về một số vấn đề cấp bách trong công tác giáo dục – đào tạo.
Quyết định số 19 – TTg ngày 19/1/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc
đầu tư cho hệ thống trường lớp đào tạo con em dân tộc trong quân đội. Ngoài
ra, hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng, trường dạy nghề ở khu vực miền
núi được Đảng và Nhà nước quan tâm và củng cố, hình thành bốn trung tâm
Đại học khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu
Long. Chính sách cử tuyển trong giáo dục – đào tạo đã tạo điều kiện cho con
em vùng dân tộc khó khăn được tiếp tục đi học. Nhờ có chính sách này mà
nhiều dân tộc thiểu số đã xây dựng được đội ngũ tri thức có trình độ Đại học,
trên Đại học và trở thành đội ngũ cán bộ cốt cán của Đảng.
17
2.1.4 Chính sách dân tộc trên lĩnh vực y tế.
Các chính sách y tế trong giai đoạn mới được tập trung vào một số nội
dung: Xây dựng và củng cố hệ thống y tế cơ sở vùng dân tộc thiểu số như xây
dựng trạm xá xã, phòng khám đa khoa khu vực, tăng cường các dịch vụ y tế
chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân vùng dân tộc. Nhà nước ưu tiên các loại
thuốc chữa bệnh thông thường, thuốc phòng chống dịch cho vùng cao, miền
núi. Thực hiện chế độ cấp thuốc chống sốt rét, thuốc phòng chống bướu cổ.
Các bệnh viện thực hiện chế độ miễn viện phí cho đồng bào các dân tộc ở
vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Nhờ vậy mà công tác chăm sóc sức khoẻ
cho đồng bào đã bước đầu đạt được kết quả quan trọng, các bệnh dịch, sốt rét,
bướu cổ, phong, lao, được ngăn chặn. Công tác phòng chống suy dinh dưỡng
trẻ em, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em và dân số kế hoạch hoá gia đình đạt kết
quả khả quan. Chính phủ còn thực hiện các Chương trình y tế, Chương trình
dân số kế hoạch hoá gia đình, Chương trình nước sạch vệ sinh môi trường
theo Quyết định 237/QĐ/TTg ngày 3/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ và
các Chương trình mục tiêu phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm vì sức khoẻ và
chất lượng dân số ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, hoạt động của chương
trình này nhằm hướng tới việc phòng chống các bệnh bướu cổ, sốt rét, tiêm
chủng mở rộng, xoá xã trắng về y tế, đẩy mạnh công tác chăm lo sức khoẻ
nhân dân. Nhìn chung các chương trình này đã phát huy được tác dụng cải
thiện và nâng cao khả năng đề kháng bệnh tật, chữa trị và phòng ngừa các
dịch bệnh hay xảy ra trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
2.1.5 Chính sách dân tộc trên lĩnh vực văn hoá – thông tin.
Văn hoá dân tộc là một bộ phận cơ bản trong nền văn hoá quốc gia,
quan điểm và đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về văn hoá dân
tộc ngày càng được hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu phát triển của từng giai
đoạn cách mạng. Tại điều 30. Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Nhà nước và
xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam dân tộc hiện đại, nhân văn,
kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư
tưởng, đạo dức, phong cách Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân; Nhà nước thống nhất
quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản
động, đồi truỵ, bài trừ mê tín, hủ tục ). Các chính sách văn hoá thông tin trong
18
thời kỳ đổi mới đất nước, tập trung vào các vấn đề đầu tư kinh phí xây dựng
các trạm tiếp sóng Đài tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, thực
hiện chương trình phủ sóng vùng lõm, tăng cường các phương tiện thông tin
đại chúng; thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc, ưu
tiên kinh phí cho các hoạt động văn nghệ truyền thống, tăng cường sự giao
lưu văn hoá giữa các dân tộc trong nước và quốc tế.
2.2. Thực trạng thực hiện Chính sách dân tộc qua 20 năm đổi mới ở
nước ta
2.2.1 Quá trình thực hiện Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Quá trình thực hiện nhất quán Chính sách dân tộc trong công cuộc đổi
mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã phát huy
được sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần đưa nước ta
vượt qua những thử thách cam go và đạt được những thành tựu nổi bật. Trong
quá trình thực hiện Chính sách dân tộc, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ
trương, biện pháp, bước đi phù hợp đối với từng lĩnh vực cụ thể để thực hiện
tốt toàn diện Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Để triển khai cụ
thể các nội dung Nghị quyết 22 – NQ/TW ngày 27/12/1989 của Bộ Chính trị,
Hội Đồng Bộ Trưởng đã ban hành quyết định số 72 – HĐBT ngày 13/3/1990
về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Thời
kỳ này, nhiều chính sách đã tập trung vào giải quyết các vấn đề xác định
quyền làm chủ đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào các dân tộc
thông qua giao đất, giao rừng, khắc phục tranh chấp đất đai, định canh, định
cư, bảo vệ và phát triển vốn rừng. Mặt khác, từng bước chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy trao đổi
hàng hoá giữa các vùng, điều chỉnh quan hệ sản xuất và cơ chế quản lý, phát
huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, thông qua các chương trình, dự án
Nhà nước. Nhà nước tập trung ưu tiên đầu tư vốn, chuyển giao khoa học –
công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp với tình hình và nhu cầu phát
triển của từng vùng, gắn tăng trưởng kinh tế với an ninh, quốc phòng và giải
quyết các vấn đề bức xúc về mặt xã hội của các dân tộc.
Các chỉ thị, quyết định tiếp theo của Trung ương Đảng và Chính phủ đã
đề cập đến việc quy hoạch phát triển vùng một số dân tộc như: Chỉ thị 68 –
CT/TW của Ban Bí thư ngày 18/4/1991 về công tác ở vùng đồng bào các dân
19
tộc Khơ- me; thông tri số 03- TT/TW của Ban Bí thư ngày 17/10/1991 về
công tác đối với vùng đồng bào Chăm. Chỉ thị số 45- CT/TW, ngày
23/09/1994 về một số công tác ở vùng dân tộc Mông. Những thông tri, chỉ thị
đó đã nêu những mặt tích cực và hạn chế trong việc thực hiện công tác dân
tộc, đặc điểm của từng dân tộc, từ đó đưa ra những định hướng cụ thể cho
việc thực hiện chính sách dân tộc ở các vùng dân tộc. Về kinh tế, đời sống:
Phát triển kinh tế, xã hội là cơ sở để thực hiện chính sách dân tộc, thực hiện
bình đẳng giữa các dân tộc. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào
dân tộc cần chú ý đến đặc điểm kinh tế và tập quán của từng vùng để bố trí cơ
cấu kinh tế cho phù hợp, xác định cụ thể cơ cấu cây trồng, vật nuôi hướng
theo mục tiêu phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần làm cho sản xuất,
đời sống của đồng bào dân tộc có những bước tiến rõ rệt, phát huy tinh thần
tự lực tự cường, khai thác mức cao nhất mọi tiềm năng trong nhân dân kết
hợp với sự đầu tư thích đáng của tỉnh và sự hỗ trợ của Trung ương. Coi trọng
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện, trọng tâm là sản xuất lương thực,
với biện pháp hàng đầu là phát triển thuỷ lợi, gắn với công nghiệp chế biến,
phát triển ngành nghề chăn nuôi, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, nhất là
các ngành nghề truyền thống của đồng bào dân tộc; giải quyết tốt khâu phân
phối lưu thông, xây dựng kết cấu hạ tầng, ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ
thuật, xây dựng nông thôn mới. Giải quyết hợp tình hợp lý vấn đề đất đai, tạo
quỹ đất đai để khắc phục tình trạng đồng bào thiếu đất canh tác, phá thế độc
canh cây lúa. Ở nơi còn đất đai thì thực hiện chính sách khuyến khích để giãn
dân, xây dựng vùng kinh tế mới. Có chính sách đầu tư thích đáng cho thuỷ
lợi, giao thông, trước hết ở những vùng có nhiều khó khăn. Cần có chính sách
miễn hoặc giảm thuế, xoá nợ, ưu đãi về giá bán những mặt hàng thiết yếu
như dầu thắp sáng, vải mặc, thuốc chữa bệnh. Về văn hoá, xã hội: Đi đôi với
củng cố và phát triển các ngành học phổ thông, mẫu giáo, bổ túc văn hoá, cần
củng cố và phát triển các loại trường phổ thông dân tộc nội trú, trường thanh
niên dân tộc ở các huyện, tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khơme, Chăm . Mở
trường tạo nguồn đào tạo cán bộ các dân tộc thiểu số, nghiên cứu cấp học
bổng cho những học sinh dân tộc thuộc diện chính sách và học giỏi ở tất cả
các cấp học, ngành học. Có kế hoạch xoá nạn mù chữ và mù chữ trở lại. Có
kế hoạch bảo tồn, khai thác và phát huy vốn văn hoá dân tộc; xây dựng nhà
20
truyền thống và một số trung tâm văn hoá tiêu biểu của đồng bào dân tộc. Đẩy
mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh và xây dựng nếp sống mới, bài trừ mê
tín dị đoan và những phong tục tập quán lạc hậu. Về an ninh chính tr:. Thực
hiện tăng cường giáo dục, nâng cao giác ngộ chính trị cho cán bộ và đồng bào
dân tộc, quán triệt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước, chấp hành luật pháp của Nhà nước, tăng cường đoàn kết dân tộc, hăng
hái góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đi đôi
với việc phổ biến tình hình thời sự trong nước và thế giới, tuyên truyền quyền
lợi và nghĩa vụ công dân, cần tổ chức đấu tranh chống những âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề lịch sử, vấn đề dân tộc và tôn
giáo và những sai sót của cán bộ hòng xuyên tạc, gây chia rẽ, kích động hằn
thù dân tộc, gieo rắc hoang mang trong nhân dân, phá hoại việc thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Sau một thời gian thực hiện,
đời sống của vùng đồng bào dân tộc đã có những nét chuyển biến đáng kể.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc thiểu số của Chính phủ đã đền cập đến quyết định về sự phát
triển kinh tế - xã hội khu vực Tây Nguyên, miền núi phía Bắc và đồng bằng
sông Cửu Long. Đó là quyết định 168/2001/QĐ- TTg ngày 30/10/2001 về
việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001- 2005 và những giải pháp cơ
bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Năm 2002 và 2003, Chính
phủ đã bố trí đầu tư 694 tỷ đồng (năm 2002 bố trí 294 tỷ, năm 2003 bố trí 400
tỷ đồng) để thực hiện chương trình này. Thực hiện quyết định 173/2001/QĐTTg ngày 06/11/2001 về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng Sông Cửu
Long; năm 2002 Chính phủ đã bố trí 2.000 tỷ đồng để thực hiện các nhiệm vụ
của quyết định này. Quyết định 186/2001/QĐ-TTg ngày 07/12/2001 về phát
triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc thời kỳ
2001- 2005; năm 2002 và 2003, Chính phủ đã bố trí vốn đầu tư là 696 tỷ
đồng(năm 2002 bố trí 296 tỷ đồng, năm 2003 bố trí 400 tỷ đồng) để thực hiện
quyết định này. Ngoài ra, Trung ương Đảng và Chính phủ đã ban hành Chính
sách trợ giá, trợ cước theo nghị định số 20/1998/NĐ- CP ngày 31/03/1998
Chính phủ nhằm trợ cước vận chuyển 08 mặt hàng cho miền núi (muối i-ốt,
dầu hoả, giống cây trồng, vật nuôi, thuốc chữa bệnh, lương thực cứu đói, phát
hành sách, phân bón, thuốc trừ sâu), trợ giá một số sản phẩm hàng hoá do
21
nhân dân sản xuất ra nhưng khó tiêu thụ; Chương trình 327 phủ xanh đất
trống đồi trọc với các nội dung về trồng rừng, bảo vệ rừng, định canh định cư,
xây dựng kinh tế trên đất trống đồi trọc; Dự án trồng 5 triệu ha rừng (19982005), tiếp theo chương trình 327 được thực hiện theo quyết định
661/1998/QĐ- TTg ngày 29/07/1998 nhằm đẩy mạnh phát triển trồng rừng,
phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, hướng tới đóng cửa rừng tự nhiên; Dự án ổn
định dân cư, phát triển kinh tế - xã hội vùng lòng hồ Sông Đà theo quyết định
số 747/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ tiến hành các hoạt động trồng
rừng, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, chuyển dời dân, mua sắm lưới đánh
bắt cá, xây dựng trường học, trạm y tế, đường ô- tô liên thôn, xã, nước sinh
hoạt, điện lưới v.v… nhằm ổn định dân cư và phát triển kinh tế - xã hội vùng
chuyển dân.
Trên lĩnh vực giáo dục- đào tạo, công tác thực hiện chính sách ưu tiên
trong tuyển sinh, trợ cấp học bổng đối với học sinh người dân tộc thiểu số vào
học các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề được
Đảng và Chính phủ chú trọng. Với chính sách cử tuyển đã Nhà nước đã đào
tạo được hàng ngàn học sinh các dân tộc có trình độ đại học, bố trí công tác ở
nhiều cơ quan Trung ương và địa phương. Nhà nước có chính sách miễn học
phí, cho mượn sách giáo khoa, cấp không vở viết, giấy viết cho con em đồng
bào dân tộc thiểu số và con em đồng bào Kinh lên lập nghiệp tại miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới mà đời sống còn nhiều khó khăn cũng như
có chế độ phụ cấp cho giáo viên vùng dân tộc và miền núi. Tuy nhiên, quá
trình thực hiện chính sách giáo dục và tình hình giáo dục vùng dân tộc thiểu
số cũng còn những bất cập và hạn chế nhất định trong việc tạo nguồn đào tạo,
chất lượng giáo dục và chống mù chữ còn thấp, cơ sở vật chất và đoàn kết cho
giáo dục nhiều vùng còn khó khăn, chính sách cử tuyển và sử dụng cán bộ sau
đào tạo còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện và khắc phục trong thời gian tới.
Trên lĩnh vực y tế, Chính phủ thực hiện đầu tư vào các chương trình cụ
thể: Đối với Chương trình Dân số kế hoạch hoá gia đình nhà nước đã đầu tư
kinh phí cho xây dựng trạm y tế, bệnh viện, giáo dục truyền thông, từ năm
1992 đến năm 2000, vốn đầu tư cho chương trình này là 2.977 tỷ đồng, việc
giáo dục truyền thông về dân số kế hoạch hoá gia đình được tiến hành mạnh
22
mẽ và được một số địa phương lồng ghép vào các chương trình khác nhằm
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho đồng bào các dân tộc.
2.2.2. Những vấn đề bức thiết đặt ra đối với việc thực hiện chính sách
dân tộc.
• Đội ngũ cán bộ dân tộc chủ chốt cấp cơ sở còn thiếu và yếu, đặc biệt
là vùng có nhiều dân tộc thiểu số.
Với ý nghĩa ấy, cán bộ dân tộc là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với
đồng bào các dân tộc. Vì vậy trong hệ thống chính trị cơ sở, cán bộ giữ một
vai trò to lớn, là lực lượng nòng cốt của chính quyền cơ sở, là hạt nhân đoàn
kết, giáo dục, tổ chức nhân dân cơ sở thực hiện chủ trương, đường lối. chính
sách của Đảng và Nhà nước. Từ thực tiễn hoạt động phong phú ở cơ sở, nhân
dân cùng cán bộ cơ sở đã sáng tạo nhiều kinh nghiệm hay, nhiều mô hình tốt,
từ đó giúp cấp trên khái quát lên chủ trương, chính sách phù hợp với đòi hỏi
khách quan của chính sách trong công cuộc đổi mới nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam.
Tuy vậy thực trạng đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc vẫn còn nhiều
bất cập mà cho đến nay vẫn là những hạn chế lớn đối với việc thực hiện chính
sách dân tộc. Khách quan mà nói, những hạn chế, tồn tại về kinh tế, văn hóa,
sáchội, ở vùng dân tộc hiện nay có một phần do một số vấn đề đặt ra trong
các chính sách dân tộc chưa tương xứng với vị trí chiến lược của vùng dân
tộc.Một số chiến lược sau một thời gian triển khai thực hiện đã bộc lộ những
bất cập không còn phù hợp với thực tế cuộc sống. Nhưng vấn đề chủ yếu là
việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc không đến nơi đến chốn, kém hiệu
quả. Quy trình triển khai thực hiện chính sách bao gồm:
Chuẩn bị nguồn lực để tổ chức thực hiện chính sách: cơ sở vật chất,
nhân lực, tài chính, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và thực thi chính
sách.
• Trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số còn thấp. Trong
những năm gần đây, các vùng dân tộc thiểu số nước ta đã có những bước
phát triển mới trên nhiều lĩnh vực, nhưng xét về cơ bản vùng dân tộc nước ta
vẫn là khu vực chậm phát triển so với các vùng và khu vực khác trong cả
nước. có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó nguyên nhân cơ bản là trình độ
dân trí của đồng bào dân tộc còn thấp nên hạn chế trong việc nhận thức đường
23
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Những hạn chế
về trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc biểu hiện: thứ nhất trình độ học
vấn thấp, tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ trong đồng bào các dân tộc chiếm tỷ lệ
khá lớn, con em người dân tộc được đi học lên cao là rất hạn chế, mặc dù Nhà
nước có chính sách cử tuyển đối với con em vùng đồng bào nhưng do trình độ
không đáp ứng được nên tỷ lệ người tốt nghiệp trình độ đại học, cao đẳng và
trên đại học là rất thấp; thứ hai, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp của đồng
bào dân tộc còn rất hạn chế, khả năng ứng dụng và vận dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất thấp, cho nên không đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn vùng dân tộc; thứ ba, những hiểu biết về
chính trị, pháp luật của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa còn rất hạn chế, điều đó gây cản trở cho việc đấu tranh và tiến tới xoá
bỏ các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút, tảo hôn, mê tín dị đoan, xử lý vi
phạm các quy định của pháp luật. Đây là những vấn đề nóng bỏng ở nhiều
tỉnh miền núi hiện nay.
• Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết các
dân tộc. Các dân tộc thiểu số Việt Nam chủ yếu cư trú ở địa bàn miền núi,
đây là nơi có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, môi
trường sinh thái. Song bên cạnh đó, khu vực miền núi là địa bàn phức tạp về
dân tộc và tôn giáo. Hơn nữa, đồng bào các dân tộc thiểu số lại hạn chế về
trình độ học vấn, trình độ nhận thức, sự hiểu biết mọi mặt đời sống xã hội,
nhất là về âm mưu “diễn biến hoà bình”.Có thể nói ở khu vực miền núi có đủ
cả 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, cư trú xen kẽ, trong đó các dân tộc thiểu
số lại sống ở những địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Hệ thống
giao thông đi lại khó khăn, phương thức canh tác lạc hậu nên đời sống bấp
bênh, đói nghèo kéo dài, tạo nên sự chênh lệch lớn so với trình độ phát triển
của dân tộc Kinh. Về vấn đề tín ngưỡng tôn giáo, hầu hết các dân tộc đều có
tín ngưỡng thờ cúng đa thần. Họ cho rằng vạn vật hữu linh, tin vào các loại
thần linh, ma quỷ. Đây chính là chỗ dựa tinh thần của họ khi phải đối mặt với
các thế lực tự nhiên, xã hội và có tác dụng liên kết cộng đồng gắn bó cá nhân
với gia đình, dòng họ. Nhưng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, các
tín ngưỡng truyền thống ấy bắt đầu bộc lộ những hạn chế như tốn kém, lãng
phí tiền của, công sức, thời gian. Vì vậy đây là mảnh đất thuận lợi cho tôn
24
giáo mới xâm nhập, điều này tạo nên những mâu thuẫn giữa tín ngưỡng
truyền thống với tôn giáo du nhập. Không những thế, các thế lực thù địch
luôn lợi dụng nhu cầu muốn có một tôn giáo mới của đồng bào các dân tộc,
để truyền đạo trái phép với mục đích sử dụng tôn giáo như một thứ công cụ,
phương tiện để thực hiện các chiêu bài “tự trị”, “độc lập” cho các vùng dân
tộc, thực chất là chia cắt các vùng này ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Dưới tác
động của âm mưu “diễn biến hoà bình” một bộ phận đồng bào các dân tộc
thiểu số đã bị lôi kéo vào những âm mưu mang màu sắc chính trị của chúng.
Tình hình xảy ra ở Tây Nguyên trong những tháng đầu năm 2001 là rất
nghiêm trọng, mang tính chất bạo loạn chính trị, bằng lực lượng quần chúng
có sự kích động, chỉ đạo của các thế lực từ bên ngoài, đòi dựng lên đạo Tin
lành Đề ga và thành lập nhà nước Đề ga. Ở Tây Bắc có mưu đồ dựng lên đạo
Vàng Chứ để thành lập cái gọi là Vương quốc Hmông với những người dân
tộc Hmông. Còn ở Tây Nam Bộ có mưu đồ dựng lên cái gọi là Nhà nước
Khơme Campuchia, Krôm với luận điệu vu khống trắng trợn là Việt Nam đàn
áp hệ phái Phật giáo Nam tông Khơme Nam Bộ. Các hành động lợi dụng vấn
đề dân tộc, vấn đề đã gây những thiệt hại nhất định về tài sản của Nhà nước,
tính mạng của cán bộ, nhân dân, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, đến công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân các dân
tộc. Vì vậy đấu tranh chống âm mưu “diến biến hoà bình” bảo vệ vững chắc
an ninh trật tự vùng dân tộc, đặc biệt là vùng miền núi vừa là mục tiêu, vừa là
nhiệm vụ có tầm chiến lược.
25