Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

MON CHINH SACH CONG 9 9 2012 GIẢI PHÁP THỰC HIỆN tốt CHÍNH SÁCH GIÁO dục và đào tạo ở nước TA TRONG điều KIỆN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.01 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH SÁCH CÔNG
Tên đề tài:
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

1


MỞ ĐẦU
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước,
xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định:
"Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
cho phát triển".
Những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta phát triển
cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu ngành nghề, góp phần đáp ứng nhu
cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ
thống trường học, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường ở các cấp học
đều tăng. Cơ sở vật chất trường, lớp, trang thiết bị dạy học được tăng
cường. Chất lượng giáo dục có chuyển biến tích cực, tỷ lệ học sinh khá,
giỏi, học sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng ngày càng cao. Cơ bản hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở;
thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Công tác xã hội
hoá giáo dục được quan tâm chỉ đạo thực hiện....
Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém. Giáo
dục toàn diện đạt kết quả chưa cao; giáo dục ở miền núi còn nhiều bất
cập; tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan chậm được khắc phục.
Chương trình đào tạo vẫn nặng lý thuyết, ít có sáng tạo các môn học
mới. Có một bộ phận học sinh, sinh viên lười học, suy thoái về đạo đức,


lối sống. Chưa thực hiện được thật tốt công bằng xã hội trong giáo dục
và đào tạo. Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng, đồng thời còn yếu về
chất lượng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của giáo dục và đào tạo bị xuống
cấp và thiếu thốn nghiêm trọng....
Với những vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài “Giải pháp thực hiện
tốt chính sách giáo dục và đào tạo ở nước ta trong điều kiện hiện nay"
để nghiên cứu, làm đề tài tiểu luận môn học: Chính sách công, nhằm
nghiên cứu hệ thống giáo dục và đào tạo, thành tựu, những hạn chế,
thách thức trong thời kỳ mới đối với giáo dục, đào tạo Việt Nam, trên cơ
sở đó đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách
giáo dục và đào tạo ở nước ta trong điều kiện hiện nay.


Chương 1
Một số vấn đề có liên quan đến
chính sách công, chính sách giáo dục và đào tạo
1.1 . Sơ lược về lịch sử ra đời, phát triển của chính sách công
Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử cho thấy chính sách
được ra đời cùng với sự ra đời của nền dân chủ Hi Lạp, từ thế kỷ thứ I
(TCN). Những vấn đề chính sách mới được tập trung nghiên cứu từ giữa
thế kỷ 19 khi mà các nhà khoa học chính trị chuyển sang nghiên cứu
những hành vi, những chuẩn mực của Chính phủ để thỏa mãn các nhu
cầu của đời sống nhân dân.
Đặc biệt, sau các cuộc chiến tranh giành giật thuộc địa đầu thế
kỷ 20, các giá trị về công bằng về bình đẳng cũng được nhìn nhận lại,
tổ chức bộ máy nhà nước và thể chế cũng được thay đổi. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa Xô viết Liên Bang Nga ra đời, vì vậy khoa học chính
sách đã phát triển mạnh hơn, các nhà khoa học đã tập trung nghiên
cứu nhằm tìm ra những chính sách để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội trong thời kỳ mới.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, chính phủ các nước tư bản đã

dùng những chính sách kinh tế can thiệp vào hoạt động của thị trường
nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo ý muốn của nhà nước, chống
lại sự đổ vỡ của nền kinh tế tự do.
Chẳng hạn, nhà kinh tế học người Anh J.M Keynes đã khẳng định:
Nhà nước cần dùng chính sách trợ cấp tài chính và tín dụng để khuyến
khích khu vực kinh tế tư nhân đầu tư vào nền kinh tế, qua đó tăng nguồn
tài chính bổ sung cho ngân sách.
Hoặc "Nhà nước cần có chính sách để khuyến khích sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng nhằm tạo lập sự cân đối giữa cung và cầu".


Sau này Paul (nhà kinh tế học người Mỹ) đã đề ra lý thuyết "Hai
bàn tay". Trong đó nhấn mạnh về sự kết hợp giữa nhà nước và thị trường
bằng một số chính sách để phát triển kinh tế - xã hội.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường đã phát triển
mạnh cả bề rộng lẫn bề sâu, nên nhà nước tư bản đã có nhiều chính sách
để tác động tới các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Các nhà kinh
doanh đều cho rằng chính sách tác động rất lớn tới hoạt động sản xuất
kinh doanh. Các tập đoàn kin tế của các nước tư bản luôn quan tâm tới
vấn đề chính sách trong nước và ngoài nước để tìm kiếm lợi nhuận.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa vấn đề chính sách cũng đã được
đặc biệt chú trọng, để củng cố liên minh công nông: Lênin đã nói: "Giai
cấp vô sản phải biết hướng chính sách của mình để phục hồi những lực
lượng sản xuất của nền kinh tế nông dân".
Sau Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 thành công, Lênin luôn
luôn nhấn mạnh tới các chính sách kinh tế, đã ban hành nhiều chính
sách kinh tế mới. Sau này, Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô
viết đã tiếp tục ban hành các chính sách để huy động các nguồn nhân
lực, vật lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đề cao vấn đề chính

sách. Cụm từ chính sách được đề cập nhiều lần trong Hiến pháp 46, 59, 80
và 92. Chẳng hạn Hiến pháp 1980 ghi "Mục đích chính sách kinh tế của
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thỏa mãn ngày càng tốt
hơn nhu cầu vật chất và văn hóa của toàn thể nhân dân (Điều 15).
Chính sách được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm
2001: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật,
kế hoạch, chính sách...". "Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là
làm cho dân giàu nước mạnh" (Điều 16). Hoặc "Nhà nước thực hiện
chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc" (Điều 5 Hiến
pháp 1992). "Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng
bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu


số". "Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và
người tiêu dùng" (Điều 28). Hoặc "Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình hữu nghị mở rộng hợp tác
quốc tế.
Như vậy, chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được
Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Song hiện nay đang tồn tại cụm từ "chính sách của Đảng và Nhà nước".
Thực tế, ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch
ra các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - đó chính là
những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành các chính sách công. Các chính
sách công là do Nhà nước ban hành. Các chính sách này là sự cụ thể hóa
đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng (do vậy, việc
đề cập tới chính sách công ở đây được hiểu là các chính sách công do Nhà
nước ban hành). Chính sách công ở Việt Nam thường được thể chế hóa
thành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thi
hành, song nó bao gồm những phương án hành động không mang tính bắt
buộc, mà có tính định hướng, kích thích phát triển.

Trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua, Nhà nước Việt Nam có nhiều
chính sách, như: Chính sách đối với người có công với cách mạng; chính
sách dân số kế hoạch hóa gia đình; chính sách đồng bào dân tộc; chính
sách miễn giảm thuế nông nghiệp cho nông dân; chính sách giáo dục và
đào tạo….
1.2. Khái niệm và đặc điểm chính sách công, chính sách giáo
dục và đào tạo
Hiện nay, còn có một số quan niệm khác nhau về chính sách. Theo
Paul một nhà kinh tế học người Mỹ "Chính sách là sự thỏa hiệp của
Chính phủ đối với nền kinh tế ngay cả khi không ban hành chính sách".
Còn James cho rằng: "Chính sách là những hành động nên hay không
nên mà Nhà nước lựa chọn".


Chính sách gồm nhiều chủ thể ban hành, như chính sách của Nhà
nước, chính sách của các tổ chức xã hội, chính sách của tổ chức kinh tế,
chúng ta chỉ nghiên cứu các chính sách do Nhà nước ban hành (gọi là
chính sách công). Vậy chính sách công là gì?
Để quản lý nhà nước, quản lý xã hội và thực hiện các mục tiêu về
chính trị xã hội mà Nhà nước đã định ra. Ngoài việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật. Thì Nhà nước còn phải ban hành một số văn
bản khác, để tác động vào các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, hoặc
từng nhóm người cụ thể, hoặc từng cộng đồng người riêng rẽ hoặc các tổ
chức pháp nhân khác nhau để định hướng các quyền và nghĩa vụ cũng
như cách ứng xử của các chủ thể này. Các chủ thể bị tác động có thể trên
phạm vi toàn quốc, hoặc trên một vùng hoặc từng lĩnh vực khác nhau.
Các văn bản này: định hướng trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn
cách ứng xử của Nhà nước trong mối quan hệ với các đối tượng tác
động; quy định các quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong mối
quan hệ với đối tượng thụ hưởng chính sách; thể hiện ý chí của Nhà

nước, là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu mà Nhà nước đã định ra. Các văn bản nói trên
được gọi là chính sách công.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm chính sách công như
sau: Chính sách công là định hướng hành động được nhà nước lựa
chọn phù hợp với đường lối chính trị để giải quyết một (hoặc một số)
vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội trong một thời kỳ nhất định.
Vì thế, chính sách công có các đặc điểm:
- Chính sách phải thể hiện bằng các văn bản. Các văn bản do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành (đại diện cho Nhà nước).
Trong các văn bản có những quy định mang tính định hướng cho hoạt
động của các cơ quan nhà nước và các đối tượng tác động.
- Chính sách công thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, ý chí của
Nhà nước.


- Chính sách công chủ yếu mang lại lợi ích về vật chất, về tinh
thần cho đối tượng thụ hưởng.
- Chính sách công có mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
y tế giáo dục và giữ vững ổn định xã hội.
- Chính sách công có thể có tính vĩ mô, có thể có tính vi mô.
- Chính sách công được bảo đảm thực hiện bằng giáo dục thuyết
phục, động viên khuyến khích.
Từ sự phân tích khái niệm và đặc điểm chính sách công trên có thể
rút ra khái niệm chính sách giáo dục và đào tạo như sau: Chính sách
giáo dục và đào tạo là những văn bản do Nhà nước ban hành trong
đó quy định các nhiệm vụ, quyền hạn, cách ứng xử của Nhà nước đối
với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đồng thời quy định các quyền, nghĩa
vụ cũng như cách ứng xử của các đối tượng tác động, các lợi ích mà
họ được thụ hưởng và được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp giáo

dục, thuyết phục, động viên, khuyến khích với mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh, chính trị, xã hội.


Chương 2
Thực trạng thực hiện chính sách
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay
2.1. Hệ thống giáo dục và đào tạo ở Việt Nam
Khi đánh giá về nền giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Ngân
hàng thế giới (WB) đã nhận xét: “Việt Nam có một thành tích đầy ấn
tượng về giáo dục, ngay cả khi so sánh với nhiều nền kinh tế khác có mức
thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, khi cộng đồng quốc tế đang từ giữa thế kỷ
XX và bước vào thiên niên kỷ mới... đang đặt ra những thách thức mới rất
quan trọng đối với hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam”.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Việt Nam đã không ngừng
phát triển nền giáo dục của mình. Ngay cả trong hoàn cảnh chiến tranh
đứng trước những khó khăn rất lớn Việt Nam vẫn chăm lo cho giáo dục
đào tạo. Điển hình là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời
kỳ Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước: “... dù khó
khăn đến mấy, thầy và trò vẫn phải dạy tốt học tốt” .
Hiện nay, hệ thống giáo dục và đào tạo ở Việt Nam kể từ lớp l
lên đến đại học là một hệ thống 5 - 4 - 3 - 4 gồm các cấp và các loại
hình sau đây:
- Giáo dục mầm non: Nhà trẻ: không bắt buộc, tối thiểu là 03 tháng
tuổi, thời gian tối đa là 03 năm. Mẫu giáo: không bắt buộc, tối thiểu từ 03
tuổi; thời gian tối đa là 03 năm.
- Giáo dục phổ thông: Tiểu học bắt buộc, tuổi vào học chính thức
là 06, thời gian là 05 năm. Tiếp đến là trung học cơ sở 04 năm, phổ
thông trung học 03 năm.
- Giáo dục đào tạo dạy nghề và chuyên nghiệp: Đào tạo nghề 0,5

đến 02 năm; trung học nghề 03 đến 04 năm hoặc trung học chuyên
nghiệp 2,5 đến 04 năm.


- Giáo dục bậc ba hoặc đại học: Cao đẳng 03 năm; đại học 04 đến
06 năm, tiếp theo là sau đại học.
Hệ thống giáo dục và đào tạo này về cơ bản có thể đáp ứng được
nhu cầu học tập của nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hệ thống đó cần tiếp tục tự
hoàn thiện hơn. Có nhiều vấn đề đang đặt ra cho hệ thống giáo dục và
đào tạo Việt Nam trong thời gian đến như:
- Chất lượng giáo dục đào tạo.
- Giáo dục đào tạo gắn bó với nhu cầu về nguồn nhân lực của thị
trường lao động.
- Cải cách giáo dục ở bậc tiểu học.
- Phân luồng học sinh sang đào tạo nghề, đối với phổ thông cơ sở
và trung học phổ thông (sau khi học xong năm cuối ở mỗi cấp học).
- Mạng lưới các trường cao đẳng, đại học.
- Đầu tư vào giáo dục và đào tạo.
- Tài chính, chi tiêu của giáo dục và đào tạo.
- Hiệu quả của giáo dục và đào tạo.
- Đội ngũ giáo viên của hệ thống giáo dục và đào tạo.
- Cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo.
- Giáo dục và đào tạo ở miền núi....
2.2. Một số thành tựu về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam
Luật Giáo dục được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ tư từ ngày
25/10 đến ngày 02/12/1998 thông qua, Chủ tịch nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký lệnh công bố ngày 11/12/1998 là bộ



luật có nội dung rất tiến bộ, đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động dạy và
học của các cấp học, nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ giáo dục
đào tạo ở nước ta trong thời kỳ mới. Các chính sách về giáo dục đào
tạo phải dựa và bộ luật này.
Quy định cơ cấu khung của hệ thống giáo dục: bậc học, thời
gian đào tạo, tuổi chuẩn vào lớp đầu từng cấp học điều kiện học lực,
văn bằng tốt nghiệp....
Quy định mạng lưới các trường, danh mục các ngành nghề đào tạo,
mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo.
Ban hành các quy chế tuyển sinh, quản lý học sinh, sinh viên,
nghiên cứu sinh.
Ban hành tiêu chuẩn và phong các chức danh, học vị, học hàm cho
các thày giáo, cô giáo; đồng thời quy định tiền lương và các loại phụ cấp
cho giáo dục, đào tạo.
Xây dựng và ban hành các định mức về thống thiết bị và cơ sở vật
chất của các trường.
Xét duyệt và cho phép in, phát hành sách giáo khoa và các ấn
phẩm giáo dục đào tạo.
Với những chính sách hợp lý của Nhà nước, đã tác động tích cực
đến nay quy mô của giáo dục và đào tạo Việt Nam. Hàng năm, số người
đi học các cấp học từ mẫu giáo đến cao đẳng, đại học và sau đại học ở
các loại hình đào tạo (chính quy, tại chức) tới hơn 20 triệu. Lượng học
sinh, sinh viên mỗi năm đều tăng từ 1,8 triệu đến 02 triệu người. So sánh
năm học 1996 - 1997 với năm học 2012 - 2013 đã tăng gần 05 triệu em,
trong đó trung học cơ sở tăng gần 02 lần; trung học phổ thông tăng hơn
02 lần; cao đẳng, đại học tăng 3,5 lần.
Việt Nam có một mạng lưới giáo dục phát triển rộng khắp toàn
quốc từ thành thị đến nông thôn, miền núi, hải đảo. Điều đó đã tạo cơ



hội cho con em các gia đình ở khắp các miền được đến trường (đặc biệt
là ở cấp tiểu học) và do đó tạo ra sự công bằng được hưởng thụ, được
tiếp cận với giáo dục.
Có sự thống nhất trong cả nước về chương trình và nội dung giảng
dạy, về sách giáo khoa, về thế giới của từng cấp học. Đặc biệt là việc
dùng tiếng Việt và chữ quốc ngữ trong giảng dạy, học tập, kể cả viết
luận án thạc sĩ và tiến sĩ khoa học.
Các hình thức tổ chức trong giáo dục và đào tạo cũng ngày càng đa
dạng và mở rộng hơn (trường công lập, trường bán công, trường tư thục,
trường dân lập).
Các hình thức giáo dục và đào tạo cũng như vậy, gồm có nhiều
loại: chính quy, tại chức, giáo dục thường xuyên, giáo dục từ xa với sự
hợp tác đắc lực của các phương tiện truyền thông: phát thanh và vô
tuyến truyền hình; các lớp học buổi tối theo yêu cầu của người học
(ngoại ngữ, tin học, kế toán, quản trị doanh nghiệp...).
Có một đội ngũ đông đảo giáo viên, giảng viên, giáo sư và
cán bộ quản lý ở các cấp học rất tận tuỵ, hy sinh vì tương lai của
thế hệ trẻ. Họ đã khắc phục khó khăn, chịu đựng một cuộc sống
còn thiếu thốn, do đó, họ đã là động lực chủ yếu cho sự phát triển
của giáo dục đào tạo. Nhà nước và nhân dân luôn luôn đánh giá cao
sự đóng góp của họ. Sự tăng tưởng của kinh tế và những tiến bộ xã
hội mà Việt Nam đạt được trong hơn 25 năm đổi mới có phần đóng
góp to lớn của những cán bộ quản lý, nhà khoa hoch, nhà giáo, viên
chức... hoạt động trong ngành giáo dục đào tạo.
3. Một số hạn chế và thách thức trong thời kỳ mới đối với giáo
dục và đào tạo


Đứng trước nhu cầu của thời kỳ mới về nguồn nhân lực có chất
lượng cao, giáo dục và đào tạo đang phải vượt qua những thách thức,

khắc phục những yếu kém:
So với sự đòi hỏi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giáo dục
đào tạo còn nhiều bất cập trên các mặt quy mô, cơ cấu chất lượng,
hiệu quả....
Chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp về kiến thức,
kỹ năng, phương pháp tư duy khoa học. Chẳng hạn, về hiệu quả cần tính
đến ảnh hưởng của lưu ban và bỏ học. Theo điều tra, ở Việt Nam, bình
quân đối với một học sinh:
- Tốt nghiệp tiểu học cần 6,8 năm (cho 05 năm).
- Tốt nghiệp trung học cơ sở cần 5,l năm (cho 04 năm).
- Tốt nghiệp trung học phổ thông cần 3,5 năm (cho 03 năm).
Những năm thêm ra là không có hiệu quả vì đã làm tăng chi phí
giáo dục đào tạo.
Ngoài ra, còn nói đến hiệu quả ngoài của giáo dục và đào tạo thông
qua mối liên hệ giữa giáo dục đào tạo và khả năng tăng thu nhập khi có
việc làm; đặc biệt là giữa giáo dục đào tạo với nhu cầu về nhân lực của
thị trường lao động (số lượng, cơ sở trình độ chuyên môn). Giữa đào tạo
và sử dụng (gia nhập thị trường lao động) còn có khoảng cách; nhất là
khi so sánh với trình độ quốc tế, với yêu cầu của hội nhập vào buôn bán,
cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Những năm gần đây, xuất hiện hiện tượng thiếu kỷ cương trong
hoạt động giáo dục đào tạo đã và đang sẽ còn phải khắc phục (dạy thêm
học thêm tràn lan gây nên lo lắng cho các gia đình có con em đi học; thu
nhiều khoản vượt quá quy định và chi tiêu không công khai minh bạch ở
một số cơ sở giáo dục đào tạo).


Có một bộ phận học sinh, sinh viên lười học, suy thoái về đạo đức,
lối sống. Bộ phận này thường sống thiếu nghị lực, thiếu ý chí và hoài
bão. Tệ nạn xã hội cũng đã thâm nhập vào trường học (nghiện hút, tham

gia đua xe máy trái phép, cá biệt có học sinh, sinh viên phạm vào tội
hình sự...).
Chưa thực hiện được thật tốt công bằng xã hội trong giáo dục và
đào tạo (giữa người giàu và người nghèo, giữa nông thôn, miền núi và
thành phố).
Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng (khoảng 10.000 người năm
học 2011 - 2012), đồng thời còn yếu về chất lượng (còn một số chưa đạt
chuẩn quốc gia). Mặt khác, nghề dạy học chưa phải là nghề có sức hấp
dẫn, xét theo mức thu nhập trong xã hội.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của giáo dục và đào tạo bị xuống cấp và
thiếu thốn nghiêm trọng. Còn nhiều trường làm bằng tranh, tre, nứa lá;
nhiều phòng học còn phải dùng học 02 ca, thậm chí 03 ca; đồ dùng dạy
học thiếu, phòng thí nghiệm, thư viện, xưởng trường, trang thiết bị, tư
liệu thiếu và lạc hậu....
Giáo dục và đào tạo của Việt Nam một mặt cần phải vượt qua
những bất cập ở trên, đồng thời nếu muốn không rơi vào tụt hậu so với
các nước trong khu vực, cần phải nghiên cứu chọn lọc, nắm bắt đầy đủ
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ mới để đào tạo các
thế hệ thanh, thiếu niên của mình.
Như vậy, rõ ràng Việt Nam đã gặt hái được những thành quả tốt
đẹp trong giáo dục và đào tạo nhưng bước vào những thập niên đầu của
thế kỷ XXI, nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam còn phải vượt qua
nhiều thách thức mới, rất quan trọng.


Chương 3
Một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện có
hiệu quả chính sách giáo dục và đào tạo trong điều kiện hiện nay
3.1. Một số nhiệm vụ chủ yếu
3.1.1. Chăm lo cho giáo dục đào tạo là chăm lo cho con người và

cho xã hội phát triển
Sự nghiệp giáo dục đào tạo có trọng trách đào tạo con người, đào
tạo thế hệ thanh thiếu niên với những yêu cầu về phẩm chất như sau:
- Gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Có đạo đức trong sáng.
- Có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc.
- Có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam.
- Có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân.
- Làm chủ tri thức khoa học, công nghệ hiện đại.
- Có tư duy sáng tạo.
- Có kỹ năng thực hành giỏi.
- Có tác phong công nghiệp.
- Có tính tổ chức, kỷ luật.
- Có sức khoẻ.


Thực ra, con người Việt Nam trải qua lịch sử lâu dài xây dựng, giữ
gìn đất nước đã có nhiều phẩm chất rất quý như: cần cù lao động, ý thức
cộng đồng cao, đoàn kết, ý chí kiên cường chống xâm lăng, sống lạc
quan chan hoà với mọi người, thích nghi cao và nhanh với hoàn cảnh,
điều kiện mới (đặc biệt là vượt qua những khó khăn và thách thức),
thông minh và ham học hỏi, yêu quý độc lập tự do... tuy nhiên, xã hội
loài người đang bước vào một thiên niên kỷ mới, trong đó trí tuệ của loài
người đã đạt đến những phát minh to lớn, vĩ đại. Cuộc cách mạng về
khoa học, công nghệ mới diễn ra trên nhiều lĩnh vực, đòi hỏi con người
Việt Nam phải có những tiến bộ vượt bậc, bắt kịp trình độ văn minh,
trình độ khoa học, công nghệ thế giới để xây dựng đất nước mình. Vì

thế, giáo dục đào tạo có ý nghĩa rất quan trọng đối với đào tạo và phát
triển con người.
3.1.2. Nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo cần phải giữ
vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa, có nghĩa là:
- Phát huy ảnh hưởng tích cực của một nền giáo dục và đào tạo tiến
bộ, công bằng cho mọi người trong xã hội.
- Hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường
tác động vào giáo dục đào tạo.
- Chống lại khuynh hướng “thương mại hoá” giáo dục đào tạo, làm
ảnh hưởng tới chức năng xã hội, chức năng giáo dục nhân cách, đạo đức
con người.
Trên thực tế còn có nhiều vấn đề cần giải quyết. Ví dụ: gần đây có
nơi đã bị ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, coi giáo dục
đào tạo cũng có thể áp dụng cơ chế “bán mua” thuần tuý tiền bạc giống
như hàng hoá ngoài thị trường, làm cho dư luận xã hội băn khoăn lo lắng.
3.1.3. Xác định giáo dục và đào tạo thuộc về quốc sách hàng đầu
của Nhà nước
Đó là nguồn lực chủ yếu để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội.
Thiếu nguồn nhân lực do giáo dục đào tạo cung cấp thì không có quốc
gia nào có thể tiến triển được.


Tuy Việt Nam còn là một nước nghèo nhưng vẫn coi đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển.
Nhà nước cố gắng thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với
giáo dục đào tạo, làm giảm nhẹ những khó khăn và tạo thiêm điều kiện
cho giáo dục đào tạo.
Nhà nước quan tâm đến những giải pháp mạnh để phát triển giáo
dục đào tạo.
3.1.4. Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà

nước và của toàn dân
Quan điểm này được hiểu theo một số nội dung như:
- Tạo điều kiện để mọi người đi học, học thường xuyên và học
suốt đời.
- Mọi người, mọi cấp, mọi tổ chức, các gia đình đều có trách nhiệm
tích cực góp phần phát triển giáo dục đào tạo (đóng góp trí tuệ, công
sức, vật lực, tài lực cho giáo dục đào tạo).
- Kết hợp giữa giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục
xã hội, tạo thành một môi trường giáo dục lành mạnh, có hiệu quả.
3.1.5. Phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, tiến bộ của khoa học, công nghệ và củng cố quốc
phòng, an ninh
Sự gắn bó của giáo dục đào tạo với nhu cầu về nguồn nhân lực
của kinh tế - xã hội và khoa học, công nghệ là tất yếu. Nếu không
như vậy sẽ gây nên lãng phí tiền của và thời gian. Sự gắn bó đó còn
được xem xét kỹ trên các mặt: quy mô, cơ sở, chất lượng và hiệu
quả của giáo dục, đào tạo.
Giáo dục đào tạo phải gắn với thực tế của đất nước, làm cho học
sinh, sinh viên không những am hiểu tình hình, đặc điểm, điều kiện của


đất nước mà còn có năng lực giải quyết được những vấn đề của đất nước
mình (bao gồm cả quốc phòng, an ninh).
3.1.6. Thực hiện sự công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo
Đảng và Nhà nước kêu gọi mọi người làm cho dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng, văn minh. Trong đó có sự công bằng xã hội về
giáo dục, cần phải đạt được là:
Tạo điều kiện để ai cũng được học, không vì nghèo, vì điều kiện
khó khăn mà bị thất học, bị mù chữ.
- Hiện nay còn một bộ phận dân cư nghèo, Nhà nước và cộng đồng

cần giúp đỡ bằng các biện pháp khác nhau để người nghèo tiếp cận được
với giáo dục đào tạo. Đồng thời vẫn bảo đảm cho những người học giỏi
phát triển tài năng.
- Hiện nay, trên thực tế người nghèo, người ở miền núi, ở nông
thôn xa đang có nhiều khó khăn hơn về kinh tế so với người giàu; cự ly
để tiếp cận với các cơ sở giáo dục đào tạo lại xa... nên việc thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo còn là vấn đề phải tiếp tục phấn
đấu. Hơn nữa, giữa công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo với hiệu quả
không phải lúc nào cũng đi đôi với nhau. Tập trung đầu tư cho hiệu quả
giáo dục đào tạo đạt được mức cao, nhiều khi đòi hỏi chú trọng đến học
sinh, sinh viên học giỏi, có triển vọng trở thành nhân tài của đất nước có
khi lại mâu thuẫn với đầu tư để phát triển giáo dục, đào tạo rộng khắp,
đồng đều cho mọi vùng, mọi đối tượng có điều kiện được học tập. Mâu
thuẫn này đòi hỏi phải tìm được cách giải quyết thích hợp.
3.1.7. Giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công lập song
song với đa dạng hoá các loại hình giáo dục và đào tạo
Để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng, nếu chỉ riêng các
trường công lập thôi thì không đủ mà cần mở rộng các loại hình trường
khác. Tuy nhiên, các trường công lập đã được xây dựng từ lâu, có đội
ngũ giáo viên, có cơ sở vật chất để bảo đảm chất lượng, hoàn toàn có thể


giữ vai trò nòng cốt. Hiện nay, bên cạnh các trường công lập đã có các
loại trường tư thục, bán công, dân lập. Ở đó các loại chương trình, nội
dung giảng dạy, sách giáo khoa... đều theo quy định thống nhất của Nhà
nước. Bên cạnh đó, còn cần mở rộng một cách vững chắc các loại hình
đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa.
3.2. Giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách
giáo dục và đào tạo trong điều kiện hiện nay
3.2.1. Tập trung thực hiện giáo dục toàn diện (đức, trí, thể, mỹ) ở

tất cả các bậc học
- Về giáo dục phổ thông: Cần tạo điều kiện cho từng cá nhân phát
triển tối đa tiềm năng của mình, phải thỏa mãn nhu cầu cơ bản về học
tập của mỗi người. Thực hiện cơ bản xóa mù chữ và phổ cập tiểu học.
Trong hệ thống trường phổ thông cần gắn học văn hoá với học nghề.
Việc giảng dạy theo hướng tinh gọn, hiện đại, tránh sự quá tải; đồng
thời nâng cạo kỹ năng thực hành, thực hiện từng bước phân luồng học
sinh một cách hợp lý sau các cấp học. Phấn đấu phổ cập trung học cơ
sở vào năm 2020.
- Về giáo dục đại học và sau đại học: Cần nhanh chóng đổi mới
dạy và học để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Muốn vậy,
phải tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các trường, đồng thời
có chính sách tiền lương thoả đáng đối với các giáo sư và giảng
viên. Trong đào tạo, cần dành ưu tiên cho một số ngành mũi nhọn:
điện, điện tử, công nghệ sinh học, dầu khí, các công nghệ mới. Đồng
thời cần đào tạo một đội ngũ các nhà quản lý kinh doanh giỏi. Phấn
đấu để sớm có một số cơ sở đại học, trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế.
- Về dạy nghề: Dạy nghề có vị trí quan trọng trong phát triển
nguồn nhân lực. Vì thế phải mở rộng quy mô dạy nghề, đồng thời đáp
ứng nhu cầu thay đổi nghề để thích ứng với công nghệ mới và nhu cầu
của thị trường lao động. Khâu đào tạo nghề cho thanh niên đang là một


đòi hỏi rất cấp bách. Vì thế, cần phát triển nhiều hình thức dạy nghề,
đồng thời hình thành một mạng lưới dạy nghề rộng khắp.
- Về giáo dục miền núi: Miền núi có những đặc điểm về địa lý,
kinh tế - xã hội khác với đồng bằng và đô thị, vì vậy cần phải có chính
sách đặc biệt để giáo dục đào tạo miền núi phát triển nhanh chóng và
vững chắc, trong đó có việc đào tạo đủ giáo viên nhất là giáo viên dân

tộc ít người. Nhà nước chủ trương xây dựng trường nội trú cho các
huyện vùng cao, trợ cấp cho học sinh miền núi sách giáo khoa và đồ
dùng học tập.
3.2.2. Xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện tốt chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 và những năm tiếp theo
Nội dung chiến lược phát triển giáo dục đào tạo cần tập trung vào
những vấn đề trọng tâm:
- Hiện trạng giáo dục đào tạo nước ta.
- Bối cảnh phát triển giáo dục đào tạo trong tầm nhìn đến năm
2020 và những năm tiếp theo.
- Mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2020.
- Các giải pháp chiến lược.
- Các chương trình hành động.
Chiến lược giáo dục đào tạo phải được coi là một bộ phận hữu
cơ của chiến lược phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội nói chung của
đất nước.
3.2.3. Hoạch định và tổ chức thực hiện tốt các chương trình, kế
hoạch, dự án phát triển giáo dục và đào tạo
Để thực hiện có hiệu quả các phương hướng, chủ trương lớn của
Nhà nước, cần phải có các chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể, quan
tâm đến: Chương trình cải cách giáo dục; Chương trình xoá nạn mù chữ;
Chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở; Chương trình giáo dục
miền núi; Kế hoạch sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học....


Triển khai thực hiện tốt các dự án phát triển giáo dục đào tạo. Các
dự án phát triển giáo dục đào tạo đòi hỏi phải dự báo tình hình phát triển
của dân số và số người đến tuổi đi học ở từng cấp học, từng thời kỳ đối
với từng địa phương. Dự báo xu hướng phát triển về kinh tế trong thời
kỳ tới. Dự báo nhu cầu về nhân lực cho phát triển kinh tế (số lượng, cơ

cấu, trình độ chuyên môn cho từng ngành, từng lĩnh vực).
Khi lập dự án cụ thể cho từng cấp học cần tính toán: Số lượng học
sinh mới tăng thêm cần phải đáp ứng nhu cầu học tập; số phòng học cần
xây dựng (cho từng năm học); số giáo viên cần tăng thêm (cho từng năm
học); tiền lương cần trả cho số giáo viên mới tăng thêm (từng năm học);
kinh phí xây dựng cho mỗi phòng học (kể cả trang bị bàn ghế và đồ
dùng dạy học) và sau đó cho tổng số phòng học.
3.2.4. Tập trung đầu tư cho giáo dục và đào tạo, sử dụng có hiệu
quả nguồn nhân lực
Muốn phát triển giáo dục đào tạo cần nhiều yếu tố; trong đó có vốn
đầu tư. Ngân sách quốc gia là nguồn cung cấp tài chính lớn nhất cho
giáo dục đào tạo. Tuy nhiên, do kinh tế còn nghèo nên tỷ lệ chi cho giáo
dục đào tạo trong tổng chi ngân sách quốc gia còn mới ở mức từ 10%
đến 12% hàng năm. Số chi này đến 80% lại dùng để trả lương giáo viên.
Đó là điều hạn chế về vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo. Cần tìm cách
tăng tỷ lệ chi cho giáo dục đào tạo trong chi ngân sách lên 15% - 20%
trong những năm tới, nhằm tạo thêm điều kiện cho giáo dục đào tạo phát
triển. Đồng thời, Nhà nước chủ trương huy động thêm các nguồn khác:
trong dân, viện trợ quốc tế, vay vốn nước ngoài để phát triển giáo dục
đào tạo. Trước đây còn huy động thêm nguồn nhân lực ngoài ngân sách
Nguồn nhân lực hoạt động trong ngành giáo dục đào tạo là nguồn
lực yêu cầu có chất lượng cao và có ý nghĩa quyết định đối với đầu ra
của giáo dục đào tạo. Thời gian đào tạo, bồi dưỡng lại lâu và công phu.
Hiện nay, ở Việt Nam, giáo viên tiểu học và trung học cơ sở phải tốt
nghiệp cao đẳng sư phạm, giáo viên trung học phổ thông phải tốt nghiệp
đại học. Tuy nhiên, ở các cấp trên vẫn có từ 10 - 20% giáo viên chưa đủ
trình độ này. Ở đại học số người có học vị thạc sĩ, tiến sĩ và có học hàm


phó giáo sư, giáo sư cũng đang còn thấp. Vấn đề đặt ra là phải chuẩn hoá

và bồi dưỡng thường xuyên giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đào
tạo. Muốn làm được việc này đòi hỏi phải xây dựng, nâng cao chất
lượng các trường cao đẳng, đại học sư phạm.
3.2.5. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước; thực hiện tốt
công tác kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với giáo dục và đào tạo
Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo,
bao gồm từ Bộ Giáo dục và Đào tạo đến các cơ quan quản lý giáo dục
đào tạo ở địa phương (thành phố, tỉnh, huyện). Đồng thời, tiến hành
phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương. Đổi mới cơ chế quản
lý nhằm hoàn thiện hơn nữa, sao cho quản lý nhà nước đối với giáo dục
đào tạo ngày càng đạt chất lượng và hiệu quả hơn.
Thực hiện tốt công tác: Thanh tra giáo dục; kiểm tra, kiểm soát
việc thực hiện kỷ cương, luật pháp trong giáo dục đào tạo; ngăn ngừa
các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật về giáo dục đào tạo đồng thời
bảo vệ lợi ích của người đi học và của cơ sở giáo dục đào tạo.
2.2.6. Đổi mới kinh tế - xã hội, tạo môi trường thuận lợi để thực
hiện đổi mới giáo dục và đào tạo
Nguyên nhân sâu xa nhất hạn chế chất lượng giáo dục và đoà tạo
của nước ta là nền kinh tế và thị trường lao động chưa tạo được sức hấp
dẫn và áp lực buộc giáo dục phải thay đổi. Một nền kinh tế dựa trên lắp
ráp, gia công, khai khoáng, nông nghiệp cổ truyền cùng dịch vụ nhà
hàng, khách sạn, mua bán đất đai thì chưa cần thiết các cử nhân và kỹ sư
xuất sắc. Bên cạnh đó, nền kinh tế, nhất là khu vực kinh tế nhà nước,
chưa vận hành theo đúng quy luật kinh tế thị trường, từ đó đẻ ra một thị
trường lao động không công bằng và một nền giáo dục ứng thí, đi học
chỉ cốt lấy bằng nhằm đáp ứng “tiêu chuẩn cán bộ'', chứ không cần thực
học. Cho nên, muốn cải thiện chất lượng giáo dục thì Nhà nước phải có
chính sách đẩy mạnh cải cách kinh tế và đổi mới chính sách tuyển dụng,
sử dụng cán bộ; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng
nếp sống văn hoá lành mạnh, nhân ái, tạo môi trường xã hội tích cực để

hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp cho tuổi trẻ học đường.


KẾT LUẬN
"Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là
đầu tư cho phát triển". Vì vậy, Nhà nước phải có chính sách đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là
khâu then chốt.
Phải tập trung nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, coi trọng
giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả
năng lập nghiệp cho học sinh, sinh viên. Đổi mới cơ chế tài chính giáo
dục. Thực hiện kiểm định giáo dục ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi
trường giáo dục, đào tạo lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà
trường và xã hội.
Sớm hoàn thiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và
dạy nghề trên cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao
chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với nâng cao
trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư xây
dựng một số trường, khoa, chuyên ngành đào tạo chất lượng cao.
Xác định nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học phù hợp
ở tất cả các cấp, bậc học. Quan tâm đầu tư phát triển nhanh và nâng cao
chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và chính sách xã hội
trong giáo dục.
Giải pháp thực hiện đổi mới một lĩnh vực rộng lớn như giáo dục,
đoà tạo không phải dễ dàng, nhưng đó là công việc nhất thiết phải làm
để thực hiện ước nguyện đưa dân tộc ta ''bước tới đài vinh quang, sánh

vai cùng các cường quốc năm châu'' như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt
Nam mới./.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
4. Luật Giáo dục được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ tư từ ngày
25/10 đến ngày 02/12/1998 thông qua, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã ký lệnh công bố ngày 11/12/1998.
5. Học viện Hành chính Quốc gia: Quản lý Nhà nước đối với
ngành, lĩnh vực. Nxb Giáo dục, 2005.
6. Học viện Hành chính: Giáo trình hoạch định và phân tích chính
sách công. Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2008.
7. Đavít Âuxbót và Tét gheblơ: Đổi mới hoạt động của chính phủ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
8. TS. Thang Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu
Huyền: Hệ thống công vụ và xu thế cải cách của một số nước trên thế
giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
9. TS. Trương Thị Hồng Hà (GVC. Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh): Giáo án Chính sách công, Hà Nội, 2012.
10. Nguồn từ các Website có liên quan:
- Đảng Cộng sản Việt Nam: />- Tạp chí Cộng sản: />- Giáo dục Việt Nam: />


MỤC LỤC
Chương 3.......................................................................................................14
Một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện có.................14
hiệu quả chính sách giáo dục và đào tạo trong điều kiện hiện nay...14
3.1. Một số nhiệm vụ chủ yếu....................................................................14
3.1.1. Chăm lo cho giáo dục đào tạo là chăm lo cho con người và cho
xã hội phát triển...........................................................................................14
3.2. Giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách giáo
dục và đào tạo trong điều kiện hiện nay.................................................18
3.2.1. Tập trung thực hiện giáo dục toàn diện (đức, trí, thể, mỹ) ở tất
cả các bậc học ..............................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................23



×