TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
-----------------
ĐẶNG NGỌC THỦY
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TƠ LỤA
CỦA ĐÀNG NGOÀI – ĐẠI VIỆT
THẾ KỶ XVII
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN VĂN VINH
HÀ NỘI – 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Thầy giáo – Thạc
sĩ Nguyễn Văn Vinh, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình xây
dựng và hoàn thiện khóa luận.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy (Cô) giáo trong khoa
Lịch sử, các Thầy (Cô) trong tổ Lịch sử thế giới đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn
thành bản khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài chắc không tránh khỏi những
thiếu xót, vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các Thầy (Cô)
giáo và các bạn đồng nghiệp để đề tài này càng hoàn thiện và mang lại hiệu
quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Đặng Ngọc Thuỷ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu là của riêng tôi, không trùng với
kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Sinh viên
Đặng Ngọc Thuỷ
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chương 1. SẢN XUẤT TƠ LỤA Ở ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII ......... 9
1.1. Vài nét về tơ lụa Đại Việt trước thế kỷ XVII ......................................... 9
1.2. Bối cảnh Đàng Ngoài và khu vực thế kỷ XVII .................................... 13
1.2.1. Sự mở rộng kinh tế hàng hóa ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII ............. 13
1.2.2. Sự hình thành các mạng lưới thương mại quốc tế ở Đông Á ........ 20
1.2.3. Tình hình sản xuất tơ lụa Đàng Ngoài thế kỷ XVII ....................... 25
Tiểu kết ........................................................................................................ 34
Chương 2. XUẤT KHẨU TƠ LỤA ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII ....... 36
2.1. Tơ lụa trong mạng lưới thương mại Nội Á của người phương Tây thế kỉ
XVI- XVII.................................................................................................... 36
2.2. Xuất khẩu tơ lụa từ Đàng Ngoài sang Nhật Bản .................................. 40
2.3. Xuất khẩu tơ lụa Đàng Ngoài sang Manila .......................................... 52
2.4. Xuất khẩu tơ lụa Đàng Ngoài về châu Âu ............................................ 56
Tiểu kết ........................................................................................................ 61
Chương 3. VAI TRÒ CỦA TƠ LỤA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII ....................................... 65
3.1. Tơ lụa: tiền đề hội nhập quốc tế của Đàng Ngoài ................................ 65
3.2. Xuất khẩu tơ lụa và nguồn thu của Đàng Ngoài thế kỷ XVII .............. 69
3.3. Mậu dịch tơ lụa - cầu nối tiếp nhận văn minh phương Tây ................. 74
3.4. Mậu dịch tơ lụa và chuyển biến kinh tế - xã hội Đàng Ngoài .............. 79
3.4.1. Chuyển biến kinh tế........................................................................ 79
3.4.1.1. Trong thương nghiệp ............................................................... 79
3.4.1.2. Nghề thủ công nghiệp .............................................................. 82
3.4.2. Về xã hội ........................................................................................ 84
Tiểu kết ........................................................................................................ 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93
MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt, thế kỷ XVII chứng kiến cuộc
nội chiến kéo dài 2/3 thế kỷ giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh–Nguyễn. Xét
về phương diện chính trị, nội chiến Đàng Trong – Đàng Ngoài là sự tranh
chấp lãnh thổ và mối bất hòa không thể hòa giải bằng con đường hòa bình
giữa hai tập đoàn phong kiến có phần hiếu chiến. Về phương diện xã hội, một
cuộc tắm máu lớn nhất trong lịch sử nội chiến ở hai bờ giới tuyến sông Gianh
bởi những mưu đồ tranh giành quyền làm chủ đã khiến cho dân tình lầm than,
đất nước lâm vào cảnh hỗn loạn, để lại hậu quả lâu dài về sau. Chính vì lẽ đó,
có một số nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng, giữa bối cảnh chính trị và xã hội
rối ren như vậy, không có lí do nào để kinh tế có thể phát triển một cách bình
thường như trong thời bình, chứ chưa nói đến phát triển một cách hưng khởi
và thịnh đạt. Nhưng nhìn từ quan điểm quốc tế, bằng những tư liệu khai thác
được của người phương Tây và sự đổi mới trong tư duy khoa học, một số nhà
nghiên cứu trong những năm gần đây đã chứng minh rằng: Trong thế kỷ XVII,
trái ngược với sự bất ổn của tình hình chính trị trong nước và sự nhiễu loạn
của xã hội do ảnh hưởng của chiến tranh, kinh tế thương mại lại đạt được
những thành tựu rất rực rỡ, có những đóng góp đặc biệt quan trọng vào sự
hưng thịnh của dân tộc. Thế kỷ này cũng là bước đệm trong quá trình tiếp xúc
với các nền văn minh mới, những hệ tư tưởng mới, kỹ thuật mới sau này sẽ có
ảnh hưởng đậm nét đến lịch sử Việt Nam cận – hiện đại.
Xuất hiện trong kỷ nguyên thương mại châu Á với vai trò là là một địa
điểm thương mại, một mắt xích khá quan trọng, Đàng Ngoài cũng mau chóng
phát huy những tiềm năng của mình để dự nhập tích cực vào hệ thống hải
thương năng động và rộng lớn này. Những nghiên cứu gần đây đã khẳng định
truyền thống buôn bán trên biển lâu dài trong lịch sử Việt Nam [27; 51; 61].
1
Thực tế lịch sử cho thấy với vị trí quan trọng trên con đường thương mại quốc
tế, từ rất sớm các cảng thị Việt Nam đã đóng vai trò như một trung tâm liên
vùng, có thời điểm được coi như trung tâm liên thế giới [41, 257; 65, 37 –
55]. Cùng với những hoạt động thương mại sôi nổi của thương nhân người
Hoa, Ả rập, Ấn Độ, Đông Nam Á như một chất xúc tác đưa Việt Nam dự
nhập mạnh mẽ vào thị trường khu vực và thế giới. Sự hưng thịnh của các
thương cảng dọc bờ biển Việt Nam như Vân Đồn ở vùng Đông Bắc, Thanh –
Nghệ Tĩnh ở Bắc Trung Bộ; Vijaya của người Chăm ở Nam Trung Bộ... đã
cho thấy vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại quốc tế và khu vực
qua các thời kỳ lịch sử.
Vậy, sự hưng thịnh và hội nhập nhanh chóng của Đàng Ngoài có thể
thực hiện được là do đâu? Thương phẩm nào đã đóng vai trò chính yếu trong
việc thúc đẩy Đàng Ngoài hòa mình vào dòng chảy thương mại sôi động của
châu Á thế kỷ XVII? Trong khóa luận này, người viết cố gắng phân tích vai
trò của tơ lụa với tư cách là thương phẩm trung gian, hàng hóa có tính cầu nối
nổi bật nhất của Đàng Ngoài trong giai đoạn này. Đề tài “Hoạt động xuất
khẩu tơ lụa của Đàng Ngoài – Đại Việt thế kỷ XVII” sẽ làm sáng tỏ một số
vấn đề sau:
Thứ nhất, những ghi chép trong chính sử và tư liệu của người phương
Tây đã chứng minh được rằng, xứ Đàng Ngoài từ lâu đã là một vùng đất màu
mỡ, phì nhiêu, khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp cho sự phát triển dâu tằm, và
là vùng trồng dâu, nuôi tằm lớn nhất cả nước, với truyền thống tằm tang có
gần một nghìn năm từ ngày phát triển quốc gia độc lập. Trong ý nghĩa đó,
Khóa luận dẫn giải tiềm năng phát triển nghề thủ công nghiệp truyền thống –
nghề dệt, với sản phẩm tơ lụa đã đưa Đại Việt tham dự sâu và rộng vào mạng
lưới buôn bán tơ lụa trên biển của các thương nhân châu Á và châu Âu. Khóa
luận nhận định về sự mở rộng của kinh tế hàng hóa Đàng Ngoài trong thế kỷ
2
XVII, đó không chỉ là nhân tố kích thích hội nhập mà đồng thời là kết quả của
sự hội nhập kinh tế Đàng Ngoài vào kỷ nguyên thương mại châu Á.
Thứ hai, sự góp dự của các thương nhân phương Tây vào nền hải thương
của châu Á, với số vốn lớn, tàu thuyền và vũ khí hiện đại cùng tư duy kinh tế
mới đã thúc đẩy nền sản xuất Đàng Ngoài như thế nào trong thế kỷ XVII?
Các ngành kinh tế trong nước chịu sự tác động đến đâu và số lượng sản phẩm
sản xuất ra - ở đây là tơ lụa đã được vận chuyển tới những thị trường nào, lợi
nhuận mang lại cho thương nhân có thúc đẩy họ tiếp tục kinh doanh?
Thứ ba, tơ lụa nổi lên là thương phẩm quan trọng nhất của Đàng Ngoài
trong thế kỷ XVII, là chìa khóa vạn năng để Đàng Ngoài xâm nhập vào mạng
lưới hải thương châu Á. Tơ lụa cũng chính là lực hút các thương thuyền
phương Tây tới đây buôn bán, lưu trú và kinh doanh. Sự xuất hiện của những
tư duy mới, của nền văn minh mới, với những tiến bộ về khoa học, kĩ thuật đã
tác động đến xã hội Đàng Ngoài như thế nào, qua đó làm sáng rõ vai trò của
tơ lụa là vấn đề thứ ba mà chúng tôi muốn làm sáng tỏ trong khóa luận.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Với nhận thức mới và những nguồn tư liệu mới (từ các kho lưu trữ
phương Tây), chúng ta ngày càng chứng minh được sự phát triển sôi động của
kinh tế thương mại Đại Việt thế kỷ XVII. Đặc biệt là những nguồn thương
phẩm, các mặt hàng đã được thương nhân tiến hành trao đổi, buôn bán tại thị
trường Đàng Ngoài trong thế kỷ này, chúng đã có những đóng góp như nào
vào sự hội nhập của quốc gia trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế. Góp
phần nhận thức đúng đắn và đầy đủ về quá trình Đại Việt tham dự sâu và tích
cực vào hệ thống hải thương quốc tế, nhờ vào thương phẩm hàng đầu là tơ lụa
trong thế kỷ XVII, người viết đã sử dụng một số cuốn sách, bài nghiên cứu
của các học giả trong nước và quốc tế để làm sáng rõ vấn đề vị thế và vai trò
của hàng hóa, chủ yếu là tơ lụa trong quá trình đưa đất nước hội nhập.
3
Nghiên cứu về hệ thống thương mại và tình hình phát triển kinh tế thế
kỷ XVIII trước hết phải kể đến cuốn Ngoại thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ
XVII, XVIII và đầu XIX của tác giả Thành Thế Vỹ (Nxb. Sử học, 1961). Đây
được coi là công trình đi đầu, nghiên cứu một cách có hệ thống về ngoại
thương Việt Nam. Công trình đã bổ trợ rất nhiều cho Khóa luận, cung cấp cái
nhìn chung nhất về hoạt động thương mại trên cả 2 miền Đàng Ngoài và Đàng
Trong thế kỷ XVII, XVIII. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các bài nghiên
cứu về hải thương để có những kiến thức nền tảng về cấu trúc, mạng lưới
thương mại, qua đó thấy được sự tham gia của người Việt vào hoạt động hải
thương khu vực và thế giới. Các công trình như: “Thử phác dựng cấu trúc lịch
sử của khu vực Đông Nam Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa)”
(Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6/1994) của học giả Sakurai Yomio,
“Vai trò của các cảng thị vùng ven biển Đông Nam Á từ thế kỷ 2 TCN đến
đầu thế kỷ 19” của Giáo sư Shigeru Ikuta (in trong Đô thị cổ Hội An, Nxb.
Khoa học Xã hội, 1991)… Các bài nghiên cứu về thương mại của người Việt
thời cổ trung đại như: “Truyền thống và hoạt động thương mại của người Việt
(in trong Việt Nam trong hệ thống thương mại Châu Á, thế kỷ XVI-XVII, Nxb.
Thế Giới, 2007) của tác giả Nguyễn Văn Kim và Nguyễn Mạnh Dũng, bài
viết “Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại biển Đông thời cổ trung
đại” của tác giả Hoàng Anh Tuấn (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số
9+10/2008)…
Đặc biệt, khoá luận triệt để khai thác những công trình của tác giả
Hoàng Anh Tuấn – một hệ thống những bài viết rất dày dặn và công phu qua
việc khai thác nguồn tư liệu phương Tây - để làm sáng rõ tình hình thương
mại tơ lụa trong thế kỷ XVII. Trước hết phải kể đến cuốn sách Tư liệu về
công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII. Cuốn
sách đã khái quát tình hình buôn bán, chiến lược kinh doanh của thương điếm
Hà Lan và Anh tại Đàng Ngoài, đồng thời còn cung cấp nhật ký thương điếm
4
của người Hà Lan và người Anh trong suốt quá trình họ thiết lập quan hệ
thương mại, tiến hành buôn bán và những nỗ lực để gây dựng quan hệ với
triều đình phong kiến. Tiếp đến, còn có các bài viết “Mậu dịch tơ lụa của
công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Ngoài 1637 – 1670” (Tạp chí nghiên cứu
Lịch sử số 3 và 4/2006), “Gốm sứ Đàng Ngoài xuất khẩu ra Đông Nam Á, thế
kỷ XVII, tư liệu và nhận thức” (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 11/2007),
“Vải lụa và xạ hương xuất khẩu từ Đàng Ngoài sang Hà Lan thế kỷ XVII”
(Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2009), “Từ vụ áp phe của thương
điếm Anh tại Đàng Ngoài đến chính sách cấm biển của triều đình Lê – Trịnh”
(in trong Kỷ yếu hội thảo Chúa Trịnh Cương – Cuộc đời và sự nghiệp), bài
viết “Kim loại tiền Nhật Bản và chuyển biến kinh tế - xã hội Đàng Ngoài”
(Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12/2009)…
Những nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam, tình hình sản xuất,
lịch sử phát triển nghề thủ công và sự biến đổi của các nghề thủ công nghiệp
trong lịch sử dân tộc cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Trước hết, có
thể kể đến cuốn sách Sơ thảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam của
tác giả Phan Gia Bền (Nxb. Văn – Sử - Địa, 1957). Cuốn sách đã khái quát
lịch sử phát triển của hầu hết những nghề thủ công truyền thống Việt Nam,
đưa ra những dấu tích về nguồn gốc và xuất xứ nghề nghiệp, đồng thời cung
cấp cái nhìn tổng thể về sự phát triển và những thay đổi thủ công nghiệp Việt
Nam. Bên cạnh đó còn có các tác giả Bùi Văn Vượng với Làng nghề thủ công
nghiệp truyền thống Việt Nam (Nxb. Văn hóa Thông tin, 2002), Trần Quốc
Vượng với Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề (Nxb. Văn
hóa dân tộc, 1996), Lâm Bá Nam với Nghề dệt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ
(Luận án Tiến sĩ Dân tộc học, Đại học THHN, 1995)…
Sự phát triển hưng thịnh của thương mại Đàng Ngoài tạo ra sự thu hút
lớn đối với thương nhân ngoại quốc. Những ghi chép của những nhà buôn,
những nhà truyền giáo phương Tây đã cung cấp những thông tin thú vị, quan
5
trọng về nền thương mại và tình hình kinh tế - xã hội Đàng Ngoài thế kỷ
XVII. Tiêu biểu là các ghi chép của William Dampier, Một chuyến du hành
đến Đàng Ngoài (Nxb. Thế giới, 2007), Jean Baptiste Tavenrnier, Tập du ký
mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài (Nxb. Thế giới, 2007), Charles
Maybon, Những người châu Âu ở An Nam (Nxb. Thế giới 2006)….
Cùng với nguồn tư liệu tiếng Việt, những bài nghiên cứu, những cuốn
sách viết về thương mại Đàng Ngoài và vai trò của tơ lụa bằng tiếng Anh của
các học giả quốc tế cũng bước đầu được khai thác bao gồm: Leonard Blussé
(1996), “No Boats to China: The Dutch East India Company and the
Changing Patter of the China Sea Trade, 1635 – 1690” (Mordern Asian
Studies), Eiichi Kato “Unification and Adaptation, the Early Shogunate and
Dutch Trade Policies” in trong: Blussé and Gasstra eds. (1981), Companies
and Trade: Essays on Overseas Trading Companies during the Ancient
Regimé (Leiden University Press), cùng 02 bài viết “The Great Silk
Exchange: How the Developed was Connected and Developed” của Debin
Ma và “Silk for Silver: Manila – Macao Trade in the 17th Century” của
Dennis O. Flynn and Arturo Giraldez in trong cuốn chuyên khảo The Pacific
World, Lands, Peoples and History of the Pacific, 1500- 1900 (Vol. 12:
Textiles in the Pacific,1500- 1900) cùng một số công trình nghiên cứu khác.
Ngoài ra, các bộ chính sử cũng được khai thác để phục vụ việc nghiên cứu
về tình hình sản xuất thủ công nghiệp và chính sách của triều đình đối với việc
khuyến khích sản xuất tằm tang: Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1 & 2)
của tác giả Phan Huy Chú (Nxb. Giáo dục, 2008), Đại Việt sử ký toàn thư
(Nxb. Văn hóa Thông tin, 2004), Vân Đài loại ngữ của Lê Qúy Đôn, Khâm
định Việt sử thông giám cương mục (Nxb. Giáo dục, 2007), Đại Nam thực lục
(Nxb. Giáo dục, 2004)…
6
Ngoài ra, Khóa luận còn tham khảo nguồn tài liệu từ Internet, đặc biệt là
trang (Website nghiên cứu thương mại châu Á) của
một số nhà nghiên cứu người Việt.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Người viết đã triệt để tuân thủ những nguyên tắc của khoa học lịch sử
khi tiếp cận và nghiên cứu một vấn đề quan trọng của lịch sử dân tộc, đặt bối
cảnh đất nước trong bối cảnh quốc tế, khu vực để có cái nhìn toàn diện và sâu
sắc về sự phát triển của thương mại Đàng Ngoài. Khóa luận cố gắng áp dụng
phương pháp nghiên cứu khu vực học và hệ thống cấu trúc, qua đó có được
cái nhìn về sự tương tác qua lại giữa các thị trường, các thể chế và sản phẩm
kinh tế - xã hội Đàng Ngoài trong bối cảnh hải thương khu vực. Ngoài ra,
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp loại suy cũng
được chúng tôi sử dụng để nghiên cứu kinh tế thương mại Đàng Ngoài và vai
trò của tơ lụa trong quá trình hội nhập quốc tế.
4. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Khóa luận được cấu trúc thành 3 chương
chính:
Chƣơng 1: “Sản xuất tơ lụa ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII” Nêu rõ
truyền thống thủ công nghiệp của người Việt, đặc biệt là nghề dệt. Đây là một
nghề thủ công được Nhà nước phong kiến chú trọng và khuyến khích phát
triển bởi nó gắn liền với nhu cầu vật chất tối thiểu của con người, Khóa luận
cũng chỉ ra sự phát triển của kinh tế hàng hóa Đàng Ngoài thế kỷ XVII trong
bối cảnh sự xuất hiện của người phương Tây và sự hình thành mạng lưới
thương mại Đông Á của các công ty Đông Ấn châu Âu.
Chƣơng 2: “Xuất khẩu tơ lụa Đàng Ngoài thế kỷ XVII” Tập trung
làm sáng tỏ những thị trường tiêu thụ tơ lụa Đàng Ngoài trong thế kỷ XVII,
chủ yếu là Nhật Bản, Manila, châu Âu cho đến khi tơ lụa Bengal chiếm lĩnh
mất thị trường quốc tế của tơ lụa Đàng Ngoài. Tơ lụa Đàng Ngoài được khai
7
thác và buôn bán trong mạng lưới thương mại của thương nhân Á - Âu đã
mang lại nguồn lợi nhuận lớn đến đâu trong gần một thế kỷ bang giao và buôn
bán giữa triều đình phong kiến Lê – Trịnh với các thế lực thương mại phương
Tây.
Chƣơng 3: “Vai trò của tơ lụa trong hội nhập quốc tế của Đàng
Ngoài thế kỷ XVII” Phân tích và luận giải vị thế của tơ lụa Đàng Ngoài
trong mạng lưới thương mại của người phương Tây tại Đông Á, đồng thời
chứng minh rằng, tơ lụa là nguồn thu chủ yếu của Đàng Ngoài trong phần lớn
toàn bộ thế kỷ XVII và có đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế. Trong ý
nghĩa đó, chúng tôi cũng cố gắng để bước đầu làm rõ vấn đề quan trọng là:
Mậu dịch tơ lụa có phải đã thực sự đóng vai trò cầu nối tiếp nhận văn minh
phương Tây và thúc đẩy những chuyển biến kinh tế - xã hội Đàng Ngoài thế
kỷ XVII?
8
Chƣơng 1
SẢN XUẤT TƠ LỤA Ở ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII
1.1. Vài nét về tơ lụa Đại Việt trƣớc thế kỷ XVII
Trong hệ thống những nghề thủ công nghiệp truyền thống của nước ta từ
xưa đến nay, nghề dệt là một trong những nghề có vị trí quan trọng bậc nhất,
không chỉ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn cung cấp sản phẩm
cho sự phát triển kinh tế hàng hóa. Đây là một trong những nghề thủ công lâu
đời ở nước ta, cùng với những nghề thủ công truyền thống khác như nghề rèn,
nghề mộc... Lúc đầu tổ tiên chúng ta dệt áo, quần và lưới đánh cá bằng sợi vỏ
cây, dần dần biết dệt bằng sợi bông và về sau mới biết ươm tơ dệt lụa, rồi lại
dệt được các thứ hàng khác bằng tơ như the, lĩnh, điều…[1, 95 – 96] Ươm tơ,
dệt lụa để tự túc may mặc trong gia đình trở thành nghề phụ của đông đảo phụ
nữ khắp các miền trong cả nước. Xung quanh vấn đề về nguồn gốc của nghề
tằm tang ở nước ta còn có nhiều ý kiến. Theo Bùi Quang Chiêu thì nghề ươm
tơ dệt lụa là do người Trung Hoa truyền lại cho người Việt Nam vào thế kỉ thứ
X. Trong cuốn Vạn Phúc xưa và nay – cuốn sách viết về làng dệt lụa lâu đời
nhất cả nước có ghi chép lại: “Vào thời nước ta còn đang nội thuộc nhà Đường,
ở Bắc Quốc, tại châu Tụ Long, đạo Tuyên Quang có một gia đình dòng dõi vua
Hùng. Ông họ Hùng, tên Thụy, là người tài đức kiêm toàn. Bà họ Phạm tên
Khương là trang thục đức nổi danh… Ông bà sinh được một người con gái,
mặt hoa da phấn, thông minh tài trí…đặt tên là Ả Lã… Bấy giờ có viên đô hộ
sứ nhà Đường tên là Cao Biền rất ngưỡng mộ danh tiếng của nàng bèn tìm đến
kết mối nhân duyên…. Sau này Cao Biền được triều đình phương Bắc điều
động về Bắc quốc, bà Ả Lã ở lại cùng dân làng Vạn Bảo dạy dân canh cửi tầm
tang” [54, 25]. Vậy là, có thể bà Ả Lã đã học hỏi được nghề tằm tang từ chồng,
hoặc ít nhất là do người Trung Quốc đã mang sang Việt Nam. Nhưng hầu hết
các ý kiến đều có vẻ nghiêng về việc người Việt đã học được nghề ươm tơ, dệt
9
lụa của người Trung Quốc. Trong suốt những thế kỷ sau đó, nghề dệt đã chứng
tỏ vai trò quan trọng không thể thiếu trong đời sống vật chất của con người,
nhanh chóng trở thành một trong những nghề thủ công chủ yếu trong cơ cấu
kinh tế của xã hội Việt Nam truyền thống.
Sự phát triển của nghề dệt một phần lớn là nhờ điều kiện tự nhiên hết
sức thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi của nước ta, nhất là vùng đồng bằng
Bắc Bộ với những đồng bằng ven sông được bồi đắp bởi phù sa màu mỡ, đặc
biệt thích hợp với việc trồng dâu. Cây dâu lại là loại cây khá dễ trồng, có thể
trồng ngoài bãi hoặc trong vườn, thích hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm ở
Đàng Ngoài. Gắn liền với nghề trồng dâu là nghề nuôi tằm, Lê Qúy Đôn trong
Vân Đài loại ngữ ghi: “Đất Việt, xứ Giao là xứ nóng, nuôi nhiều tằm hơn nơi
khác, một năm nuôi đến tám lứa. Tằm là loài dương, thích ráo, ghét ẩm thấp”
[10, 32]. Chính những điều kiện thiên thời – địa lợi và sự khéo léo vốn có của
cư dân bản địa đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của nghề tằm tang và cũng
hình thành nên những trung tâm chăn tằm, ươm tơ và dệt lụa lớn trên khắp cả
nước, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Trong các bộ chính sử, địa chí cũng nhắc tới nghề dệt như một nghề thủ
công có vị trí quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế đất nước. Ngay từ những
ngày đầu dựng nước hầu hết các triều đình phong kiến đã có những chính
sách khuyến khích dân chúng dệt vải, trồng dâu, phát triển nghề dệt truyền
thống như một bộ phận không thể thiếu trong đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước. Năm 1013, dưới thời vua Lý Thái Tổ, “Qúy Sửu năm thứ 4 (1013) …
mùa xuân, tháng 2 định lệ “tiền và thóc về bãi dâu” [29, 264]. Ở kinh đô
Thăng Long triều đình còn cho thành lập một kho chứa lụa riêng gọi là
“quyên khố ty” đặt dưới sự kiểm soát của nhà vua.
Dưới thời Trần, trước sự phát triển mạnh mẽ của nghệ tằm tang, lệ thu
thuế đất bãi trồng dâu theo ghi chép trong Đại Việt sử kí toàn thư, mỗi mẫu là
9 hoặc 7 quan tiền. Đến năm 1402, Hồ Hán Thương “định lại các thứ thuế,
10
chia đất trồng dâu thành 3 hạng khác nhau: hạng cao nhất thu mỗi mẫu 5
quan, hạng trung bình thu 4 quan, hạng thấp nhất thu 3 quan” [54, 692]. Thời
thuộc Minh, nhà Minh định phép định lệ “mỗi mẫu đất bãi thu một lạng tơ,
mỗi một cân tơ thu một tấm lụa” [51, 732]. Thời Hậu Lê, sau khi cuộc kháng
chiến chống Minh thắng lợi, Lê Thái Tổ ban hành chính sách kinh tế, nhằm
khuyến khích nông nghiệp phát triển, giảm thuế hai năm đối với ruộng đất
trồng dâu. Trong suốt thời kì sau này, các vua nhà Lê cũng hết sức chú trọng
đến việc trồng dâu nuôi tằm, hạ lệnh cho các quan khuyên nhủ nhân dân làm
ruộng, trồng dâu. Năm 1498 (Mậu Ngọ), Hiến Tông Duệ hoàng đế năm Cảnh
Thống thứ nhất “hạ sắc lệnh cho thừa chính, hiến sát và phủ, huyện khuyên
bảo dân làm ruộng, trồng dâu.” Định thể lệ đánh thuế đất bãi, chia làm hai
hạng, một nửa là hạng đất trồng dâu, một nửa là hạng đất trồng lạc, mỗi mẫu
nộp thuế một quan hai tiền. Xã nào có trồng dâu thì cho phép nộp một nửa
bằng tơ sống: mỗi mẫu một cân tám lạng, mỗi cân giá tám tiền; xã nào không
trồng dâu thì nộp bằng tiền thay cho tơ sống” [54, 1154].
Như vậy là ngay từ đầu, nhà nước đã có những quy định đối với việc
trồng dâu, nuôi tằm của nhân dân, thể hiện thái độ đề cao vai trò của tơ lụa
trong đời sống kinh tế - xã hội. Thậm chí có khi lụa còn được coi là thuế phạt
đối với người phạm tội. Theo “Chính biên quyển thứ III, Nhâm Ngọ năm
Minh Đạo thứ nhất (năm 1042) Khố ti thu thuế lụa, nếu ăn lễ lấy lụa của
người ta thì cứ mỗi thước lụa phạt 100 trượng, mỗi tấm lụa phạt phối dịch
một năm. Còn trên số ấy trở lên thì cứ chiếu theo số tấm lụa đã lấy mà tăng
thêm số năm phối định” [54, 304]. Sử sách cũng ghi lại những lần thưởng
công, ban thưởng của vua chúa với quan lại, quân sĩ đều kèm theo vàng bạc là
lụa là, gấm vóc, hoặc trở thành lễ phẩm để tặng các sứ giả ngoại quốc “Khi sứ
Chiêm về, cho chánh phó sứ mỗi người một cái áo, 3 tấm lụa, thông sự và
hành nhân mỗi người 2 tấm lụa, 19 người đi theo cộng 19 tấm lụa...” [29,
197]. Xét trên khía cạnh này, rõ ràng tơ lụa không chỉ là một loại hàng hóa
11
thông thường mà còn mang ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển ổn định của
quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể.
Điều kiện tự nhiên thuận lợi và một nền kinh tế hàng hóa đã hỗ trợ cho
nghề thủ công phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong đời sống
kinh tế xã hội. Trên khắp cả nước, hầu như vùng nào cũng có làng làm nghề
dệt vải, dệt lụa với những sản phẩm như lụa, là, gấm, lĩnh, vải trắng, nhiễu…
Tuy nhiên, vùng châu thổ Bắc Bộ lại là vùng tơ lụa phát triển nhất cả nước.
Hầu hết các tỉnh đều có nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, nhất là các vùng
đất phù sa ven bờ sông Hồng, sông Cầu, sông Thái Bình, sông Thương…
Trong Lịch triều Hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: Phủ Thuận An,
huyện Gia Lâm “ruộng cấy lúa mùa rất tốt, việc làm ruộng, việc trồng dâu đều
phồn thịnh” [4, 130], hay như Phủ Thăng Hoa “dệt ra những thứ lụa vải, lĩnh,
là cải hoa, nhuộm màu khéo và đẹp không kém gì hàng Quảng Đông” [4,
195]. Từ lâu Thăng Long và các vùng phụ cận như Hà Đông, Sơn Nam, Kinh
Bắc, Sơn Tây… trở thành trung tâm của nghề dệt lụa của cả nước, với những
sản phẩm đặc biệt tinh xảo còn tới tận ngày nay ở các làng nghề nổi tiếng như
La Khê, Vạn Phúc, La Cả…
Nghề tằm tang, ươm tơ dệt lụa, trở thành một bộ phận không thể thiếu
trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Không chỉ cung cấp cho nhu cầu
tiêu dùng của nhân dân trong nước mà tơ lụa còn là một sản phẩm thương mại
hấp dẫn các thương nhân nước ngoài tham gia buôn bán, hình thành mạng
lưới giao thương tơ lụa trong các thế kỉ XVI và cực kì thịnh đạt vào thế kỉ
XVII. Các thương nhân nước ngoài bao gồm chủ yếu là người Trung Hoa,
Nhật Bản, những người đến Đàng Ngoài và có mối quan hệ buôn bán với Đại
Việt từ rất sớm. Sau đó là các thương nhân phương Tây mà tiên phong người
Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, mạng lưới buôn bán tơ lụa thịnh đạt nhất phải tới
thời kì của người Hà Lan, sau đó là người Anh, người Pháp (nhưng người
Pháp không đạt được quan hệ bang giao bền chặt với Đàng Ngoài). Tơ lụa trở
12
thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng vào thế kỷ XVI, XVII, cùng với các sản
phẩm khác như xạ hương, gốm sứ… đưa Đại Việt tham dự vào mạng lưới
thương mại quốc tế, tạo nên những sự thay đổi mang tính chất toàn diện về
các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước không chỉ ở trong giai đoạn này
mà còn là tiền đề phát triển cho các giai đoạn tiếp sau đó. Thế kỷ XVII cũng
đánh dấu những biến chuyển quan trọng trong chính nghề thủ công nghiệp
truyền thống này, với sự tăng trưởng khá nhịp nhàng về sản lượng tơ lụa,
đánh dấu thời kỳ buôn bán có sự góp dự của thương nhân phương Tây. Như
một tác động mang tính hai chiều, các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tương
tác lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất, góp phần đưa Đàng Ngoài
tích cực dự nhập vào mạng lưới thương mại châu Á. Đúng như diễn tiến của
lịch sử, trong thế kỷ này, tơ lụa đã thể hiện thành công vai trò thương phẩm
cầu nối quốc tế cho vương quốc Đàng Ngoài.
1.2. Bối cảnh Đàng Ngoài và khu vực thế kỷ XVII
1.2.1. Sự mở rộng kinh tế hàng hóa ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII
Thế kỷ XVII chứng kiến những biến động lớn lao của xã hội Việt Nam
với cuộc xung đột giữa hai dòng họ Trịnh và Nguyễn. Cuộc nội chiến tạo ra
một nghịch lý về phương diện kinh tế: kích thích sự phát triển mạnh mẽ của
nền kinh tế hàng hóa ở cả hai miền, mở rộng ngoại thương, giao lưu buôn bán
với nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Lịch sử đã cho thấy một
nghịch lý là: trong suốt những năm chiến tranh, nền kinh tế hàng hóa đất nước
lại phát triển nhanh chóng. Sự phát triển kinh tế hàng hóa gắn liền với sự phát
triển của ngoại thương, hay theo Thành Thế Vỹ thì quá trình tiến triển của
ngoại thương cũng là quá trình tiến triển của kinh tế hàng hóa được mở rộng
ra khỏi khuôn khổ thị trường trong nước [62, 5]. Nền kinh tế hàng hóa trong
bất kỳ một giai đoạn nào cũng gắn liền với một hệ thống yếu tố quan hệ chặt
chẽ với sản phẩm trở thành hàng hóa. Sự phát triển buôn bán đồng thời với
việc tổ chức giao dịch, các cơ quan mua bán, các thể lệ mua bán, cách thức
13
tiến hành trao đổi hàng hóa, đơn vị đo lường, thuế khóa, quan hệ giữa lái buôn
với người sản xuất, các phương tiện vận chuyển, chính sách mậu dịch của
quốc gia… Những yếu tố biểu hiện của thương mại này trong thế kỷ XVII
được thể hiện khá rõ rệt, hình thành một hình ảnh khá rõ nét về nền kinh tế
hàng hóa Đàng Ngoài.
Có thể nói rằng, Việt Nam là nước có truyền thống hải thương khá
sớm, một phần bởi những đặc điểm của địa hình sông núi. “Giao thông thủy
không những đã tạo nên những tuyến huyết mạch liên kết giữa các không gian
kinh tế - văn hóa của một Việt Nam thống nhất mà còn góp phần đưa dân tộc
ta từ rất sớm, hội nhập với thế giới bên ngoài” [27, 23]. Ngay từ rất sớm, đã
có sự trao đổi, buôn bán hàng hóa với các lái thương nước ngoài, đặc biệt là
thương nhân Trung Hoa. Trên các triền sông lớn mọc lên những chợ bến buôn
bán tập trung, thuyền bè đi lại đông đúc, như triền sông Hồng có Mê Linh,
Long Biên, triền sông Đuống có Doanh Lâu, triền sông Mã có Tư Phố… [62,
18]. Việc trao đổi, buôn bán trong nước từ chỗ trao đổi ngẫu nhiên tiến tới
trao đổi có tính chất kinh tế hàng hóa, làm xuất hiện một tầng lớp thương
nhân, hay những người lái buôn, người làm lái buôn trung gian, người buôn
bán trực tiếp sản phẩm.
Cuối thế kỷ XVI và gần như xuyên suốt thế kỷ XVII là thời kỳ kinh tế
ngoại thương Việt Nam đạt được sự phát triển phồn thịnh, với những thành
tựu rõ nét và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Sự phát triển của ngoại thương là biểu hiện rõ nét nhất của việc kinh tế
hàng hóa đã phát triển đến một mức độ nào đó, hàng hóa sản xuất ra có thể
đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của cư dân bản địa, có dư thừa để buôn bán,
tiến tới là sản xuất để phục vụ buôn bán. Vào thế kỷ XVI - XVII trong thời
đại hoàng kim của hệ thống thương mại châu Á, thương nhân nước ngoài (chủ
yếu là thương nhân châu Âu) đã tiến hành xác lập quan hệ buôn bán ở phương
Đông, trong đó có Đàng Ngoài. Nhưng trước đó, thương nhân Trung Quốc và
14
Nhật Bản đã xác lập được vị thế rất vững chắc trong mạng lưới buôn bán châu
Á.
Trung Hoa từ rất sớm, là một trong những thị trường tiêu thụ chính
hương liệu và hàng hóa của khu vực Đông Nam Á. Thực tế đã cho thấy, mọi
sự biến động của thị trường này đều có ảnh hưởng lớn tới mạng lưới thương
mại khu vực. Là miền đất cận kề với miền nam Trung Quốc, Đàng Ngoài là
nơi đón nhận nhiều đợt thiên di của người Hoa, tạo nên những cộng đồng cư
dân tương đối ổn định, phát triển, đông đúc và chính họ trong một khía cạnh
nào đó đã giữ vai trò tích cực trong việc thúc đẩy các hoạt động sản xuất và
giao thương. Không chỉ có người Hoa, người Nhật cũng đã góp phần tạo nên
không khí sôi động trong hoạt động kinh doanh, buôn bán tại Đàng Ngoài.
Những hoạt động sôi nổi của Nhật thương tại Đàng Trong và Đàng Ngoài góp
phần làm phong phú, hưng thịnh hoạt động thương mại ở cả hai khu vực này.
Bên cạnh đó là sự xuất hiện của các thương nhân phương Tây, những
người bắt đầu thâm nhập vào mạng lưới buôn bán ở phương Đông từ đầu thế
kỷ XVI. Những mối liên hệ thương mại, văn hóa giữa phương Đông và
phương Tây đã diễn ra từ rất sớm trong lịch sử. Sự thiết lập con đường tơ lụa
trên bộ và trên biển của nhà Đường cho thấy mạng lưới thương mại phương
Đông và phương Tây đã được thiết lập một cách có hệ thống. Trong lộ trình
thương mại đó, một số cảng thị khu vực Bắc Bộ của Việt Nam đã đóng vai trò
quan trọng, là những điểm dừng chân của thuyền buôn các nước. Những
thương nhân châu Âu nhanh chóng thiết lập mạng lưới buôn bán của mình tại
Đông Nam Á thông quan hàng loạt các công ty Đông Ấn. Những công ty
Đông Ấn này nhanh chóng nắm lấy thị trường Đông Nam Á, chi phối mọi
hoạt động buôn bán tại đây, cũng như phá vỡ thế độc quyền của thương nhân
người Hoa, người Ấn. Đến thế kỷ XVII, các thương nhân phương Tây đã tích
cực và chủ động tham dự vào mạng lưới buôn bán tơ lụa và hương liệu
phương Đông, tạo ra những dấu ấn rất nổi bật ở hầu khắp những nơi mà họ
15
đứng chân. Trong những đóng góp đó, việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa
Đàng Ngoài phát triển thịnh đạt đã tạo ra những kết quả thương mại rất khả
quan cho các Công ty Đông Ấn châu Âu, đồng thời tạo thành lực đẩy sự phát
triển nhanh chóng nền kinh tế hàng hóa tại phương Đông.
Vào thế kỷ XVII, các cảng quan trọng của Đàng Ngoài như Thăng
Long, Phố Hiến đều nằm ở lưu vực sông Hồng, trong hệ thống “sông Đàng
Ngoài”, bao gồm phức hệ của hệ thống sông Hồng với sông Thái Bình, sông
Đáy, sông Cấm và cả chuỗi chi lưu của các con sông này đổ ra biển [28, 20].
Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, cửa ngõ lưu thông của Đàng Ngoài
với thế giới bên ngoài trong thế kỷ XVII là hệ thống sông Thái Bình, nơi triều
đình Lê – Trịnh đã cắt đặt hệ thống quan lại giám sát và điều hành chặt chẽ
hoạt động công thương với người nước ngoài [28; 24; 25; 27; 50; 51]. Những
nghiên cứu trên cũng cho thấy, Đàng Ngoài thế kỷ XVII đã hình thành một hệ
thống cảng sông để các tàu bè có thể neo đậu mỗi khi buôn bán. 1 Việc hình
thành và phát triển của hệ thống cảng sông không chỉ thể hiện sự chuyển biến
mạnh mẽ của nền kinh tế trong nước, sự thông thoáng trong chính sách kinh
tế của triều đình phong kiến, mà quan trọng hơn sự phát triển này đã đưa
trung tâm buôn bán từ các cảng biển vào sâu trong đất liền, gần với trung
tâm Kẻ Chợ và các vùng kinh tế, làng nghề hơn để có thể dễ dàng thu mua
hàng hóa và trao đổi các thương phẩm.
Hệ thống thương cảng ven sông có thể được xem như những loại hình
chợ bến, một minh chứng rõ nét cho sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nơi
tiến hành các hoạt động trao đổi, buôn bán. Từ thời Lý, nhà nước đã chú trọng
xây dựng các bạc dịch trường để tiến hành buôn bán với nước ngoài – thời kỳ
này chủ yếu là với người Hoa. Trong đó nổi tiếng nhất và quan trọng nhất là
1
Tác giả Nguyễn Văn Kim trong chuyên luận “Ngoại thương Đàng Ngoài và mối quan hệ Việt – Nhật thế kỷ
XVII” (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 3/1995) cho rằng: vào thế kỷ XVII, các tuyến đường thủy từ Biển
Đông đến Phố Hiến và Thăng Long đã đi theo hai tuyến chính: Thứ nhất: tuyến cửa sông Thái Bình- sông
Luộc- sông Hồng. Thứ hai: tuyến cửa sông Đáy- sông Hồng đi đến Phố Hiến. Đây vốn là tuyến chính của các
thuyền buôn châu Á.
16
Vân Đồn, nhưng cũng chỉ ở khu vực biên giới, cửa ngõ của tổ quốc.2 Sự phát
triển mau lẹ của sức sản xuất khiến cho những nơi cũ như Vân Đồn càng phồn
thịnh và xuất hiện cả các chợ bến gần nội địa hơn. Sự tiến dần vào nội địa của
chợ bến, việc thương lái ngoại quốc có thể vào tận trong kinh thành Thăng
Long cư trú và buôn bán, đã chứng tỏ phần nào sự phát triển của kinh tế hàng
hóa Đàng Ngoài thế kỷ XVII.
Tiền tệ là một trong những biểu hiện rõ nét nhất cho sự phát triển của
tình hình buôn bán và kinh tế hàng hóa. Từ thời Đinh, Lê đã xuất hiện tiền đúc
bằng đồng, mặc dù có hình dáng các đồng tiền, chữ in trên tiền là chữ Hán,
nhưng ở đằng sau mỗi loại tiền đều có in cả chữ Đinh, hay chữ Lê để nêu rõ đó
là đồng tiền của nhà nước phong kiến Việt Nam tự chủ và để phân biệt với
những đồng tiền Trung Quốc đã được lưu thông trước đó. Việc xuất hiện tiền
đồng Đinh, Lê đã chứng tỏ rằng kinh tế hàng hóa đã thực sự hình thành, sự đổi
chác đã sâu rộng và kinh tế hàng hóa đã trở thành thói quen hàng ngày của
nhân dân. Đến khi cần buôn bán với số lượng hàng hóa lớn, hoặc hàng hóa có
giá trị lớn, người ta sử dụng bạc nén và vàng. Thế kỷ XVII, bạc Nhật và bạc
Trung Quốc được sử dụng rộng rãi ở các nước phương Đông để mua bán, trao
đổi. Cũng chính vì vậy mà mục tiêu buôn bán của các Công ty Đông Ấn châu
Âu ở phương Đông trước hết là thu mua hàng hóa để đổi bạc – loại tiền tệ quan
trọng bậc nhất để có thể tiến hành vận hành bộ máy, mạng lưới thương mại một
cách trơn tru và có hiệu quả cao nhất. Các thương nhân ngoại quốc đã nhập
khẩu vào Đàng Ngoài lượng bạc, các loại tiền kim loại với số lượng rất lớn để
thu mua các sản phẩm thương mại của địa phương, chủ yếu là tơ lụa, hương
liệu, gốm sứ. Những hoạt động trao đổi, buôn bán đó đã tạo ra những biển
chuyến kinh tế - xã hội trên quy mô lớn ở khu vực này trong suốt thế kỷ XVII
[52].
2
Năm 1149, Lý Anh Tông cho thiết lập trang Vân Đồn (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để tiến hành các hoạt
động giao thương với nước ngoài, chủ yếu là Trung Hoa. Vân Đồn trở thành một trong những thương cảng
lớn nhất và sớm nhất của Đại Việt từ đó.
17
Sự phát triển của sức sản xuất trong nước là cơ sở để khẳng định sự
phát triển của kinh tế hàng hóa bởi mối quan hệ tự thân giữa thị trường và sản
phẩm hàng hóa. Thế kỷ XVII, các nghề thủ công nảy nở nhiều hơn, sản xuất
ra được nhiều thứ hàng hóa, trong đó loại thương phẩm có ý nghĩa quan trọng
nhất là tơ lụa. Tơ lụa trở thành mặt hàng chính yếu để trao đổi với thương
nhân nước ngoài trong suốt thế kỷ XVII. Theo số liệu của Công ty Đông Ấn
Hà Lan, trung bình mỗi năm Đàng Ngoài sản xuất ra hơn 90 tấn tơ sống,
5.000 đến 6.000 tấm lụa khổ lớn, một lượng lớn quế và một số thương phẩm
có giá trị xuất khẩu khác như gốm sứ, sơn mài… Để tham gia sản xuất tơ lụa
có khoảng 1% dân số Đàng Ngoài đã thực hiện các công việc trực tiếp hoặc
gián tiếp liên quan đến các công đoạn tạo thành sản phẩm. Trong nền tảng
của một đất nước thuần nông nghiệp, việc một bộ phận cư dân tham gia sản
xuất hàng hóa với số lượng lớn biểu thị cho nhu cầu về sản phẩm của thị
trường khu vực và quốc tế.
Tơ lụa cũng là tác nhân hình thành nên mạng lưới thương mại liên
hoàn, liên vùng. Nguồn lợi mà các tập đoàn thương mại phương Tây thu được
chính là việc nhập và tái xuất một số sản phẩm thị trường Đông Nam Á đến
khu vực Đông Bắc Á hoặc đem về Châu Âu tiêu thụ. Các Công ty Đông Ấn
châu Âu đã thiết lập được mạng lưới thương mại liên vùng nối liền những
thương cảng quan trọng trong khu vực như Kẻ Chợ - Nagasaki – Macao - Đài
Loan để dễ dàng thu mua và vận chuyển hàng hóa, kết nối thị trường khu vực,
liên khu vực. Trong mạng lưới đó, Đàng Ngoài đã đóng vai trò là một mắt
xích kết nối thị trường liên khu vực trong suốt thế kỷ XVII.
Việc phát triển buôn bán kéo theo hàng loạt những thủ tục khai báo, lễ
vật mà các thương nhân khi tham gia buôn bán phải thực hiện. Đây là một
trong những đặc trưng khá nổi bật của quan hệ kinh tế, buôn bán ở các nước
phương Đông. Trong thế kỷ XVII, các lái thương nước ngoài phải dâng lên
chúa Trịnh hay quan lại dưới quyền Chúa những món quà có giá trị, được
18
xem như những thứ thuế đặc biệt mà nếu không thực hiện điều này thì công
việc buôn bán khó có thể tiến hành một cách thuận lợi. Theo nghiên cứu của
Thành Thế Vỹ, đó thường là những hàng quý hiếm, những hàng thường dùng
buôn từ Nhật sang, hoặc những vũ khí mà phủ Chúa yêu cầu. Đến thế kỷ
XVIII tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn ở Đàng Trong đã thiết lập được một
bộ máy ngoại thương, có chính sách về thuế khóa, cách tiến hành buôn bán cụ
thể và rõ ràng, hạn chế được phần nào sự sách nhiễu của quan lại phong kiến,
làm ảnh hưởng đến hoạt động thương mại, trao đổi hàng hóa của thương nhân
nước ngoài và cả thương nhân trong nước.
Một thực tế là trong thế kỷ XVII, trước những yêu cầu của thực tiễn,
triều đình Lê – Trịnh đã có cái nhìn khá cởi mở và thông thoáng đối với hoạt
động buôn bán, tạo điều kiện cho sự phát triển và mở rộng của nền kinh tế
hàng hóa Đàng Ngoài, mặc dù mục đích chính của họ Trịnh là lấy hoạt động
buôn bán hỗ trợ cho các chiến lược chính trị và quân sự ở biên giới phía Nam.
Xét ở khía cạnh này, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong - những người sớm nhìn
ra vai trò quan trọng của thương mại, đã nhanh chóng kết nối với các thương
nhân ngoại quốc để tạo ra sức mạnh kinh tế cho vương quốc và có thể nâng
cao tiềm lực phục vụ cuộc nội chiến với Đàng Ngoài. Nhu cầu nội tại và sự
tác động khách quan tạo thành một tổng thể thúc đẩy sự đổi mới tư duy kinh
tế của nhà cầm quyền Lê – Trịnh. Kết quả là sự mở rộng kinh tế hàng hóa
Đàng Ngoài thời kì này tạo ra lực hấp dẫn các thương nhân ngoại quốc tới đây
buôn bán, hình thành mạng lưới thông thương rộng khắp, mang tính khu vực,
liên khu vực. Hay chính xác hơn là sự tác động mang tính hai chiều. Sự xuất
hiện của các thuyền buôn phương Tây và thương điếm của họ ở Đàng Ngoài
(Phố Hiến, Kẻ Chợ) đã có những ảnh hưởng không chỉ về mặt kinh tế mà còn
làm biến đổi xã hội truyền thống (sẽ nói rõ ở Chương 3). Đồng thời, kinh tế
hàng hóa thời kỳ này còn tạo ra những nền tảng kinh tế cho những thời kỳ sau
phát triển, mở rộng và phát huy truyền thống hải thương năng động của người
19
Việt mà trong lịch sử do chính sách kìm hãm của triều đình phong kiến đã
không thể phát huy hết tiềm năng.
Như vậy, có thể thấy rằng sự phát triển mở rộng của kinh tế hàng hóa là
sản phẩm của nhiều yếu tố: truyền thống thương mại, sự xuất hiện của các
thương nhân ngoại quốc, sự mở rộng của các cảng sông, cảng biển và các loại
thương phẩm tham gia buôn bán… Đó là kết quả của sự tích hợp nhiều yếu tố,
những mắt xích không thể thiếu trong việc hình thành một hệ thống kinh tế
mang tính thống nhất. Về mặt lý luận, ở mỗi thời kỳ khác nhau, kinh tế hàng
hóa sẽ mang những đặc trưng khác biệt, nhưng vẫn có những yếu tố chính
không thể thay thế. Lịch sử đã chứng minh rằng, thương mại là một trong
những con đường ngắn nhất và duy nhất để có thể tận dụng nguồn lực và phát
huy hết tiềm năng của quốc gia. Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII dưới những tác
động khách quan và những yêu cầu nội tại đã hình thành một nền kinh tế
mang tính hàng hóa, thúc đẩy sự phát triển và lớn mạnh của kinh tế Đàng
Ngoài và phần nào đó đã đưa Đàng Ngoài dự nhập chủ động hơn vào mạng
lưới thương mại quốc tế.
1.2.2. Sự hình thành các mạng lưới thương mại quốc tế ở Đông Á
Đến thế kỷ XVII, khi châu Á đang ở trong kỷ nguyên thương mại,3 với
sự tham dự của các Công ty Đông Ấn châu Âu, khu vực Đông Á hình thành
một mạng lưới thương mại có quy mô lớn và mang tính liên hoàn cao. Ngay
từ những thế kỷ trước, giữa các nước trong khu vực đã hình thành quan hệ
3
Về thời kỳ phát triển thịnh đạt của mạng lưới thương mại tại Châu Á, dù còn nhiều ý kiến tranh luận, nhưng
hầu hết các nhà nghiên cứu đều lấy niên đại từ 1450 -1680. Niên đại này được đưa ra bởi nhà nghiên cứu
Anthony Reid để chỉ giai đoạn hoàng kim của hoạt động thương mại Đông Nam Á. Xin xem Anthony Reid,
Southeast Asia in the Age of Commerce (Volume 2: Expansion and Crisis), Yale University Press, 1993. Một
số nhà nghiên cứu cho rằng, ở Đông Nam Á còn tồn tại một kỷ nguyên thương mại sớm, kéo dài từ 900 1300. “Một trong những nhân tố tác động rất lớn và gần như xuyên suốt “kỉ nguyên sớm của thương mại
Đông Nam Á (900 -1300)”, như Geoff Wade từng đề xuất, là những chính sách về thương mại và kinh tế hết
sức tích cực và chủ động của các vương triều Tống và Nguyên ở Trung Quốc. Nối tiếp chủ trương coi trọng
tiền tệ để phát triển thương mại của các chư hầu thời kì Ngũ Đại, dưới thời Tống, những chính sách cụ thể về
tiền tệ, trao đổi, thuế khoá…trong giao dịch với người nước ngoài đã được thực thi nhằm kích thích sự mở
rộng của ngoại thương. Dẫn theo Hoàng Anh Tuấn, “Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại biển
Đông thời cổ trung đại”, tr. 7.
20