ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------------
NGUYỄN THỊ SONG HÀ
THƢƠNG NGHIỆP TƢ NHÂN
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số:
60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Thị Nhƣ Hà
Hà Nội – 2008
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khởi xướng đã tạo cho kinh tế tư nhân bắt đầu
có điều kiện để phát triển rộng khắp trong cả nước. Cùng với các thành phần kinh
tế khác, kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng sức sản xuất của xã hội, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực để phát triển sản xuất, lưu thông, từng bước ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa, thương nghiệp tư nhân đã được khôi
phục và phát triển nhanh chóng, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển
kinh tế - xã hội; Góp phần khai thác và sử dụng các nguồn lực xã hội, tạo thêm
nhiều việc làm mới, tăng nguồn thu cho ngân sách. Vì vậy, nó có vị trí, vai trò
quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, quá trình phát triển thương nghiệp tư nhân đang gặp nhiều thách
thức và khó khăn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như: Thiếu vốn, công
nghệ và cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu; chất lượng nguồn nhân lực và khả năng
cạnh tranh chưa cao; Trình độ tổ chức kinh doanh chưa phù hợp với xu hướng kinh
doanh hiện đại. Bên cạnh đó, những vướng mắc về cơ chế, chính sách của Nhà
nước cũng làm cho thương nghiệp tư nhân chưa phát huy hết được những tiềm
năng, thế mạnh của mình cũng như chưa đáp ứng được xu hướng phát triển của nền
kinh tế đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, tác giả chọn đề tài:
“Thương nghiệp tư nhân trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kinh tế tư nhân nói chung và thương nghiệp tư nhân nói riêng là một trong
những lĩnh vực phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường hiện nay đang được
nhiều người quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, đã có một số công trình khoa học
nghiên cứu đến các vấn đề này như: Hoàng Đức Thân: Thương mại tư nhân ở Hà
Nội: Thực trạng và giải pháp phát triển, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 3/2003;
Trần ánh Tuyết: Giải pháp khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia phát
triển thương mại, Tạp chí thương mại, số 14/2004; Nguyễn Thị Như Hà: Các
thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại ở nước ta. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội (2004); Nguyễn Văn Tuấn: Chiến lược phát triển thương mại trên địa bàn
Hà Nội đến năm 2010, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2002); Hồ Văn Vĩnh:
Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2003): Trần Ngọc Bùi: Phát triển kinh tế tư nhân
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2002); Lê Trịnh
Minh Châu: Bàn về sự phát triển các trung tâm thương mại ở Việt Nam, Tạp chí
Thương mại, số 3, tr. 3 (2002); Đinh Văn Thành: Thương nghiệp tư nhân - Thực
trạng và giải pháp phát triển, Tạp chí Thương mại, số 10, tr.2 (2002): Nguyễn
Đình Hương, Vũ Đình Bách (đồng chủ biên): Quan hệ thương mại Việt Nam ASEAN và chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội (1999). Ngoài ra còn mốt số bài viết của các tác giả: Phạm Ngọc Kiểm (trường
Đại học Kinh tế quốc dân); Nguyễn Công Nhự; Lê Xuân Bá… cũng đề cập đến
vấn đề này.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học này đã làm rõ được một số
vấn đề lý luận và thực tiễn của kinh tế tư nhân, thương nghiệp tư nhân dưới các
góc độ là một thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực thương mại của nền
kinh tế thị trường, những giải pháp để phát triển thương nghiệp tư nhân trong nền
kinh tế chuyển đổi. Song cho đến nay, chưa có một đề tài nghiên cứu nào trình bày
một cách có hệ thống về thương nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO dưới góc độ của
khoa học kinh tế chính trị.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu:
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thương nghiệp tư
nhân ở nước ta, từ đó đề xuất những giải pháp để phát triển thương nghiệp tư nhân
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thương nghiệp tư nhân trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích thực trạng phát triển thương nghiệp tư nhân nước ta trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng phát triển
thương nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay.
- Luận giải các quan điểm cần quán triệt, đề xuất những giải pháp phát triển
thương nghiệp tư nhân nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thương nghiệp tư nhân Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu sự hình thành, phát triển của thương nghiệp
tư nhân ở Việt Nam từ thời kỳ đổi mới 1986 đến nay. (Chủ yếu ở thị trường bán lẻ
- thị trường trong nước).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Các phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp,
phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn.
Luận văn đã phân tích được thực trạng của thương nghiệp tư nhân ở Việt Nam
bằng tư duy hệ thống, vì vậy những khía cạnh về thương nghiệp tư nhân được xem
xét một cách toàn diện, ở nhiều góc độ. Qua phân tích, luận văn cũng đề xuất một
số quan điểm và giải pháp thiết thực để phát triển thương nghiệp tư nhân nước ta
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên các trường đại học, các công trình nghiên cứu có liên quan đến
vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn.
Bản luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
các phụ lục minh họa phần nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thương nghiệp tư nhân trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng thương nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát triển thương nghiệp tư
nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƢƠNG NGHIỆP
TƢ NHÂN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. 1. Khái niệm và các loại hình thƣơng nghiệp tƣ nhân
1.1.1. Khái niệm thƣơng nghiệp tƣ nhân và sự phát triển thƣơng nghiệp
tƣ nhân ở nƣớc ta.
1.1.1.1. Khái niệm thương nghiệp tư nhân.
Có thể nói, sự hình thành và phát triển các thành phần kinh tế trong lĩnh vực
thương mại do đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế hàng hoá, nhất là kinh tế thị trường giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
Ph.Ăngghen đã khẳng định hai “chức năng” sản xuất và trao đổi là “đường
hoành và đường tung của đường cong kinh tế”. Vì giữa sản xuất và trao đổi
(thương mại) có quan hệ hữu cơ trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sự tác động qua
lại giữa sản xuất và trao đổi không dừng lại ở quy mô, mà còn tác động đến trình
độ phát triển của nhau cả về mặt quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Trong một nền kinh tế, lưu thông (trao đổi) là một yếu tố, một giai đoạn quá
độ của sản xuất; lưu thông chỉ đơn thuần là sự thực hiện sản phẩm đã được sản
xuất ra với tư cách là hàng hóa và sự thay thế các yếu tố sản xuất để tiếp tục sản
xuất với tư cách là hàng hóa. Nhưng trong quá trình đó lưu thông lại trực tiếp làm
xuất hiện một hình thái mới, đó là hoạt động thương nghiệp. Xét bề ngoài tưởng
như lưu thông tách biệt với sản xuất, nhưng thực chất lưu thông nói chung, hoạt
động thương nghiệp nói riêng chỉ là một trong các khâu của quá trình tái sản xuất.
Ở mỗi trình độ khác nhau, hoạt động thương nghiệp trong các nền kinh tế
cũng khác nhau. Khi nền sản xuất ở trình độ thấp, nhỏ lẻ, phân tán thì hoạt động
trao đổi còn hạn chế ở phạm vi hẹp, hoạt động thương nghiệp cũng còn ở tình trạng
manh mún với quy mô nhỏ. Khi trình độ xã hội hóa sản xuất cao thì đòi hỏi thương
nghiệp cũng phải được xã hội hóa với trình độ tương ứng. Sản xuất hàng hóa càng
phát triển cao thì quá trình trao đổi càng mở rộng và ngược lại sự mở rộng và phát
triển quá trình trao đổi sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của sản xuất.
Cũng như các nền kinh tế khác, thời kỳ đầu của nền kinh tế hàng hoá ở nước
ta sản phẩm thặng dư chưa nhiều nên hoạt động thương nghiệp chủ yếu là do tư
nhân thu gom những sản phẩm thừa của những người sản xuất nhỏ như nông dân
và thợ thủ công. Do vậy hiệu quả của hoạt động thương nghiệp còn rất thấp.
Nhưng sự tồn tại của hoạt động thương nghiệp đã làm cho sản xuất tách biệt tương
đối với trao đổi, làm cho sản xuất ngày càng có tính chất trao đổi, nên nó có tác
dụng thúc đẩy quá trình tan rã những quan hệ sản xuất tự cung tự cấp. Khi sản xuất
hàng hoá phát triển thì hình thức thương nghiệp do tư nhân thực hiện vẫn còn tồn
tại nhưng nó khác về cơ cấu, quy mô, mô hình tổ chức và phương thức kinh
doanh… và cũng có sự khác nhau giữa các nền kinh tế. Tuy nhiên vẫn có đặc điểm
chung về thương nghiệp tư nhân đó là loại hình kinh doanh trong lĩnh vực lưu
thông, dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về vốn và các điều kiện kinh doanh. Điều
kiện tồn tại của thương nghiệp tư nhân, theo Mác, là sự tồn tại của lưu thông hàng
hoá và lưu thông tiền tệ.
Theo sự phát triển kinh tế, kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông ngày càng trở
nên khó khăn, phức tạp dưới các tác động của thị trường và yêu cầu không ngừng
mở rộng thị trường. Vì vậy, hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp không chỉ đơn
thuần bao gồm các hoạt động mua và bán thuần tuý mà còn được mở rộng thêm
với các công đoạn có liên quan đến quá trình thúc đẩy nhanh việc mua bán hàng
hóa. Đến nay, để thực hiện quá trình lưu thông thuận lợi, các chủ thể kinh doanh
thương nghiệp buộc phải thực hiện nhiều hoạt động trước và sau hoạt động mua,
bán như: xúc tiến thương mại (quảng cáo, đại diện thương mại, môi giới thương
mại, uỷ thác mua bán hàng hóa…), gia công, chế biến, đóng gói hàng hóa, dịch vụ
sau bán hàng (bảo hành, bảo dưỡng…). Vì vậy, đã xuất hiện thuật ngữ mới thay
thế cho thuật ngữ thương nghiệp đó là thương mại.
Thương mại ngày nay được hiểu là ngành kinh tế có chức năng tổ chức quá
trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ; thực hiện chức năng tiếp tục sản xuất trong khâu
lưu thông, gắn sản xuất với thị trường. Hiện nay, tư nhân đầu tư vào nhiều lĩnh vực
của khu vực kinh tế trong đó có thương mại. Hoạt động của kinh tế tư nhân trong
lĩnh vực thương mại được thực hiện dưới hình thức thương mại tư nhân, cho nên
có thể hiểu thương nghiệp tư nhân là hình thức vận động của nền kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương nghiệp dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về vốn và các điều
kiện kinh doanh.
1.1.1.2. Sự phát triển của thương nghiệp tư nhân ở nước ta.
Trước đây, hoạt động thương nghiệp ở nước ta chủ yếu do thương nghiệp
quốc doanh và hợp tác xã mua bán nắm giữ tỷ trọng lớn trên thị trường. Bộ phận
thương nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động ở thị trường “ngầm”.
Thời kỳ trước đổi mới (1986), ở nước ta có gần 5000 doanh nghiệp thương
nghiệp quốc doanh, được phân bố khắp các địa bàn và kinh doanh mọi ngành hàng;
lực lượng lao động rất lớn, khoảng 442,2 nghìn người. Cơ sở vật chất kỹ thuật
cũng như vốn của những doanh nghiệp này hoàn toàn được Nhà nước bao cấp. Tuy
nhiên, cơ chế tập trung bao cấp đó đã làm cho các doanh nghiệp thương nghiệp
quốc doanh rơi vào tình trạng ỉ lại, làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Để sắp xếp và đổi
mới lại hoạt động của doanh nghiệp thương nghiệp quốc doanh, ngày 7/3/1994 Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định 90/TTg, sau đó đến tháng 5/1995 cả nước chỉ còn
1351 doanh nghiệp thương nghiệp quốc doanh. Số này so với 4700 doanh nghiệp
năm 1991 đã giảm trên 3000 doanh nghiệp.
Trước thời kỳ đổi mới doanh nghiệp thương nghiệp quốc doanh chiếm ưu thế
và giữ vai trò chi phối (nắm trọn bán buôn, chi phối 80% tổng mức bán lẻ xã hội),
nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại các hình thức thương nghiệp tư nhân, chỉ có điều
khi đó thương nghiệp tư nhân là đối tượng cần “cải tạo” hoặc bị phủ nhận. Vai trò
của thương nghiệp tư nhân chỉ được nhìn nhận đúng khi Đảng ta có chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó khuyến khích kinh tế tư
nhân phát triển.
Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
nói chung và thương nghiệp tư nhân nói riêng như sau:
Sau khi nước nhà giành được độc lập, ngày 13/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh
tuyên bố “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy
nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công – thương phải hoạt động để xây
dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân
và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công – Thương trong cuộc kiến thiết này” [27; 49]
Ngày 17/3/1949, Liên Bộ kinh tế - Nội vụ có văn bản số 27/NV-KT “Nguyên
tắc căn bản là tự do kinh doanh. Trong hoàn cảnh hiện tại nguyên tắc ấy càng cần
được tôn trọng và những hoạt động kinh doanh tư nhân đang giữ một vai trò quan
trọng trong điều hoà, phân phối giữa các vùng” [21; 3]
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), xác định: Xây
dựng kinh tế quốc dân cần có tư bản. Giai cấp tư sản dân tộc cần và có thể góp
phần vào việc phát triển công thương nghiệp nước nhà.
Sau ngày miền Bắc giải phóng (1954), Chính phủ tiếp tục cho thực thi các
chính sách đã áp dụng trong vùng kháng chiến đối với các vùng mới giải phóng.
Ngày 30/3/1955, Chính phủ ban hành Nghị định quy định các doanh nghiệp tư
nhân phải đăng ký kinh doanh, trong đó phải kê khai về vốn, lượng công nhân, mặt
hàng sản xuất, nguồn nguyên liệu, doanh số, lãi,…
Ngày 19/4/1957, Chính phủ ban hành sắc lệnh chống đầu cơ tích trữ. đây là
văn bản pháp lý để Nhà nước có quyền kiểm kê, khám xét, đánh thuế, tịch thu
những kho hàng hoá tồn kho của tư nhân.
Tháng 9/1957, Trung ương Đảng công bố chủ trương cải tạo tư doanh ở miền
Bắc. Đến tháng 1/1958 thành lập Ban cải tạo công thương nghiệp tư doanh trực
thuộc Trung ương Đảng. Công việc cải tạo tư doanh bắt đầu từ đó và kết thúc vào
tháng 9/1960 với 3065 doanh nghiệp trong đó có 1794 doanh nghiệp thương
nghiệp.
Từ năm 1960 đến năm 1975 ở miền Bắc kinh tế tư nhân không được thừa
nhận. Trên thực tế nó vẫn còn tồn tại buôn bán nhỏ lẻ, chủ yếu bộ phận kinh tế này
hoạt động “ngầm”, hoạt động chui.
Sau ngày miền Nam giải phóng, Nghị quyết số 254/NQ-TW của Đảng thừa
nhận kinh tế miền Nam là kinh tế nhiều thành phần trong đó tư bản tư nhân là
thành phần hợp pháp. Nhưng đến 16/2/1978 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị
định số 15/TTg xem việc “xoá bỏ kinh tế tư nhân là vấn đề nóng bỏng trước mắt
cần tập trung sức càng sớm càng tốt”, phương thức cải tạo được tiến hành tương tự
như đối với tư bản tư nhân miền Bắc những năm 1957 – 1960.
Ngày 23/3/1978, chiến dịch bắt đầu với phương châm: bí mật, bất ngờ cùng
một lúc hầu như tất cả các cơ sở kinh doanh tư nhân ở miền Nam đều được lệnh
kiểm kê tài sản và học tập cải tạo, trong đó có 31681 cơ sở quốc hữu hoá.
Hai năm sau, ngày 17/6/1980, Ban Bí thư có văn bản đánh giá về kết quả của công
cuộc cải tạo: Năng lực sản xuất của phần lớn các xí nghiệp sau cải tạo chưa được
sử dụng tốt, năng suất lao động thấp kém, hiệu quả kinh tế giảm… Tài sản thu
được qua cải tạo bị hư hỏng, mất mát nhiều. Đời sống công nhân gặp nhiều khó
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
tư khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
năm khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
Tư khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ Thương mại: Báo cáo năm 2007.
10. Bộ Thương mại: Báo cáo thương mại Việt Nam năm 2006, phương hướng
phát triển năm 2007, tháng 2/2007, tr.7.
11. Bộ Thương mại - Viện Nghiên cứu thương mại (2001), Cơ sở khoa học
hình thành tập đoàn thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, Đề tài, Hà Nội.
12. Bộ Thương mại: Báo cáo thương mại Việt Nam năm 2006, phương hướng
phát triển năm 2007, tháng 2/2007, tr.7
13. Bộ Thương mại: Báo cáo hàng năm từ 1986 – 2006.
14. Bộ Thương mại: Báo cáo thực trạng và phương hướng, giải pháp phát
triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại.
15. Bộ Thương mại 2002: Đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập
trung phát triển thương mại nông thôn đến 2010.
16. Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Cục phát triển DNVVN: Đề tài khoa học cấp bộ:
Một số giải pháp phát triển bền vững doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (kỷ yếu),
5/2007, tr.45.
17. Bộ Kế hoạch - Đầu tư: Báo cáo hàng năm từ 1986 – 2006.
18. Cục Thống kê Hà Nội (2005), Niên giám thống kê 2004, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
19. Cục Thống kê Hà Nội (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
20. Chu Văn Cấp (Chủ biên) (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Công báo 1949, tr.3.
22. Nguyễn Thị Doan: "Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân" - Tạp chí
Thương mại - số 11/2002.
23. Lê Đăng Doanh: "Phát huy vai trò trợ giúp của các hiệp hội ngành nghề
với các doanh nghiệp trong công cuộc hội nhập quốc tế hiện nay" - Tạp chí
Thương mại số 16/2002.
24. Đặng Đình Đào, Hoàng Đức Thân (2003), Giáo trình kinh tế thương mại,
Nxb Thống kê Hà Nội.
25. Nguyễn Thị Như Hà (2004), Các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương
mại ở nước ta, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
26. TS. Đinh Thị Mỹ Loan, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Thương
mại, Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ: Kinh nghiệm từ Hàn Quốc – Tạp chí
Nhà quản lý số 49, tháng 7/2007.
27. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, tập 4, tr.49.
28. Tổng cục Thống kê: Tổng quan Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành
chính, sự nghiệp năm 2002, Mục: Khối kinh tế cá thể.
29. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê từ năm 1986 – 2006.
30. Tổng quan Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm
2002.
31. Hà Huy Thành (2002), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư
nhân – Lý luận và chính sách, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Đinh Văn Thành: "Thương nghiệp tư nhân - Thực trạng và giải pháp phát
triển" - Tạp chí Thương mại số 10/2002.
33. Hà Huy Thành (Chủ biên) (2002): Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và
tư bản tư nhân - Lý luận và chính sách" NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với kinh tế
tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Vụ hợp tác kinh tế đa phương – Bộ Ngoại giao (2002) “Việt Nam trong xu
thế toàn cầu hóa vấn đề và giải pháp” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. http:// www.vneconomy.com.vn
37. http:// www.vnexpress.net
38. http:// www.hapi.gov.vn
39. http:// vcci.com.vn
40. http:// www.mofahcm.gov.vn