Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH ở VIỆT NAM tieu luan tuyen truyen van dong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.34 KB, 16 trang )

VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM: NHỮNG VƯỚNG
MẮC VÀ GIẢI PHÁP THÁO GỠ.
Trong hơn hai mươi năm của quá trình đổi mới, hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật (gọi chung là văn bản chính sách) của Việt Nam đã có
những tiến bộ đáng kể. Song, cũng khơng thể phủ nhận được rằng, các văn
bản chính sách của nước ta còn khá nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được những
yêu cầu ngày càng cao hơn, nghiêm khắc hơn của sự phát triển nền kinh tế
quốc dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu hơn, toàn
diện hơn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là :Cơng tác
vận động chính sách chưa được quan tâm đúng mức và do đó, nó chưa đạt
hiệu quả cao.Vậy, thế nào là vận động chính sách ? Vận động chính sách ở
Việt Nam đang gặp những vướng mắc gì ? Cần có những giải pháp cấp bách
gì để tháo gỡ những vướng mắc hiện nay ? Với những suy nghĩ bước đầu,
tham luận này xin trình bày một số ý kiến về những vấn đề nêu trên.
I- THẾ NÀO LÀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH ?
Từ trước đến nay ở nước ta, khái niệm vận động chính sách là rất xa lạ,
thậm chí là khó chấp nhận. Vì vậy, trước khi bàn sâu hơn vào vấn đề cần trao
đổi, thiết nghĩ, cũng cần làm rõ thế nào là vận động chính sách ở nước ta
trong điều kiện hiện nay ?
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, vận động là việc tuyên truyền, giải
thích, động viên làm cho người khác tự nguyện làm một việc gì đó, thơng
thường là theo một phong trào. Chẳng hạn, vận động toàn dân tham gia thực
hiện quy ước văn minh trong tang, lễ, cưới hỏi ; vận động thanh niên tham gia
phong trào thanh niên tình nguyện ; vận động tồn dân thực hiện sinh đẻ có kế
hoạch, v.v…Như vậy, khi nói đến vận động, thông thường, chủ thể của việc
vận động là Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội…Còn đối
tượng của việc vận động là các tầng lớp nhân dân.
Từ khái niệm về vận động nêu trên, có thể nêu, vận động chính sách là
việc tun truyền, giải thích, động viên những người nghiên cứu, soạn thảo và
1



ban hành các chính sách tự nguyện xây dựng các chính sách theo nguyện
vọng chính đáng của người vận động. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay,
khái niệm nêu trên bao hàm trong nó một quy trình ngược. Bởi lẽ, xây dựng,
ban hành các chính sách là quyền của cơ quan Nhà nước các cấp, thể hiện ý
chí của người quản lý đối với người bị quản lý. Vì vậy, sẽ khó có thể xẩy ra
việc người bị quản lý lại tuyên truyền, giải thích, động viên những người có
chức năng, quyền hạn trong quản lý làm theo nguyện vọng của mình mặc dù
đó là những nguyện vọng chính đáng, hợp pháp.
Kết quả những cuộc hội thảo trước đây trong khuôn khổ vấn đề được
đặt ra hôm nay, đã kết luận rằng, vận động chính sách (VĐCS) được hiểu là
q trình tác động vào những nhà hoạch định chính sách, những người ra
quyết định để tạo ra một chính sách phù hợp hơn, minh bạch và hiệu quả hơn.
Kết quả nghiên cứu cũng cho rằng, khái niệm vận động chính sách xuất phát
từ thuật ngữ vận động hành lang, có xuất xứ từ nước Anh. Theo nghĩa đó, vận
động chính sách ở Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau :
a) Đó chính là việc đưa ra những ý kiến đề xuất, góp ý, phản biện cho
các chính sách kinh tế và xã hội để những nhà hoạch định chính sách, những
người ra quyết định đưa ra những chính sách phù hợp hơn, minh bạch hơn và
hiệu quả hơn ;
b) Chủ thể của việc vận động phải là những nhà hoạch định chính sách
theo một quy trình nhất định ;
c) Đối tượng của việc vận động là các tầng lớp nhân dân, cộng đồng
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp đại diện cho công đồng doanh
nghiệp. Việc đưa ra những ý kiến đề xuất, góp ý, phản biện của đối tượng
được vận động cũng phải theo những quy định, quy trình nhất định.
Với ý nghĩa nêu trên, vận động chính sách đã và đang trở thành nhu cầu
cấp bách ở nước ta vì những lý do sau :
a) Việc hoạch định và ban hành những chính sách kinh tế, xã hội ở
nước ta trong hơn hai mươi năm đổi mới vừa qua, tuy đã có những tiến bộ

nhất định, nhưng vẫn còn những hạn chế lớn như : khơng ít chính sách khơng
2


phù hợp ngay từ khi ban hành cho nên phải sửa đổi, bổ sung khá nhanh và
nhiều lần tạo ra một hệ thống chắp vá, thiếu đồng bộ ; một số chính sách
thiếu khách quan, minh bạch, điển hình là các văn bản về chính sách quản
lý đất đai ; quản lý đầu tư xây dưng ; chính sách về thuế, phí…. Một số
chính sách cịn xơ, cứng, mang dấu ấn khá nặng nề của tư duy kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi so với u cầu của cuộc
sống, điển hình là chính sách về quản lý lao động, tiền lương, tiền công,
bảo hiểm xã hội…đối với các doanh nghiệp. Những hạn chế nêu trên tất
yếu làm cho các chính sách đã ban hành kém hiệu quả. Các chính sách kinh
tế, xã hội được ban hành thuộc phạm trù “thượng tầng kiến trúc”. Do đó,
một chính sách sai lầm có thể gây hậu quả lớn có thể so sánh với hậu quả
của một cuộc khủng hoảng nền kinh tế quốc dân.
b) Một trong những cam kết về bảo đảm yêu cầu minh bạch hóa của
nước ta khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là : “Ngay từ khi
gia nhập, Việt Nam phải công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến
nhân dân; thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi là 60 ngày; các văn bản
nêu trên phải được đăng công khai”. Với cam kết này, tình trạng “mẹ hát, con
khen hay” trong việc hoạch định các chính sách, ban hành các văn bản về
chính sách kinh tế, xã hội phải chấm dứt. Các chính sách khi được ban hành
phải đáp ứng được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống.
Từ những luận cứ trên, cũng cần khẳng định rằng, vận động chính sách
– vấn đề chúng ta đang bàn ở đây hôm nay – không đồng nghĩa với với việc
“chạy cơ chế” đã từng xẩy ra ở nước ta trong những năm vừa qua.
II- VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM – NHỮNG VƯỚNG
MẮC TRONG THỰC TIỄN

Với cách hiểu về vận động chính sách như đã trình bày ở phần trên,
ngay từ năm 2001, với Chỉ thị 16 CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, việc vận
động chính sách ở nước ta đã được thực hiện. Đó là việc tham vấn ý kiến của
các doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp và các
3


tầng lớp nhân dân về các văn bản Luật, pháp lệnh, các Nghị định của Chính
phủ, Thơng tư hướng dẫn của các Bộ, ngành trước khi ban hành. Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – đại diện của cộng đồng doanh
nghiệp – được giao thực hiện nhiệm vụ này. Có thể nói, với vai trị là cầu nối
giữa cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan quan quản lý Nhà nước trong
việc ban hành các văn bản về chính sách kinh tế, xã hội, với rất nhiều khó
khăn về cơ chế, tài chính, Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam đã
thực hiện rất tốt nhiệm vụ quan trọng này. Rất nhiều hội nghị, hội thảo với sự
tham gia của đông đảo đại diện các doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp,
hiệp hội nghề nghiệp…đã được tổ chức. Hàng nghìn ý kiến đề xuất, góp ý,
phản biện cho dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật đã được đưa ra.
Trong vài năm gần đây, các cơ quan Bộ, ngành được giao chủ trì
soạn thảo các dự thảo Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư cũng đã chủ
động tổ chức các hội nghị, hội thảo tham vấn như nêu trên. Đồng thời, với
sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thơng tin, thơng qua Website của
Chính phủ, các Bộ, ngành cũng thông báo và nhận được nhiều ý kiến đóng
góp của nhân dân thơng qua kênh thơng tin này. Một lực lượng hùng hậu
các báo và tạp chí cũng góp phần tích cực trong việc vận động chính sách.
Đó là những việc đã làm được và khơng ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên,
nghiên cứu, phân tích việc vận động chính sách ở nước ta trong thời gian
qua, có thế thấy, còn những vướng mắc lớn sau đây cần được nhanh chóng
tháo gỡ :
Một là, cơ sở pháp lý của việc vận động chính sách ở nước ta chưa

đủ mạnh.
Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khơng có quy định bắt
buộc phải tham vấn ý kiến của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp khi ban
hành các văn bản về chính sách kinh tế, xã hội. Việc tham vấn các ý kiến của
nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trước khi ban hành các văn bản về chính

4


sách kinh tế, xã hội được thực hiện theo một Chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ. Đó là văn bản truyền đạt ý kiến của người đứng đầu Chính phủ nhưng
vẫn không thể coi là quy định của pháp luật. Vì vậy, việc tham vấn ý kiến vẫn
là việc cần làm, nên làm nhưng chưa là việc phải làm trong một quy trình bắt
buộc. Từ đó, các cơ quan soạn thảo văn bản có thể làm và cũng có thể không
làm với những lý do khách quan đầy sức thuyết phục.
Hai là, việc tham vấn ý kiến của nhân dân và cộng đồng doanh
nghiệp đối với các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta chưa triệt để.
Theo Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay ở nước
ta, Luật, Pháp lệnh do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành là
Luật khung. Sau Luật là các Nghị định của Chính phủ. Nghị định lại quy định
những nguyên tắc chung, những vấn đề cụ thể hơn lại do các Bộ, ngành hoặc
liên ngành hướng dẫn bằng các Thông tư. Song, việc tham vấn ý kiến của
nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp chủ yếu lại thực hiện đối với dự thảo
Luật, Pháp lệnh và Nghị định. Trong khi đó, cuộc sống lại cần những quy
định chi tiết, cụ thể. Những vấn đề chi tiết, cụ thể như vậy lại khơng được
tham vấn. Do đó, khá nhiều trường hợp, những góp ý rất hợp lý, hợp lệ với
đầy đủ bằng chứng khoa học, khách quan được nêu ra khi góp ý các Luật,
Pháp lệnh, Nghị định đã bị vơ hiệu hóa trong các Thơng tư hướng dẫn. Tình
trạng chậm ban hành các Thơng tư hướng dẫn hoặc đưa thêm những nội dung
thiếu minh bạch, thiếu khách quan vào các Thông tư hướng dẫn đã gây hậu

quả lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Ví dụ, Luật Kinh
doanh bất động sản có hiệu lực thi hành từ 1/1/2007. Song, hơn 10 tháng sau,
ngày 15/10/2007, Nghị định số 153/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản mới được ban hành. Trong suốt
thời gian đó, hầu như không một doanh nghiệp nào được đăng ký kinh doanh
ngành nghề kinh doanh bất động sản. Cho đến nay, việc đăng ký kinh doanh
bất động sản vẫn chưa được thực hiện vì…chưa có Thơng tư hướng dẫn !.
Thật kỳ lạ khi việc kinh doanh bất động sản trên thị trường ngầm đã và đang
5


cực kỳ sơi động thì việc cho phép doanh nghiệp kinh doanh bất động sản một
cách đàng hoàng, theo đúng quy định của pháp luật lại…vẫn đang trong quá
trình nghiên cứu.
Việc các Thông tư hướng dẫn cứ vô tư ra đời khơng hoặc rất ít Thơng
tư được tham vấn ý kiến của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp là một
trong những nguyên nhân làm cho các Giấy phép con vẫn liên tục “tái xuất
giang hồ” gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Cam kết về minh bạch hóa của nước ta khi gia nhập WTO cũng chỉ đề
cập đến các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội và Chính phủ ban hành. Do đó, các Thơng tư hướng dẫn lại là “cửa”
để “lách luật” rất hữu hiệu khi cần thiết.
Ba là, các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản về chính sách kinh tế,
xã hội chưa thật khách quan khi dự thảo văn bản và tiếp thu các ý kiến
trong quá trình tham vấn.
Hiện nay, trong quy trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật ở
nước ta, vấn đề cần điều chỉnh thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngành nào
thì Bộ, ngành đó được giao chủ trì soạn dự thảo và tiếp thu ý kiến tham vấn.
Chẳng hạn, vấn đề thuộc về đất đai và bảo vệ mơi trường thì cơ quan chủ trì

là Bộ Tài nguyên- Môi trường ; tương tư như vậy, vấn đề về lao động – tiền
lương – tiền công thì thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ; vấn đề về
thuế và kế toán, kiểm toán thì thuộc Bộ Tài chính, v.v… Mặc dù, về hình
thức, chúng ta có một Ban dự thảo với đầy đủ thành phần của các cơ quan
quản lý nhà nước có liên quan nhưng quyết định cuối cùng khi trình Chính
phủ vẫn thuộc về đơn vị chủ trì. Chuyển từ “Nhà nước cai trị” với chức năng
chủ yếu là quản lý thành “Nhà nước dịch vụ” với mhiệm vụ chủ yếu là phục
vụ nhân dân là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhưng đến nay vấn
đang là mục tiêu trong tương lai. Vì vậy, thơng qua văn bản quy phạm pháp
luật, nâng cao hơn nữa quyền lực của Bộ, ngành mình, đẩy các khó khăn cho
6


nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, vẫn là hiện tượng xẩy ra một cách phổ
biến hiện nay. Đó là sản phẩm tất yếu khách quan của một cơ chế. Quy luật
khách quan của cuộc sống là “ăn quả táo ắt phải rào cây táo”. Vì vậy, chúng ta
khơng trách gì những người chủ trì soạn dự thảo các văn bản và có nhiệm vụ
tiếp thu những ý kiến tham vấn về hiện tượng này. Hậu quả của tình trạng nêu
trên là, nhiệt tình của nhân dân, các doanh nhân và các nhà nghiên cứu trong
việc nghiên cứu, góp ý, phản biện cho các văn bản chính sách đã và đang bị
triệt tiêu. Bởi vì, họ cho rằng, những góp ý đầy tâm huyết cũng chẳng có tác
dụng gì!
Bốn là, quy định pháp lý nào đối với tiếp thu các ý kiến tham vấn
và xử lý những vấn đề có ý kiến khác nhau chưa đầy đủ, rõ ràng.
Như đã phân tích, việc tham vấn ý kiến của nhân dân và cộng đồng
doanh nghiệp đối với các văn bản chính sách kinh tế, xã hội ở nước ta vẫn là
việc cần làm và nên làm. Do đó, cũng khơng có một văn bản nào quy định về
việc tiếp thu những ý kiến tham vấn tại các hội nghị, hội thảo và trên báo, chí.
Thơng thường, chỉ những ý kiến nào có lợi cho mục tiêu đã được xác định
của cơ quan chủ trì mới được tiếp thu. Hơn thế, đã xuất hiện hiện tượng, cơ

quan chủ trì soạn dự thảo chủ động tổ chức những hội nghị, hội thảo lấy ý
kiến góp ý nhưng những người tham gia, những ý kiến góp ý đã được dàn
xếp, bố trí trước nhằm tạo căn cứ để bảo vệ ý định chủ quan đã “cài” vào
văn bản dự thảo.
Nghiêm trọng hơn là việc xử lý những ý kiến khác nhau, thậm chí là
trái chiều nhau khi tham vấn, góp ý cho các văn bản về chính sách. Sự khác
nhau, thậm chí là trái chiều nhau về một vấn đề nào đó là hiện tượng bình
thường. Khi xẩy ra hiện tượng này, người dự thảo ra sức bảo vệ cho ý kiến
của mình, người phản biện cũng đưa ra những ý kiến rất thuyết phục. Điểm
yếu nhất ở nước ta hiện nay là không có được “trọng tài” trong những
trường hợp này. Chúng ta có thể thấy tình trạng này trong những cuộc tranh
luận vơ cùng sơi động, đầy bổ ích và lý thú khi soạn thảo Luật Đầu tư ;
7


những ý kiến tranh cãi rất quyết liệt và thẳng thắn khi tham gia vào dự thảo
Luật Quản lý thuế và hàng triệu ý kiến góp ý cho dự thảo Luật Thuế thu
nhập cá nhân vừa qua…
Câu hỏi được đặt ra là : khi có những ý kiến khác nhau, thậm chí là trái
chiều nhau, cơ quan nào là trọng tài ?
Câu hỏi nêu trên tuởng chừng là thừa, vì theo quy định, những vấn đề
nào thuộc quyền của Quốc hội thì đưa ra Quốc hội xin ý kiến, vấn đề thuộc
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thuộc Chính phủ thì những cơ quan này quyết
định. Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật về chính sách kinh tế, xã hội
thường liên quan đến những vấn đề khoa học, thậm chí là khoa học chuyên
ngành khá sâu. Cho nên, ý kiến trọng tài là tỷ lệ phiếu tán thành không phải là
hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp.
Năm là, vận động chính sách thơng qua tham vấn các ý kiến của
nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp như những năm vừa qua là thiếu
tính khả thi trong những năm tiếp theo.

Có thể khảng định rằng, vận động chính sách thơng qua tham vấn các ý
kiến của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp như những năm vừa qua sẽ khó
có thể tiếp tục và mang lại hiệu quả trong những năm tới vì những lý do sau :
– Để phù hợp hơn nữa với những cam kết của Việt Nam khi gia nhập
WTO, số lượng các văn bản về chính sách kinh tế, xã hội cần ban hành, sửa
đổi, bổ sung ở nước ta sẽ rất nhiều. Do đó, thời gian cho việc góp ý những
văn bản này đối với nhân dân, đặc biệt là các doanh nhân và các nhà nghiên
cứu, cũng sẽ là rất lớn. Trong điều kiện phải dành phần lớn thời gian cho hoạt
động kinh doanh, việc dành một thời gian khá lớn để nghiên cứu, góp ý cho
dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là tham gia khá nhiều cuộc
hội nghị, hội thảo sẽ trở thành bất khả kháng đối với nhiều chủ doanh nghiệp ;
– Những vấn đề được đề cập, điều chỉnh trong các văn bản quy phạm
pháp luật thường là khá phức tạp, liên quan đến nhiều luật khác ở trong nước
và trên thị trường quốc tế. Trong cộng đồng doanh nghiệp, số doanh nhân
8


nghiên cứu, hiểu được và góp ý, phản biện được những vấn đề đó khơng
nhiều. Vì vậy, những người có khả năng đọc, hiểu và nêu được những ý kiến
phản biện lại phải dành một lượng thời gian lớn hơn nhiều lần. Thơng thường,
đó lại là những người giữ vai trò quan trọng, quyết định trong hoạt động của
doanh nghiệp. Khơng ai có thể sẵn sàng để cơng việc kinh doanh bị đình trệ
hoặc suy giảm để tập trung vào việc nghiên cứu, đưa ra những ý kiến phản
biện cho một văn bản Luật, dù đó là văn bản Luật đặc biệt quan trọng đối với
nền kinh tế quốc dân.
III- NHỮNG GIẢI PHÁP CẤP BÁCH
Vận động chính sách là hoạt động có ý nghĩa lớn ở nước ta trong những
năm sắp tới. Làm gì và làm thế nào để tác động vào những nhà hoạch định
chính sách, những người ra quyết định để tạo ra một chính sách phù hợp hơn,
minh bạch và hiệu quả hơn ? Đó là câu hỏi quan trọng nhất cần được nghiên

cứu, giải đáp. Tuy nhiên, giải đáp câu hỏi đó khơng đơn giản. Nó đòi hỏi phải
nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực và với một phạm vi rộng. Tù những luận cứ
đã nêu trong những phần trên của tham luận này, với những suy nghĩ bước
đầu, xin được nêu một số giải pháp cấp bách sau đây :
Thứ nhất, cần có một quy định pháp lý cao hơn về vận động chính
sách.
Quy định pháp lý về vận động chính sách sẽ quy định rõ về nguyên tắc,
nội dung, hình thức của việc vận động chính sách; trách nhiệm của các cơ
quan có liên quan, của các tầng lớp dân cư, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà
nghiên cứu…trong việc thực hiện các nhiệm vụ vận động chính sách. Quy
định này có thể được thực hiện thông qua việc sửa đổi, bổ sung Luật ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật hoặc thông qua một Nghị định của Chính
phủ về vấn đề này ;
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Luật ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật theo hướng bảo đảm sự minh bạch, khách quan hơn cho dự
thảo các văn bản về chính sách;
9


Theo hướng này, xin đề nghị :
a) Không giao cho các Bộ, ngành có liên quan chủ trì soạn dự thảo và
trình dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Thay vào đó, hình thành những
nhóm chun gia gồm các Luật sư, Luật gia, các chuyên viên cao cấp có đủ
trình độ chun mơn trực thuộc Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đảm nhiệm
việc chủ trì dự thảo, kiểm tra, đánh giá các dự thảo và việc tiếp thu các ý kiến
góp ý, phản biện trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt ;
b) Từng bước cải tiến để tiến tới xóa bỏ các Thơng tư hướng dẫn sau
Nghị định của Chính phủ. Nghiêm cấm và xử lý nghiêm minh những trường
hợp sử dụng công văn của ngành, thậm chí là cơng văn nội bộ, để sửa đổi, bổ
sung chính sách đã ban hành.

Thực hiện tốt hai nội dung kiến nghị trên cũng chính là từng bước đảm
bảo sự độc lập cao hơn nữa giữa chức năng lập pháp và chức năng hành pháp
trong nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta. Khi và chỉ khi đạt được điều
đó, Nhà nước XHCN Việt Nam mới thực sự là ‘‘ Nhà nước của dân, do dân và
vì dân’’ như tơn chỉ, mục đích cao cả đã đặt ra của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ ba, thí điểm để tiến tới “xã hội hóa” việc xây dựng các văn bản
về chính sách, kinh tế xã hội.
“Xã hội hóa” việc xây dựng các văn bản về chính sách, kinh tế xã hội là
vấn đề mới, có thể là rất xa lạ đối với tư duy của nhiều người ở nước ta. Nội
dung cơ bản của việc “xã hội hóa” này bao gồm :
– Ủy ban pháp luật của Quốc hội là cơ quan chịu trách nhiệm chính
trong việc xây dựng dự thảo các văn bản về chính sách kinh tế, xã hội dưới
các hình thức Luật, Pháp lệnh ; Ban Xây dựng pháp luật của Chính phủ chịu
trách nhiệm chính trong việc xây dựng dự thảo các văn bản về chính sách
kinh tế, xã hội thuộc thẩm quyền của Chính phủ ;
– Việc xây dựng các dự thảo Luật, Pháp lệnh, Nghị định được hình
thành dưới hình thức Dự án nghiên cứu. Cơ quan chủ trì có trách nhiệm lập

10


Hồ sơ dự án, bao gồm : yêu cầu phải đạt được về nội dung, thời hạn, những
nội dung thuộc chuyên ngành hẹp và kinh phí thực hiện ;
– Các dự án nghiên cứu được thông báo công khai và lựa chọn đơn vị
soạn dự thảo theo phương thức đấu thầu ;
– Đơn vị được chọn để thực hiện dự án có trách nhiệm thực hiện tất cả
các khâu cơng việc để đưa ra một dự thảo có đầy đủ căn cứ khoa học bao gồm
: kinh nghiệm quốc tế về vấn đề có liên quan và những nội dung có thể vận
dụng vào thực tiễn Việt Nam ; kết quả điều tra thực tiễn ; các ý kiến góp ý,
phản biện ; việc xử lý những ý kiến chưa thống nhất hoặc trái chiều nhau ;

trình bày và bảo vệ những vấn đề được nêu trong dự thảo văn bản trước cơ
quan chủ trì và các cơ quan có liên quan,v.v…
– Cơ quan chủ trì thẩm tra, nghiệm thu và trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
Thứ tư, triển khai việc xây dựng kế hoạch.
Căn cư vào chiến lược,, chính sách dân số sức khỏe sinh sản và phát
triển quốc gia, yêu cầu về nội dung truyền thông, nguồn nhân lực và khả năng
vật chất, kỹ thuật, các nhà truyền thơng có thể xây dựng và thực hiện các kế
hoạch truyền thông khác nhau đáp ứng mục tiêu nhất định. Hiệu quả của
truyền thông noi chung, truyền thông dân số/sức khỏe sinh sản và phát triển
nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng kế hoạch, chương trình.
- Xác định mục tiêu truyền thơng.
Có nhiều chương trình kế hoạch truyền thông dân số/sức khỏe sinh sản
và phát triển do các cơ quan thông tin đại chúng thiết kế và thực hiện. việc
xác định mục tiêu của chưng trình, kế hoạch truyền thơng có ý nghĩa quan
trọng, định hướng cho các họt động tiếp theo.
- Lập ma trận đối tượng và các hoạt động truyền thông
Sauk hi phân ticchs tài liệu, người xây dựng kế hoạch truyền thông phải
lập được ma trận về đối tượng truyền thông và ma trận về các bước hoạt động
chủ yếu.
11


Ma trận về đối tượng phản ánh các nhóm đối tượng chủ yếu, nhu cầu
thơng tin của mỗi nhóm, chuyển tải thơng tin qua các hình thức và kênh nào,
cơ quan nò thực hiện và cơ quan nào phối hợp.
Ma trận và hoạt động phản ánh các hoạt động truyền thơng chính nhằm
vào nhóm đối tượng nào, thời gian, cơ quan thực hiện, cơ quan phối hợp.
- Kế hoạch xây dựng và thử nghiệm thông điệp
* Kế hoạch thông điệp

Trong lĩnh vực truyền thông, thông điệp là một phát ngôn hồn chỉnh
dành cho một nhóm đối tượng cụ thể trong một nhóm hồn cảnh nhất định
nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra.
* Yêu cầu thông điệp
Một là, thông điệp phải phù hợp với đối tượng. Do đó khi xây dựng
thông điệp phải nghiên cứu đối tượng, Hiểu rõ đặc điểm, nhu cầu thơng tin và
thói quen sử dụng các kênh truyền thông
Hai là, thông điệp phải gắn với mục tiêu truyền thơng. Mục tiêu truyền
thơng đối với các nhóm đối tượng khác nhau là kông giống nhau
Đối với các nhà hoạch định chính sách, thơng điệp phải tạo được sự
ứng hộ tích cực cho các vấn đề dân số và phát triển, sức khỏe sinh sản, bình
đẳng giới ,... có những cam kết chính trị, lồng phép các vấn đề dân số vào các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội
Đối với công chúng, thông điệp phải hướng tới thy đổi nhận thức, thái
độ, hành vi và duy trì bền vững hành vi đó. Đồng thời phhair tạo được sự tán
thành, hươnggr ứng và tác động tích cực của họ đối với các nhà hoạch định
chính sách trong việc xây dựng và thực hiện chính sách dân số/sức khỏe sinh
sản và phát triển, tạo môi trường xã hội thuận lợi để cung chúng tự giác thực
hiện chính sách dân số/sức khỏe sinh sản và phát triển
Ba là, nội dung và hình thức của thơng điệp phải đảm bảo nguyên tắc:
Thu hút sự chú ý, tác động vào lý trí tình cảm của đối tượng, rõ ranggf
dễ nhớ dễ hiểu.
12


* Quá trình thử nghiệm là quá trình người đưa ra thơng điệp đi tìm câu
trả lời cho các vấn đề sau:
Xác định thơng điệp có rõ ràng đối nhóm cơng chúng khơng? Các
nhóm khác nhau về đặc điểm nhân khẩu học hiểu thơng điệp có khác nhau
khơng?

Cơng chúng có tin vào tgoong điệp khơng? Thơng điệp có đem đến
ccho họ lợi ích khơng?
- Thời gian biểu
Các hoạt động cuarch]ơng trình truyền thơng được thực hiện qua các
giai đoạn, theo một trình thời gian nhất định. Kế hoạch truyền thơng thể hiện
thời gian biểu các hoạt động, cơ quan thực hiện cho mỗi hoạt động, cơ quan
thực hiện, cơ quan phối hợp và người phụ trách.
- Kế hoạch giám sát và đánh giá
Giám sát và đánh giá là một phần của quấ trình truyền thơng, do đó
những hoạt động này phải được xây dựng trong kế hoạch.
Thứ năm, thúc đẩy nhanh hơn nữa việc chuyển từ “Nhà nước quản
lý” sang “Nhà nước dịch vụ”.
Có thể nói, tuy đây là giải pháp cuối cùng được nêu ra và có thể có
nhiều ý kiến cho rằng “biết rồi, khổ lắm…” nhưng lại là giải pháp quan trọng
nhất. Bởi lẽ, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, nền kinh tế
nước ta mới đi những bước đầu tiên trong kinh tế thị trường, cho nên, tư duy
quản lý hay có thể nói là “tư duy cai trị” vẫn cịn rất nặng nề trong hầu hết các
cơ quan thuộc bộ máy công quyền của Nhà nước. Với tư duy “cai trị”, các cơ
quan công quyền tập trung vào việc củng cố quyền lực để “cai trị” tốt nhất.
Ngược lại, với tư duy phục vụ, các cơ quan công quyền phải đặt ra yêu cầu
phù hợp, minh bạch và hiệu quả đối với việc quản lý.
Cho nên, khi chưa chuyển được từ “Nhà nước quản lý” sang “Nhà nước
dịch vụ” thì việc “tác động vào những nhà hoạch định chính sách, những
người ra quyết định để tạo ra một chính sách phù hợp hơn, minh bạch và hiệu
13


quả hơn” sẽ chỉ là “ước mơ xa’’. Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện
những biện pháp quyết liệt trong nhiều lĩnh vực để hình thành một “Nhà nước
dịch vụ”. Hy vọng rằng, trong tương lai không xa, mục tiêu đó sẽ trở thành

hiện thực.
————————————————–

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Truyền thông dân số sức khỏe sinh sản và phát triển, Học viện chính trị quốc
gia hồ chi minh, Phân viện Báo chí và tuyên truyền, dự án

2.
3.

VIE/01/P09UNFPA
/> />
15


MỤC LỤC

16



×