Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bước đầu tìm hiểu về những ngôi mộ gió trên đảo lý sơn quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.99 MB, 86 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

ĐẶNG THỊ KIM DUNG

BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ NHỮNG NGÔI MỘ GIÓ
TRÊN ĐẢO LÝ SƠN-QUẢNG NGÃI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử văn hóa

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Văn Vinh.

Hà Nội, 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa, quý Thầy, cô giáo khoa Lịch sử trƣờng
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 và quý thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy đã giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hƣớng dẫn :
T.S. Nguyễn Văn Vinh. Thầy đã luôn tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tác giả cảm ơn tập thể lớp K38 A – CN Lịch Sử, trƣờng Đại học sƣ
phạm Hà Nội 2 đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện khóa
luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2016
Tác giả


Đặng Thị Kim Dung.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập
nghiên cứu của tôi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Lịch sử,
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hƣớng dẫn tận tình của Thầy
giáo – T.S. Nguyễn Văn Vinh.
Trong quá trình làm khóa luận tôi có tham khảo những tài liệu có liên
quan đã đƣợc hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận không có sự
trùng lặp với khóa luận khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả

Đặng Thị Kim Dung


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................... 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................. 3
5. Kết cấu của khóa luận ...................................................................... 3
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO LÝ SƠN ............................................... 4
1.1.Vị trí địa lý và lịch sử hình thành đảo Lý Sơn .............................. 4
1.1.1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ............................................ 4
1.1.2. Lịch sử đảo Lý Sơn ................................................................ 6
1.1.3.Đặc điểm kinh tế xã hội ........................................................... 9

1.2.Lý Sơn - Quê hƣơng của Hải đội Hoàng Sa ................................ 13
* Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................... 18
CHƢƠNG 2. MỘ GIÓ, MỘ CHIÊU HỒN VÀ CÁC NGHI THỨC LIÊN
QUAN ............................................................................................................. 19
2.1. Quan niệm của ngƣời Việt về việc an táng ngƣời chết .............. 19
2.2. Chiêu hồn nạp táng ..................................................................... 21
2.3.Hình nhân thế mạng ..................................................................... 22
2.4. Mộ gió ......................................................................................... 22
2.5. Mộ gió trên đảo Lý Sơn, mộ gió hay mộ chiêu hồn? ................. 24
2.6. Cách thức lập mộ gió ở Lý Sơn .................................................. 26
2.7. So sánh mộ gió ở Lý Sơn với mộ gió ở các địa phƣơng khác.... 32
2.7.1.Điểm khác biệt của những ngôi mộ gió Lý Sơn với mộ gió ở
các vùng ven biển khác ................................................................... 32
2.7.2.So sánh lễ chiêu hồn ở Lý Sơn với lễ chiêu hồn nhập cốt của
ngƣời Chăm Bà La Môn ở Ninh Thuận .......................................... 33
2.7.3.Ngƣời nặn hình nhân thế mạng cho ngƣ dân mất tích .......... 36


*Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................ 39
CHƢƠNG 3. NHỮNG DI TÍCH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỘI HOÀNG SA VÀ
NGƢ DÂN ĐÁNH BẮT Ở HOÀNG SA TRÊN ĐẢO LÝ SƠN .................. 40
3.1.Mộ của cai đội Phạm Quang Ảnh và binh phu............................ 40
3.2.Mộ của Chánh đội trƣởng Thủy quân suất đội của Đội Hoàng Sa Phạm Hữu Nhật ............................................................................................ 42
3.3.Mộ và đền thờ Võ Văn Khiết ...................................................... 44
3.4.Di tích âm linh tự và mộ lính Hoàng Sa ...................................... 46
3.5.Dinh Âm hồn (chùa Âm hồn) ...................................................... 49
3.6.Những ngôi mộ của ngƣ dân đi Hoàng Sa................................... 49
3.7. Ý nghĩa của những ngôi mộ gió trên đảo Lý Sơn ...................... 51
*Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................ 53
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 55

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 58
PHỤ LỤC ẢNH .............................................................................................. 63
MỤC LỤC ....................................................... Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảo Lý Sơn (còn có tên gọi là Cù Lao Ré) là huyện đảo duy nhất của tỉnh
Quảng Ngãi. Đảo nằm ở phía Đông Bắc, cách đất liền 15 hải lý. Đảo Lý Sơn đƣợc
coi là cửa ngõ ra Hoàng Sa. Đây cũng đƣợc coi là một bảo tàng sống động về lịch
sử chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa – Trƣờng Sa, cùng với một hệ
thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú và đa dạng với nhà thờ họ,
đình làng, các lăng, lân, Âm linh tự, mộ gió…
Quan niệm của ngƣời Việt, sống có cửa có nhà, thác có mồ có mả” vì vậy,
tang lễ cho ngƣời chết, xây cất mồ mả, cúng giỗ linh hồn ngƣời mất đƣợc xem là
phần không thể thiếu đƣợc trong đời sống. Ngƣời dân vùng biển do sống ở một môi
trƣờng khắc nghiệt hơn, nơi ngƣời chết không phải lúc nào cũng tìm đƣợc thi thể
nên phổ biến một tập tục, đó là những ngƣời bị nạn trên biển, không tìm đƣợc thi
thể thì phải làm mộ gió, dựng cây tre đầu làng, trên cây tre buộc mảnh vải trắng
(nhìn nhƣ cây nêu) với niềm tin là gọi hồn ngƣời chết trở về nhập vào ngôi mộ.
Tục đắp mộ gió, táng hình nhân thế mạng phổ biến nhiều vùng trên đất nƣớc
ta, nhƣng không đâu nhiều bằng huyện đảo Lý Sơn. Bởi ở đây ngoài những ngôi mộ
gió của ngƣ dân bị gặp thiên tai, tai nạn mất xác trên biển còn có những quân binh
các đội Hoàng Sa, Trƣờng Sa hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Ở Lý Sơn, bãi tha ma
nào cũng có mộ gió, thậm chí vì đất chật ngƣời ta còn đắp cả mộ ở góc ruộng tỏi,
góc vƣờn hay góc sân nhà…
Mộ gió ở Lý Sơn gắn liền với tục cúng Khao lề thế lính”, một lễ thức của cƣ
dân vùng biển với tín ngƣỡng thờ chiến sĩ trận vong, ở đây là những ngƣời lính đi
làm nhiệm vụ ở đảo Hoàng Sa thuở trƣớc:
Hoàng Sa trời nước mênh mông

Người đi thì có mà không thấy về
Đề tài mộ gió đƣợc viết khá nhiều, nhƣng không phải từ góc độ nghiên cứu
khoa học. Những bài viết về đề tài này hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức độ một bài
báo, hoặc một phóng sự nhiều kỳ. Lựa chọn đề tài:” Những ngôi mộ gió ở Lý Sơn”
làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp, tôi muốn đƣa đến một cái nhìn toàn diện, bao

1


quát về mộ gió từ lịch sử, thời gian hình thành, nguyên nhân lập mộ gió, cách thức
tiến hành, ý nghĩa, giá trị của những ngôi mộ gió, điểm khác biệt của mộ gió ở Lý
Sơn với mộ gió ở những địa phƣơng khác…
2. Lịch sử nghiên cứu
Viết về đề tài mộ gió, về những ngôi mộ của hùng binh Hoàng Sa có rất nhiều
bài báo, tạp chí, phóng sự đã từng đăng tải.. .Nếu tra cụm từ mộ gió” trên Google
search sẽ cho 15.300.000 kết quả trong vòng 0,28 giây. Tuy nhiên, các bài báo, tạp chí
này chủ yếu tập trung khai thác về mộ của những cai đội Hoàng Sa, một vài bài báo
có giới thiệu sơ qua về cách làm mộ gió, về nguyên nhân lập mộ…nhƣng hầu nhƣ tất
cả đều mang tính chất giới thiệu, khái quát.
Cuốn sách Như cây phong ba trên đảo Hoàng Sa” của nhà báo Lê Văn
Chƣơng và bài viết Mộ gió, Hình nhân và Lễ khao lề ” của Lê Hồng Khánh nhắc
đến một vài nét về những ngôi mộ gió ở Lý Sơn cũng nhƣ cách thức lập mộ chiêu
hồn, lập mộ gió... Nhƣng phần nhiều vẫn còn tập trung nhiều vào những ngôi mộ
gió của những ngƣời cai đội Hoàng Sa nhƣ Phạm Hữu Nhật, Phạm Quang Ảnh và
gắn liền với lễ khao lề thế lính Hoàng Sa .
Cuốn Hình nhân và Mộ gió” của tác giả Hiền Văn cũng đề cập một số chi
tiết liên quan đến việc lập mộ gió và các loại hình nhân ở Lý Sơn nhƣng tác giả viết
dƣới dạng bút ký, chƣa đƣa ra đƣợc cái nhìn toàn diện về mộ gió.
Những bài báo, phóng sự, bài viết, mà tôi đã sƣu tầm là nguồn tài liệu tham khảo
quý báu cho quá trình thực hiện đề tài này. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh rằng hiện nay

chƣa có một công trình chuyên biệt, nghiên cứu chuyên sâu về mộ gió.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này đƣợc xác định là những ngôi mộ gió
trên đảo Lý Sơn, đặc biệt chú ý về nguồn gốc, cách thức lập mộ, thống kê số lƣợng
mộ gió hiện có trên đảo, cũng nhƣ ý nghĩa của những ngôi mộ này đối với đời sống
tinh thần của cƣ dân trên đảo, ngoài ra còn chú trọng so sánh với các ngôi mộ ở các
vùng ven biển khác để thấy đƣợc sự khác biệt của những ngôi mộ gió ở Lý Sơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Từ khi ngƣời dân trên đảo có tục đắp mộ gió (cách đây 200
năm cho đến ngày nay)

2


- Về không gian: Huyện đảo Lý Sơn và một số vùng ven biển Việt Nam nơi
có tục đắp mộ gió.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu: Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi tích
cực tìm các tài liệu , bài báo tạp chí, internet đã xuất bản có liên quan đến vấn đề
mộ gió, mộ chiêu hồn để đọc, phân tích từ đó đƣa ra các lập luận và nhận xét góp
phần làm cho đề tài đƣợc khoa học, chặt chẽ và hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó tôi đã
tiến hành điền dã, khảo sát, thống kê những ngôi mộ gió ở Lý Sơn cũng nhƣ tiến
hành phỏng vấn ngƣời trực tiếp tham gia lập mộ gió và những ngƣời trong gia đình
có mộ gió.
- Phương pháp phân tích và so sánh tài liệu.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của khóa luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về huyện đảo Lý Sơn

Chƣơng 2: Mộ gió, mộ chiêu hồn và nghi thức liên quan.
Chƣơng 3: Di tích liên quan đến đội Hoàng Sa và ngƣ dân đánh bắt ở Hoàng
Sa trên đảo Lý Sơn
Kết luận

3


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO LÝ SƠN
1.1.Vị trí địa lý và lịch sử hình thành đảo Lý Sơn
1.1.1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Huyện đảo Lý Sơn nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Quảng Ngãi, cách đất liền
chừng 25km, gồm một đảo lớn (Cù Lao Ré), một đảo bé (Cù Lao Bờ Bãi) và hòn
Mù Cu. Vốn đƣợc tách ra từ huyện Bình Chánh theo quyết định của Thủ tƣớng
Chính phủ năm 1992 và trở thành huyện đảo tiền tiêu. Nói về huyện đảo này, nhân
dân địa phƣơng có ca dao thủy trình:
Trực nhìn thấy ngó Bàn Than
Ba hòn lao Ré nằm ngang Sa Kỳ”
Diện tích của Lý Sơn vào khoảng 9,97 km², cƣ dân sống ở đây có hơn 20.000
ngƣời. Tổng chiều dài đƣờng bờ biển của huyện đảo là trên 25km. Huyện đảo Lý
Sơn gồm 3 đảo: đảo Lớn (Lý Sơn, Cù Lao Ré), đảo Bé (Cù Lao Bờ Bãi) ở phía Bắc
đảo Lớn, và hòn Mù Cu ở phía Đông của đảo Lớn. Huyện đƣợc chia làm 3 xã: An
Vĩnh (huyện lỵ - Đảo lớn), An Hải (Đảo lớn) và An Bình (đảo Bé).
Nằm ở vị trí tiền tiêu cuả Tổ quốc nên đảo Lý Sơn có vị trí rất quan trọng
trong việc bảo vệ chủ quyền an ninh biển đảo, giữ vững toàn v n lãnh thổ đất liền.
Đảo Lớn hay còn gọi là Cù Lao Ré1 với 5 hòn núi: Thới Lới, Hòn Tai, Hòn
Vung, Giếng Tiền và Hòn Sỏi... đây là những ngọn nủi lửa hoạt động trong thời kỳ
tạo sơn đã hình thành nên đảo Lý Sơn và để lại những dấu tích nham thạch, góp
phần tạo nên những hang động và cảnh quan thiên nhiên kỳ thú hiện nay nhƣ Chùa

Hang, Chùa Đục, hang Cò, hang Câu, cổng Tò Vò, Mù Cu.. Xƣa ở Lý Sơn có nhiều
rừng nguyên sinh nhƣ rừng cây gạo, rừng Bà Bút,... và nhiều dòng suối nhƣ suối
Chình, suối Ốc.
Đảo Bé, còn gọi là Cù Lao Bờ Bãi, trƣớc đây là thôn Bắc thuộc xã An Vĩnh,
nay là xã An Bình, nằm cách đảo lớn khoảng 5km về phía Tây Bắc.
Phía Đông Nam đảo lớn có hòn Mù Cu, cách bờ chừng 500m, nơi đây chỉ là
những bãi đá nhô cao, và chỉ có duy nhất loài cây Mù cu sinh sống. Hòn Mù Cu nhỏ
h p, không có ngƣời ở. Hiện nay, tại đây ngƣời ta lợi dụng sự che chắn sóng biển từ
1

Theo cách lý giải dân gian là Cù lao có nhiều cây Ré. Một loại cây họ gừng, mọc hoang.

4


phía Đông Nam của hòn Mù Cu để xây dựng vũng neo đậu tàu thuyền của ngƣ dân
trên đảo.
Huyện đảo Lý Sơn có đƣợc diện mạo nhƣ ngày này là kết quả của quá trình
đấu tranh lâu dài, không mệt mỏi của con ngƣời khắc phục những khó khăn, tận
dụng những nguồn lợi sẵn có từ thiên nhiên, khai thác, cải tạo để phục vụ cho cuộc
sống của mình.
Địa hình ở khu vực phía Nam Đảo Lớn cao hơn so với mực nƣớc biển 2030m, độ dốc nhỏ hơn 8 độ, bậc thềm chân núi có độ dốc từ 8-15, đƣợc ngƣời dân
khai thác để trồng hành, tỏi.
Hệ thống năm ngọn núi trải dài bờ biển phía Bắc tựa nhƣ bức tƣờng thành
chắn gió mùa Đông Bắc vào mùa đông cho ngƣời dân sinh sống ở phía Nam Đảo.
Huyện Lý Sơn chịu tác động của gió mùa nên có hai mùa rõ rệt là mùa mƣa
và mùa khô, mùa mƣa từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, mùa mƣa kéo dài từ tháng 3
đến tháng 8. Vào mùa mƣa, biển động, tàu khó ra khơi, ảnh hƣởng đến nghề đi biển
của ngƣời dân.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện đảo là 800ha trong đó đất nông nghiệp

chiếm hơn 400ha. Đất lâm nghiệp chiếm 182ha, đất chƣa sử dụng là 218ha… Đất
nông nghiệp trên đảo đƣợc canh tác theo hai dạng: cây hoa màu là 383ha chủ yếu
canh tác hành, tỏi, lạc, đậu, bắp… và 17 ha trồng cây ăn quả. Đất là tài nguyên quan
trọng ở Lý Sơn, thu hút khoảng 62% lao động, nuôi sống gần 50% dân số trên đảo.
Bãi cát ven biển có diện tích khoảng 42ha và diện tích này càng ngày bị thu
h p do nhu cầu khai thác cát ven biển để trồng hành, tỏi... diện tích đảo cũng vì thế
mà bị thu h p dần. Hơn nữa diện tích đất dành cho nghĩa địa ở Lý Sơn cũng quá
nhiều, phân bố chƣa thật hợp lý.
Ở thời tiền sơ sử có nhiều khu rừng nguyên sinh và các dòng suối cổ nay đã
cạn, đó là suối Chính và suối Ốc. Suối Chình thuộc xã An Hải bắt nguồn từ dòng
cây trong lòng núi Thới Lới, chảy về phía Nam Đảo, Suối Ốc thuộc xã An Vĩnh, bắt
nguồn từ núi Hòn Sỏi và Giếng Tiền chảy về phía Nam Đảo. Đây là hai dòng suối
cổ có nguồn nƣớc ngọt nên cƣ dân thời tiền và sơ sử trên đảo Lý Sơn đã sinh sống
dọc hai bên bờ suối và để lại nhiều dấu tích văn hóa. Trên đảo có trữ lƣợng nƣớc

5


ngầm tƣơng đối phong phú, đảm bảo sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp cho ngƣời
dân.
Đảo Lý Sơn đƣợc bao bọc bở biển cả nên việc khai thác và sử dụng các
nguồn lợi từ biển cả là một ƣu thế, thuận lợi trong phát triển kinh tế của huyện.
Trong sự kiến tạo địa chất, bậc thềm chân đảo chìm sâu dƣới long đất tạo nên nhiều
hang hốc, rạng đá ngầm, đồng thời còn có bãi san hô trải dài ở phía Bắc, và đông
đảo các loài thủy tộc sinh sống. Lý Sơn còn là cửa ngõ gần nhất để đi ra Hoàng Sa
đánh bắt, cho nên nghề đi biển là thế mạnh của ngƣời dân nơi đây.
Với vị thế địa lý hải đảo ven bờ, nằm trên con đƣờng kinh tế trọng điểm
miền Trung. Cách khu công nghiệp Dung Quất 25 hải lý, Lý Sơn có nhiều ƣu thế để
phát triển kinh tế và du lich. Trong chƣơng trình phát triển của tỉnh Quảng Ngãi thì
Lý Sơn đƣợc coi là trung tâm nghề cá của tỉnh. Huyện đảo Lý Sơn còn là vị trí quan

trọng trong lĩnh vực quốc phòng, đặc biệt là đối với việc bảo vệ chủ quyền lãnh hải
của quốc gia. Từ Lý Sơn có thể giám sát, khống chế cả vùng biển miền Trung. Đặc
biệt Lý Sơn còn là chốt tiền tiêu, nằm án ngữ trên con đƣờng vƣơn ra biển Đông từ
cảng Dung Quất và khu kinh tế mở Chu Lai.
1.1.2. Lịch sử đảo Lý Sơn
Từ kết quả khai quật khảo cổ tại các di chỉ Xóm Ốc và suối Chình – nơi có
hai dòng suối cổ đã cạn trên đảo và những hiện vật - công cụ lao động bằng đá do
giáo sƣ Diệp Đình Hoa phát hiện ở khu vực núi Giếng Tiền, xã An cho thấy trên
đảo Lý Sơn đã có ngƣời sinh sống, cách ngày này chừng 2500 – 3000 năm (tƣơng
ứng với văn hóa Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh). Dấu tích văn hóa Champa sớm và
Champa phát triển (từ thế kỷ I đến thế kỷ XIII,XIV) cũng khá dày trên đảo. Cƣ dân
thuộc văn hóa Sa Huỳnh sống quần cƣ dọc theo hai bên bở suối Chình, kinh tế chủ
yếu là khai thác biển, món ăn chủ yếu là sò và cá. Họ để lại trong khu cƣ trú một
lớp vỏ ốc dày 1,5m. Họ cũng làm nông nghiệp. Bộ công cụ canh tác nông nghiệp và
chế biến nông sản nhƣ cuốc đá, rìu đá, bàn nghiền đã chứng mình điều đó.
Kế tục văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa Champa phát triển từ những thế kỷ đầu
Công nguyên. Vết tích văn hóa của họ đƣợc để lại qua dấu tích văn hóa chứa trong
tầng văn hóa lớp trên của di chỉ Xóm Ốc và suối Chình. Đó là những hạt cƣờm bằng
thủy tinh bầu dục d t, những đồ trang sức bằng đồng, bình hình trứng đáy nhọn và

6


nhiều đồ gốm Chăm thô và mịn khác. Hiện vật Champa ở đây rất giống với những
hiện vật tìm thấy trong các tầng văn hóa Trà Kiệu ( Duy Xuyên, Quảng Nam) từ
sớm đến muộn. Những di tích khác mang dấu ấn Champa còn có miếu bà Lồi, chùa
Hang, dinh Bà Trời, giếng Vuông. Cƣ dân Champa sống bằng kinh tế khai thác
biển, buôn bán biển và trồng rau củ, hoa màu…
Cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, những cƣ dân Việt sinh sống ở ven biển
Sa Kỳ là làng An Hải (nay thuộc xã Bình Châu – huyện Bình Sơn) và làng An Vĩnh

(nay thuộc xã Tịnh Kỳ huyện Sơn Tịnh) đã di cƣ ra đảo sinh sống. Theo ghi chép
của một số dòng họ trên đảo thì ngƣời Việt ra đảo đầu tiên khoảng những năm 1604
-1610, đã có 15 ngƣời từ đất liền ra đảo và phân chia ranh giới khai thác, cứ trú và
hình thành nên hai làng An Hải và An Vĩnh nhƣ ngày nay. Ở làng An Vĩnh có 7 vị
tiên hiền, gồm các dòng họ: Phạn Quang, Phạm Văn, Võ Văn, Võ Xuân, Lê, Trần,
Nguyễn từ làng An Vĩnh thuộc xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh ra khai phá vùng đất
phía tây của Đảo và lập ra phƣờng An Vĩnh, nay là xã An Vĩnh. Làng An Hải có 8
vị tiên hiền, gồm các dòng họ: Nguyễn, Dƣơng, Trƣơng, Trần, Võ, Nguyễn Đình,
Nguyễn Văn, Lê từ làng An Hải thuộc xã Bình Châu ra khai phá phần phía Đông và
phía Nam đảo lập ra làng An Hải, nay là xã An Hải (sau này họ Trần ở làng An
Vĩnh và họ Lê ở làng An Hải do vi phạm luật tục nên bị tƣớc danh hiệu tiên hiền.
Tuy rời khỏi quê hƣơng bản quán từ đất liền ra đảo để khai phá, nhƣng bƣớc đầu
những cƣ dân đầu tiên ra đảo vẫn chƣa tách hẳn nghĩa vụ của mình với quê hƣơng,
bản quán. Vùng đất mà họ khai phá và định cƣ cũng chỉ là một phần thuộc quê gốc
An Hải và An Vĩnh trong đất liền, Vì vậy mà dù sống ngoài đảo nhƣng phải trở về
đất liền khi có tín hiệu gọi về. Tƣơng truyền khi tiếng trống từ đất liền vọng ra
ngoài đảo, các vị tiên hiền phải trở về để thực hiện nghĩa vụ của mình. Mãi đến năm
1804, các làng ngoài đảo Lý Sơn mới tách khỏi An Vĩnh và An Hải trong đất liền
và đƣợc ngày 11 tháng 2 năm 1804 là ngày thành lập những đơn vị hành chính độc
lập.
Từ buổi đầu khẩn hoang, lập làng, ngƣời Việt ở Lý Sơn đã gặp không ít khó
khăn từ thiên nhiên cũng nhƣ sự cƣớp phá của giặc biển hay còn gọi là giặc Tàu Ô.2
Đến nay, trên đảo còn có nhiều di tích còn lƣu lại đã phản ánh sự đấu tranh kiên
2

Giặc Tàu Ô: Ngƣời Việt thƣờng gọi giặc Tàu Ô để chỉ những toán cướp biển từ Trung Quốc sang.

7



cƣờng của nhân dân Lý Sơn với giặc Tàu Ô đó là chùa Hang,dinh Bà Roi, hang Kẻ
Cƣớp.. thƣờng để ngừa giặc tàu Ô, mỗi gia đình đều có một hầm bí mật, giấu trên
núi, khi giặc Tàu Ô tới, không cƣớp đƣợc gì, ngoài ra những ra đình khá giả cũng đã
lập nên những mái nhà gồm hai, ba lớp, cửa bàn khoa cùng với rầm thƣợng, rầm hạ
để cất giấu của cải.3
Trong lịch sử, đảo Lý Sơn có tên gọi là Cù Lao Ré. Chữ Cù Lao đƣợc việt
hóa từ chữ Pulau của ngôn ngữ Malayo-Polynesien, có nghĩa là đảo, chữ Ré là tên
dân gian, tƣơng truyền xƣa đảo có nhiều cây ré nên dân gian gọi là Cù Lao Ré. Tài
liệu xƣa nhất về Lý Sơn là toàn lộ đồ thƣ tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư ” (1630)
của Đỗ Bá đã gọi Cù Lao Ré là Du Trƣờng Sơn. Đến năm 1831, trong An Nam Đại
Quốc Họa Đồ giáo sĩ L.Tabord đã gọi Lý Sơn là Poulo Canton.
Về mặt hành chính, đảo Lý Sơn gọi là Cù Lao Ré, gồm hai phƣờng An Vĩnh
và An Hải. Đời vua Gia Long 1808. Lý Sơn đặt thành tổng gọi là tổng Lý Sơn. Đời
vua Đồng Khánh, hai phƣờng An Hải và An Vĩnh thuộc tổng Bình Hà huyện Bình
Sơn về sau đặt lại là tổng Lý Sơn trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi có một viên Bang tá
cai trị. Phƣờng An Hải đổi thành xã Hải Yến, phƣờng An Vĩnh đổi thành xã Vĩnh
Long.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đảo Lý Sơn đổi thành tổng Trần Thành
gồm hai xã Dƣơng Xạ (Hải Yến cũ) và xã Vĩnh Long. Năm 1946 tổng Trấn Thành
đổi thành xã Lý Sơn trực thuộc huyện Bình Sơn. Năm 1951, quân Pháp đánh chiếm
đảo Lý Sơn và thành lập một khu hành chính thuộc thành phố Đà Nẵng. Từ năm
1945 đến 1975, chính quyền Sài Gòn chia Lý Sơn thành hai xã Bình Vĩnh và Bình
Yến thuộc huyện Bình Sơn. Sau ngày giải phóng hai xã vẫn giữ nguyên tên gọi cũ,
ngày 01.01.1993 huyện Lý Sơn đƣợc thành lập gồm hai xã Lý Hải và Lý Vĩnh. Đến
năm 2003 tên các xã của huyện đƣợc đổi thành An Vĩnh và An Hải, xã An Hải gồm
các thôn: thôn Tây, thôn Đông, thôn Bắc (đảo Bé) sau này do đặc thù của một hòn
đảo tách biệt với đảo lớn và có vị trí quan trọng nên thôn Bắc đƣợc tách ra thành
đơn vị hành chính cấp xã, gọi là xã An Bình.
Do nằm ở vị trí án ngữ cửa biển Sa Kỳ - Quảng Ngãi nên đảo Lý Sơn có tầm
quan trọng về quân sự. Từ giữa thế kỷ XVII Bắc quân đô đốc Bùi Tá Hán trên

đƣờng đem quân nhà Lê Trung Hƣng vào đánh d p nhà Mạc, lấy lại vùng thừa
3 Dẫn theo cuốn Văn hóa truyền thống đảo Lý Sơn”, tr.24.

8


tuyên Quảng Nam đã dừng chân tại đảo Lý Sơn, sau này nhà Nguyễn đã xây dựng ở
đây các đồn phòng thủ quân sự để bảo vệ vùng biển Quảng Ngãi. Đặc biệt, do nằm
ở vị trí trên con đƣờng buôn bán gốm sứ, tơ lụa và nhiều mặt hàng khác từ Trung
Quốc qua Đông Nam Á, Nam Á và xa hơn nữa, nên Lý Sơn từ xa xƣa đã có sự giao
lƣu thƣơng mại – văn hóa với các khu vực lân cận.
1.1.3.Đặc điểm kinh tế xã hội
1.1.3.1. Cơ cấu kinh tế
Lý Sơn đƣợc xem nhƣ là một làng nông – ngƣ kết hợp. Ngƣời dân vừa làm
nông, vừa đánh bắt hải sản. Mặc dù hòn đảo nằm ở giữa biển khơi, nhƣng đại bộ
phận ngƣời dân Lý Sơn từ khi ra lập làng đến nay vẫn sống bằng nghề trồng hành,
tỏi, bắp, đậu trên những bãi đất h p dƣới chân năm ngọn núi: Giếng Tiền, Hòn
Vung, Hòn Tai, Hòn Sỏi, Thới Lới …Một số hộ dân trên đảo làm nghề đi biển và
đánh bắt gần bờ, gắn với ngề lƣới cá chuồn, đánh cá sơn,cá trích và câu mực là
chính. Nguồn hải sản đánh bắt đƣợc chủ yếu cung cấp cho nhu cầu của nhân dân
trên đảo. Nhờ kinh nghiệm đi biển đƣợc tích lũy qua nhiều năm cho nên vào thời
Nguyễn ngƣ dân ở An Hải, An Vĩnh đã đƣợc triều đình phong kiến tuyển mộ đi
khai thác sản vật, đo đạc, cắm mốc thủy trình ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng
Sa. Ngày nay, do điều kiện kinh tế phát triển, ngƣời dân đã đầu tƣ đóng mới nhiều
phƣơng tiện đánh bắt hiện đại, có khả năng đánh bắt xa bờ ở ngƣ trƣờng các nƣớc, ở
vùng biển Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Kinh tế biển đang ngày càng phát triển mạnh ở
Lý Sơn và đang trở thành kinh tế mũi nhọn trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của
tỉnh Quảng Ngãi.
Ở Lý Sơn do đất đai không trồng đƣợc lúa, chỉ trồng đƣợc bắp, đậu ván và một
số loại khoai mì, đậu phộng, cây gai. Từ năm 1960, cây hành, cây tỏi trở thành cây

trồng chủ lực và là nguồn thu chủ yếu của ngƣời nông dân trên đảo.
Do đất đai phù hợp với điều kiện sinh trƣởng của hành, tỏi nên chất lƣợng
hành, tỏi ở Lý Sơn rất tốt. Mặc dù cây hành, cây tỏi mang lại hiệu quả kinh tế cao,
trở thành đặc sản của Lý Sơn nhƣng do quy trình cải tạo đất đòi hỏi phải có đất cát
vôi trắng để cho năng suất cao, nhƣng nguồn cát này hầu nhƣ đã cạn kiệt nên sản
xuất nông nghiệp ở Lý Sơn gặp rất nhiều khó khắn và phát triển không bền vững.

9


Chăn nuôi: chủ yếu là bò, dê, lợn, gà, vịt nhƣng chƣa hình thành trang trại
chăn nuôi tập trung quy mô nhƣ các huyện khác mà chủ yếu là chăn nuôi theo hình
thức hộ gia đình. Số lƣợng gia súc, gia cầm năm 2010 của huyện là 6.000 con.
Thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện quyết định thu nhập của hơn
50% cƣ dân của huyện, sản lƣợng khai thác chiếm gần 1/3 tổng sản lƣợng khai thác
của toàn tỉnh nhƣng chủ yếu tập trung lĩnh vực khai thác thủy sản nƣớc mặn với các
hình thức nhƣ: lặn, câu, lƣới cƣớc, lƣới trủ, lƣới ru, vây ngày, vây đêm, rút chì,
chong đèn… mang lại hiệu quả kinh tế cao. Sản lƣợng đánh bắt hải sản năm 2009
đạt 24.938 tấn, tăng gấp gần 5 lần so với năm 1993. Quý 1 năm 2013, Lý Sơn giá trị
sản xuất ngành thủy sản đạt 52.486 triệu đồng. Hiện nay huyện có 419 chiếc tàu
thuyền, tổng công suất 43,372 CV, tổng số lao động trực tiếp trên biển là 3.003
ngƣời (trong đó có 158 tàu đánh bắt xa bờ, khai thác chủ yếu trên vùng biển Hoàng
Sa và Trƣờng Sa). Theo ông Võ Xuân Huyện, Bí thƣ Huyện ủy Lý Sơn, từ nay đến
năm 2015, huyện Lý Sơn sẽ tập trung phát triển kinh tế biển. Cụ thể vận động nhân
dân cải hoán, đóng mới tàu thuyền, vƣơn ra biển đánh bắt hải sản dài ngày. Với mục
tiêu vừa sản xuất, vừa tham gia bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển. Ngoài kinh tế
ngƣ nghiệp và nông nghiệp, ngƣời dân trên đảo còn làm nghề chế biến hải sản, dịch
vụ thƣơng nghiệp. Xƣa ở Lý Sơn do nhu cầu lƣơng thực, thực phẩm và các nhu yếu
phẩm khác phục vụ cho đời sống của nhân dân trên đảo nên đã xuất hiện giao
thƣơng, buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa Lý Sơn với đất liền qua phƣơng tiện ghe

bầu, ngƣời Lý Sơn rất giỏi nghề đi biển và kỹ thuật đóng ghe bầu. Hiện nay, dịch vụ
mua bán trên đảo đang phát triển khá mạnh, chủ yếu là các dịch vụ nghề cá, mua
bán ngƣ cụ, và các dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân.
Tỷ trọng các ngành kinh tế chủ yếu của huyện năm 2009 là ngành nông –
lâm – ngƣ nghiệp chiếm 5,17%; thuơng mại dịch vụ chiếm 40,6%; công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp chiếm 7,7%. Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế của huyện
chuyển dịch theo hƣớng tăng tỉ trọng ngành thủy sản, tỷ trọng ngành dịch vụ và du
lịch, giảm tỷ trọng của nông nghiệp và công nghiệp.
Nhƣ vậy, ngƣ nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế của Lý
Sơn. Trong tƣơng lại không xa, hy vọng với ƣu thế biển và kinh nghiệm đánh bắt
thủy sản của ngƣ dân trên đảo và sự đầu tƣ cơ sở hạ tầng phục vụ nghề cá của Nhà

10


nƣớc nhƣ xây dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và dịch vụ nghề cá, cho vay
vốn ƣu đãi để ngƣ dân đầu tƣ mua sắm ngƣ lƣới cụ và đóng mới tàu thuyền…Kinh
tế ngƣ nghiệp ở Lý Sơn sẽ phát triển mạnh và là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến
lƣợc phát triển kinh tế - xã hội ở Lý Sơn. Bên cạnh đó, với di sản văn hóa truyền
thống đa dạng, phong phú Lý Sơn sẽ có lợi thế để phát triển du lịch.
1.1.3.2.Nguồn lao động
Dân số toàn huyện năm 2008 có 20.344 ngƣời. Toàn bộ dân số của huyện
sống trong khu vực nông thôn. Mật độ dân số trung bình của huyện là 2.042
ngƣời/km2. Năm 2011 toàn huyện 4.746 hộ gia đình (quy mô trung bình hộ là 4,3
ngƣời/hộ), trong đó có 3.748 hộ nông - lâm - ngƣ nghiệp, chiếm 80%. Trong giai
đoạn 2001-2005 dân số trung bình tăng 1.251 nguời với tốc độ tăng bình quân năm
là 1,5%.
Theo số liệu thống kê của huyện, năm 2008 lực lƣợng lao động của huyện là
10.944 nguời, chiếm 53,79% tổng dân số toàn huyện. Trong đó số ngƣời đang làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 9631 nguời bằng 98,7% số ngƣời trong độ

tuổi lao động có khả năng lao động.
Nhìn chung cơ cấu lao động bắt đầu có sự chuyển dịch lao động ngành nông
– lâm – ngƣ nghiệp chiếm chủ yếu và giảm từ 85,6% năm 2000 xuống 80,06% năm
2005, đến năm 2008 còn 77,96%, dự báo đến năm 2010 giảm xuống còn 76,46%.
Lao động trong ngành công nghiệp – xây dựng chiếm một phần rất nhỏ và biến
động không đều: năm 2000 chiếm 9,2%, đến năm 2005 giảm xuống còn 6,75% và
tăng lên 7,3% vào năm 2008, dự báo đến năm 2010 chiếm khoảng 8,82% tổng số
lao động trong các ngành kinh tế quốc dân của toàn huyện. Lao động dịch vụ tăng
tƣơng đối nhanh từ 5,18% năm 2000 lên 13,19% năm 2005 và đạt 14,69% năm
2008, dự báo đến năm 2010 lao động trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 14,71% tổng số
trong các ngành kinh tế quốc dân của huyện.
Đây là một yếu tố thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
huyện bởi vấn đề lao động tại chỗ cơ bản đƣợc giải quyết. Bình quân hàng năm
huyện giải quyết 200 việc làm mới cho lao động và giải quyết việc làm ổn định cho
1729 lao động. Tuy nhiên, chất lƣợng lao động cũng là vấn đề lớn đặt ra với huyện
khi hiện tại có 87,3% số lao động là lao động phổ thông chƣa qua đào tạo và chủ

11


yếu lao động hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Số ngƣời đi biển ngày
càng nhiều.
1.1.4.Con ngƣời Lý Sơn
Nguồn gốc của cƣ dân ngày nay trên đảo Lý Sơn là những ngƣời nông dân
vùng Thanh – Nghệ - Tĩnh di cƣ vào Quảng Ngãi và ra đảo Lý Sơn từ những năm
đầu thế kỷ XVII. Bƣớc đầu tạo lập cuộc sống trên đảo với nhiều khó khăn, bất chắc
và nguy hiểm, sống xa quê hƣơng, xa bản quán, và hầu nhƣ rất ít giao lƣu với các
địa phƣơng khác, đời sống kinh tế còn mang nhiều tính tự cấp, tự túc. Nhƣng trải
qua trên 400 năm khai phá và xây dựng, bao thế hệ ngƣời Lý Sơn đã biết gìn giữ,
vun đắp, thành quả của cha ông để xây dựng nên một Lý Sơn giàu truyền thống lịch

sử và văn hóa.
Con ngƣời Lý Sơn cần cù và sáng tạo trong lao động, sống trong môi trƣờng
biển đã biết đóng ghe bầu để đi biển và giao lƣu thƣơng mại với các địa phƣơng
khác trong đất liền, biết trồng gai đan lƣới để đánh bắt hải sản phục vụ cho nhu càu
đời sống và trao đổi , buôn bán với các nơi khác. Đặc biệt, ngƣời Lý Sơn anh dũng,
can trƣờng, bao thế hệ ngƣời Lý Sơn đã sẵn sang chấp nhận hy sinh vì lệnh vua mà
ra tận Hoàng Sa, Trƣờng Sa. Trong sinh hoạt văn hóa, ngƣời Lý Sơn đã sáng tạo và
lƣu giữ nhiều giá trị văn hóa tín ngƣỡng đặc sắc, thể hiện sự tài hoa trong xây dựng
và chạm khắc tinh xảo ở các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngƣỡng, tiếp thu và
biến đổi các yếu tố văn hóa bản địa của ngƣời Chăm trên cơ sở văn hóa của ngƣời
Việt để hình thành nên những giá trị văn hóa mới, phục vụ đời sống văn hóa tâm
linh của cộng đồng một cách cởi mở và hội nhập.
Từ sự khai phá đầu tiên của các vị tiên hiền, các tộc học sống quần tụ với
nhau trong từng khu vực theo sự phân chia đất đai ban đầu khai phá và hình thành
nên xóm làng : xóm họ Đặng, xóm họ Nguyễn, xóm họ Phạm…sau này có một số
tộc họ khác tiếp tục ra định cƣ trên đảo, hình thành nên xóm làng và có mối quan hệ
khá mật thiết, cùng nhau có trách nhiệm lo chung việc lễ thờ tiên hiền, và thần linh
tại đình làng và các nơi thờ tự khác trong làng, không có hiện tƣợng tranh chấp ngôi
thứ hoặc địa vị trong làng xã của các tộc họ lẫn nhau. Mỗi tộc học hiện nay đều có
nhà thờ tộc họ riêng, do ông trƣởng tộc giữ gìn và lo tổ chức cúng tế. Nét đặc biệt
của các tộc họ ở Lý Sơn là dù trải qua nhiều đời nhƣng ngƣời trong tộc vẫn xem nhau

12


nhƣ ruột thịt, trai gái cùng họ không đƣợc lấy nhau và hàng năm đều về dự lễ giỗ họ,
gọi là cúng việc lề”. Chính qua hình thức sinh hoạt cúng việc lề” con cháu có dịp
gặp nhau, nhận biết bà con trong họ, giáo dục con cháu đoàn kết, yêu thƣơng, giữ gìn
truyền thống tộc họ. Đây cũng thể hiện truyền thống uống nƣớc nhớ nguồn, tƣởng
nhớ tri ân những ngƣời đã khuất trong gia đình, tộc họ.

1.2.Lý Sơn - Quê hƣơng của Hải đội Hoàng Sa
Khác với các hòn đảo ven bờ khác của Việt Nam, ngay từ những ngày đầu
mới khai phá và thành lập đảo đã đƣợc các chúa Nguyễn tin tƣởng giao cho trọng
trách quan trọng là vƣợt biển ra Hoàng Sa để khai thác sản vật, đo đạc và cắm mốc
thủy trình, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo này. Lịch sử Lý Sơn gắn
liền với quá trình bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên đảo Hoàng Sa. Theo nguồn
thƣ tịch cổ nhƣ Phủ biên tạp lục”, Đại Nam thực lục tiền biên”, Đại Nam nhất
thống chí” đều có ghi chép về đội Hoàng Sa. Phủ biên tạp lục” của Lê Qúy Đôn
năm 1776 đã ghi chép cụ thể về việc chúa Nguyễn phiên đặt những tráng dân ở Lý
Sơn để thành lập đội Hoàng Sa đi khai thác sản vật:
- “Ở ngoài Cù Lao Ré có đảo Đại Hoàng Sa,ngày trước nơi đây thường sản
xuất nhiều hải vật đi bán ở các nơi, nên Nhà nước có thiết lập một đội Hoàng Sa để
thu nhận cái hải vật, người ta phải đi ba ngày, ba đêm mới tới được đảo”
- Ngày trước họ Nguyễn có thể đi lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất lấy người
xã An Vĩnh sung vào, hàng năm luân phiên, lấy tháng giêng nhận sai dịch ra đó,
mỗi người trong đội Hoàng Sa được cấp phát sáu tháng lương, học chèo 5 chiếc
thuyền câu nhỏ ra ngoài biển, ba ngày, ba đêm mới đến Hoàng Sa, ở lại tha hồ bắt
chim, bắt cá làm đồ ăn. Họ lượm được những vật trôi dạt như kiếm, hoa bạc, tiền
bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen,ngà voi, sáp vàng, đồ sứ, hải sâm, các
loại ốc đẹp. Đến kỳ tháng 8, thuyền trở về vào cửa Yên Môn (cửa Thuận An) rồi tới
thành Phú Xuân trình nộp các vật hạng đã lượm nhặt được, người ta cân, định dạng
những con ốc đẹp rồi mới cho đội này bán riêng những con ốc đẹp, hải sâm, đồi
mồi cũng nhiều vật biển khác, sau đó lãnh văn bằng trở về. Những vật lượm được
ngoài biển có khi nhiều, có khi ít, không nhất định, cũng có lần họ ra đi, trở về
không…”

13


Sách Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú soạn năm 1821,

phần địa chí biên soạn về phủ Tƣ Nghĩa (Quảng Ngãi), đảo Cù Lao Ré và Hoàng Sa
nhƣ sau: Phủ Tư Nghĩa ở giữa đạo Quảng Nam, ở thượng du núi liên tiếp đăng
ngang, phía dưới đến biển lớn, chính giữa địa thế rộng rãi, thời đại Thái Vương
chuyên chế đổi làm Quảng Nghĩa ba huyện, ở đây vật lực phong phú, lúa gạo không
kể siết, vàng bạc, cây gỗ, châu báu, trầm hương, tốc hương đều rất tốt, voi ngựa
chăn nuôi cũng rất nhiều. Lại có đảo lớn, đảo nhỏ ở ngoài biển, cảnh vật xinh tốt,
báu kỳ, vật là phần nhiều ở nơi này vậy (thôn An Vĩnh, thuộc huyện Bình
Dương,(tức huyện Bình Sơn) ở ngoài biển gần phía Đông Bắc, ngoài biển có hòn
đảo lớn, nhiều núi linh tinh hơn 130 ngọn, từ trong núi đi ra biển ước đẫy một ngày
đường hoặc một vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt, giữa hòn đảo có bãi
Hoàng Sa, dài độ 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy, bên đảo có
vô số yến sào, bẫy chim cả hàng ngàn, hàng vạn, thấy người đi tới đậu xung quanh,
bên bãi có rất nhiều vật lạ, về ốc vằn có thứ gọi là ốc tai voi, lớn bằng tấm chiếu,
trong bụng có hạt ngọc lớn bằng ngón tay,vỏ nó có thể đẽo thành bia, lại có thể
hầm thành vôi để tô trét, lại có thứ gọi là ốc xá cừ, dùng để trang sức đồ vật, lại có
thứ gọi là ốc hương, có thứ đồi mồi rất lớn gọi là hải ba, vỏ mỏng, có thể trang sức
khí mảnh như ngón tay cái. Có thứ gọi là hải sâm, tục gọi là con đồn đột, bò chơi
trên bãi cát, người ta bắt lấy dung vôi chà xát qua, bỏ ruột, phơi khô, khi ăn lấy
nước cua đồng mà ngâm, nấu chung với tôm và thịt heo cũng ngon. Nhiều khi
thuyền buồm gặp gió nương đậu tại đảo này, tiền Vương lịch triều (các chúa
Nguyễn) đặt đội Hoàng Sa 70 suất lấy người thôn An Vĩnh, luân phiên xung vào,lội
trên mặt nước để lấy, mỗi năm cứ đến tháng ba, nhận chỉ thị đi làm việc, đem theo
lương thực 6 tháng, đi năm chiếc thuyền nhỏ , ra khơi ba ngày ba đêm mới đến đảo
này. Ở đó mặc tình tìm thấy, bắt lấy cá mà ăn, lấy được rất nhiều đồ quý báu của
thuyền chở,cùng lượm lấy khá nhiều hải vật, qua tháng 8 trở về,vào cửa Eo( Yên
Môn) tới thành Phú Xuân.
Sách Đại Nam thực lục tiền biên” khắc in năm Thiệu trị thứ 4 (1844) cũng có
nhắc về hải đội Hoàng Sa nhƣ sau: Tháng 7, mùa thu, năm giáp tuất, (1754) dân đội
Hoàng Sa gặp gió to, giạt vào hải phận Quỳnh Châu thuộc nhà Thanh, tổng đốc
Thanh cấp cho Đầy đủ rồi đưa về. chúa sai viết thư gửi qua (ngoài biển gửi xã An


14


Vĩnh có hơn 130 cồn cát, cách xa hơn một ngày đường hoặc vài trống canh, kéo dài
không biết mấy ngàn dặm… tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa Châu, trên có giếng nước
ngọt có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, giải , ba ba. Hồi quốc sơ (đầu triều Nguyễn) đặt đội
Hoàng Sa gồm 70 người, lấy người dân xã An Vĩnh xung vào, hàng năm cứ tháng ba
cưỡi thuyền ra đảo,ba ngày ba đêm mới tới nơi, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở
nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân thôn Tư Chình, Bình Cố hoắc xã Cảnh Dương xung
vào được lệnh cưỡi thuyền nhỏ ra các đảo Côn Lôn ở Bắc Hải thu lượm hải vật, cũng
do đội Hoàng Sa kiêm quản luôn.”
Đại Nam thực lục chính biên cũng ghi chép về đội Hoàng Sa và Phạm Quang
Ảnh ngƣời làng An Vĩnh Cù Lao Ré - Lý Sơn nhƣ sau:“Tháng Giêng, năm Ất Hợi
1815, sai bọn Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa xem xét đo
đạc..”
Tiếp theo vào năm sau: Năm Bính Tí , niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816) …
vua sai lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa đi đo đạc thủy trình…”
Tháng 6, mùa hạ , năm Ất Mùi, Minh Mạng thứ 16( 1835) dựng “thần tứ “
ở Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi, Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi”
Việt sử cương giám khảo lược” của Nguyễn Thông có đoạn viết về đội
Hoàng Sa nhƣ sau: “…Vạn Lý Trường Sa: từ đảo Lý Sơn tục gọi là Ngoại Lao,
người Trung Quốc gọi là Ngoại La) (tức Cù Lao Ré) đi thuyền về phía Đông, ba
ngày đêm thì đến, Nước Việt Nam ta ở hai buổi quốc sơ thường kén những người
đinh tráng ở hai bộ An Hải và An Vĩnh mà đặt đội Hoàng Sa để đi kiếm lượm những
sản vật ngoài biển. Hàng năm cứ tháng hai đi tháng tám về, bãi cát dăng từ phía
Đông mà trải sang phía Nam chỗ nổi lên, chỗ chìm xuống, không biết mấy nghìn
dặm, ở trong có vụng sâu, thuyền có thể đậu được. trên bãi có nước ngọt, chim biển
nhiều giống không biết tên. Có một cái miếu cổ lợp ngói, biển ngạch khắc mấy chữ
“vạn lý Ba Bình” (muôn dặm sóng êm) không biết từ đời nào…”

Đội Hoàng Sa đƣợc thành lập dƣới thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn từ Gia
Long đến Tự Đức. Đội gồm 70 suất lấy trai tráng xã An Vĩnh, luân phiên nhận
nhiệm vụ ra Hoàng Sa 6 tháng để khai thác sản vật và đo đạc thủy trình. Đội Bắc
Hải trực thuộc sự quản lý của đội Hoàng Sa, giúp đội Hoàng Sa kiếm soát các đảo
phía Nam trong đó có Trƣờng Sa, Côn Lôn, Vũng Hà Tiên. Hoạt động của đội

15


Hoàng Sa đƣợc các tài liệu nhà Nguyễn ghi chép, xác nhận lại một cách liên tục.
Theo Việt sử thông giám khảo lƣợc của Nguyễn Thông thì đến tận cuối đời Tự Đức
(1876) đội Hoàng Sa mới bị bãi bỏ vì Việt Nam bị Pháp xâm lƣợc, hải quân Pháp
uy hiếp mặt biển Việt Nam, khiến các hoạt động của hải quân Việt Nam bị đình trệ.
Đội Hoàng Sa cũng hoạt động tới 3 thế kỷ. Theo ngƣời dân Lý Sơn thì 70 suất đinh
đi Hoàng Sa đều đƣợc chia đều chủ yếu cho các suất định các tộc họ ở làng An
Vĩnh và một số ở An Hải trên đảo Lý Sơn.
Triều Nguyễn tuyển lính cho đội Hoàng Sa theo cách khoán cho mỗi dòng họ
một số lƣợng ngƣời đi lính tƣơng ứng theo quy tắc để ngƣời tộc trƣởng ở nhà lo
việc tế tự còn các con thứ trong gia đình và dòng họ phải đi lính Hoàng Sa. Mỗi
năm một lần luân phiên nhau, những ngƣời đi lính Hoàng Sa đƣợc triều đình ƣu đãi
một số khoản nhƣ miễn tiền sƣu, tiền qua đò, qua đồn tuần, đến thời Gia Long còn
đƣợc miễn thuế nông nghiệp.
Ngƣời đứng đầu chỉ huy đội Hoàng Sa đƣợc gọi là cai đội. Ở Lý Sơn có hai
vị cai đội nổi tiếng là cai đội Võ Văn Khiết hiện còn miếu thời ở xã Anh Vĩnh và
cai đội Phạm Quang Ảnh. Dƣới thời Gia Long, cai đội Phạm Quang Ảnh lập đƣợc
nhiều công trạng, nên khi mất đƣợc sắc phong Thƣợng Đẳng Thần. Mộ ông hiện
cũng còn ở xã Anh Vĩnh. Phạm Quang Ảnh và Võ Văn Khiết đƣợc xem là những
vị nhân thần đƣợc ghi tên trong các văn tế của đình miếu ở Lý Sơn.
Lính Hoàng Sa khi đi mang theo lƣơng thực, nƣớc uống cho sáu tháng, mỗi
ngƣời đƣợc cấp phát một chiếc chiếu dài, bảy đòn che, mấy sợi dây mây và một thẻ

bài ghi rõ danh tính, bản quán, phiên hiệu, mục đích là để nếu chết thì dùng chiếu
bó xác gần bờ thì mang về đất liền chôn, hoặc thả xuống biển hy vọng cái xác sẽ dạt
vào đâu đó và đƣợc ngƣời địa phƣơng chôn cất.
Những ngƣời đi Hoàng Sa thời ấy chỉ bằng phƣơng tiện là chiếc ghe bầu
mảnh mai, cho nên dễ bị gặp rủi ro trƣớc dông bão, có khi họ vĩnh viễn nằm trong
lòng đại dƣơng.
Những ngƣời chết ngoài Hoàng Sa không về đƣợc, thì vợ con, cha m và
những ngƣời thân trong gia đình tạo những hình nhân bằng đất sét và chôn thành
các mộ gió. Hiện nay mộ gió nằm tập trung nhiều tại thôn Đông và thôn Tây An
Vĩnh.

16


Ngày nay, trên đảo Lý Sơn còn nhiều di tích liên quan đến đội Hoàng Sa,
Trƣờng Sa, đó là:
- Di tích Âm linh tự với tƣợng đài chiến sĩ trận vong là nơi thờ lính Hoàng
Sa chung với các vị thần khác, hàng năm làm lễ tế lính Hoàng Sa và những ngƣời
bỏ mình trên biển.
- Miếu thành hoàng làng ở đình làng An Hải, nơi thờ Bùi Tá Hán, Nguyễn
Tú Tài và lính Hoàng Sa bỏ mình trên biển
- Mộ cai đội Hoàng Sa Phạm Quang Ảnh tại thôn Đông xã An Vĩnh. Đây là
một ngôi mộ chiêu hồn. Ngoài ra còn có nhà thờ tộc họ Phạm Quang còn lƣu giữ
nhiều di vật liên quan đến Phạm Quang Ảnh và đội Hoàng Sa.
- Miếu ông Thắm , nơi thời cai đội Võ Văn Khiết, mộ chiêu hồn của cụ Võ
Văn Khiết, nhà thờ họ Võ.
- Khu mộ gió, khu nghĩa địa giành cho lính Hoàng Sa nằm ở thôn Tây xã An
Vĩnh
- Đình làng An Vĩnh, nơi tế lính Hoàng Sa trƣớc khi lên đƣờng làm nhiệm
vụ và khi trở về.

- Tƣợng đài hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải và nhà trƣng bày các hiện
vật liên quan đến đội Hoàng Sa ở xã An Vĩnh.
Ngoài ra tại làng An Vĩnh trong đất liền nay thuộc xã Tịnh Kỳ huyện Sơn
Tịnh cũng có dấu vết của miếu Hoàng Sa.
Vào tháng hai hàng năm, ngƣời dân Lý Sơn còn tổ chức lễ khao lề tế lính
Hoàng Sa, trƣớc là lễ cúng cầu an cho những ngƣời lính trƣớc khi lên đƣờng nhận
nhiệm vụ ra Hoàng Sa, sau này khi không còn đội Hoàng Sa, các tộc họ trên đảo có
ngƣời đi lính Hoàng Sa không trở về đã gắn liền vói lễ cúng việc lề (giỗ họ) gọi là
lễ khao lề thế lính Hoàng Sa.
Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa mang đậm ý nghĩa tri ân đối với các bậc tiền
nhân đã hy sinh vì Tổ quốc. Việc hình thành hải đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là
một trong những nỗ lực lớn của nhà nƣớc phong kiến Việt Nam trong việc chinh
phục và dựng mốc chủ quyền ở biển Đông. Đó là công lao to lớn của cƣ dân vùng
ven biển Bình Sơn và tổng Lý Sơn Quảng Ngãi. Qua hàng trăm năm đã có hàng
ngàn lính, binh phu, quan lại dân sự của triều đình hy sinh trên biển khi thi hành

17


nhiệm vụ. Sự tồn tại của khu mộ lính Hoàng Sa với tên thƣờng gọi là khu mộ gió
Hoàng Sa là mình chứng sống động cho sự thật lịch sử này.
* Tiểu kết chƣơng 1
Huyện đảo Lý Sơn hay Cù Lao Ré, là huyện đảo duy nhất của tỉnh Quảng
Ngãi, nằm ở phía Đông Bắc và cách đất liền 15 hải lý. Theo các kết quả khai quật
khảo cổ học thì cách ngày nay chừng 2000-3000 năm ở Lý Sơn đã có ngƣời sinh
sống, tƣơng ứng với văn hóa Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh. Dấu tích của văn hóa
Chăm cũng còn khá dày trên đảo. Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, những cƣ dân
ngƣời Việt ở vùng ven biển Sa Kỳ đã theo chân 15 vị tiền hiền di cƣ ra đảo, khai
hoang, lập làng, mở xóm, xây dựng đảo cho đến ngày nay. Đảo Lý Sơn có vị trí
chiến lƣợc quan trọng, là cửa ngõ ra Hoàng Sa, và nằm trên tuyến đƣờng giao lƣu

buôn bán với nhiều nƣớc trong khu vực và thế giới.
Ngƣời dân Lý Sơn có nguồn gốc từ những nông dân ở vùng Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh, di cƣ vào Quảng Ngãi và sau đó là di cƣ tiếp ra Lý Sơn. Dân Lý
Sơn giỏi đi biển, có tới khoảng 60% dân số làm nghề đi biển. Thủy sản chiếm tới
50% thu nhập của ngƣ dân trên đảo. Tƣơng lại ngành khai thác thủy sản tiếp tục là
thế mạnh của Lý Sơn. Tuy nhiên, Lý sơn có thể xem nhƣ là một làng nông ngƣ kết
hợp với khoảng 30% dân số sống bằng nghề trồng hành tỏi, đậu, bắp, mà tỏi Lý Sơn
hiện nay đã trở thành một thƣơng hiệu nổi tiếng.
Đảo Lý Sơn là hòn đảo của những di tích lịch sử, văn hóa với hệ thống các di
tích vật thể và phi vật thể dày dặc. Hiếm có nơi nào mà bảo tồn và lƣu giữ đƣợc các
giá trị truyền thống tốt nhƣ Lý Sơn. Không chỉ vậy Lý Sơn còn là quê hƣơng của
hải đội Hoàng Sa. Là nơi mà các binh phu Hoàng Sa xuất phát lên đƣờng ra Hoàng
Sa theo lệnh vua để thực thi chủ quyền, cắm mốc đo đạc thủy trình và thu lƣợm sản
vật. Hiện nay vào tháng hai hàng năm các dòng tộc trên đảo vẫn tổ chức lễ khao lề
của tộc họ mình và lễ khao lề thế lính Hoàng Sa nhƣ một sự tri ân, thể hiện lòng biết
ơn sâu sắc tới công lao của những ngƣời con anh hùng bỏ mạng trên biển vì sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền của dân tộc. Những di tích gắn với hoạt động của đội
Hoàng Sa trên đảo hiện nay, là minh chứng khẳng định: Hoàng Sa – Trƣờng Sa là
của Việt Nam”.

18


CHƢƠNG 2
MỘ GIÓ, MỘ CHIÊU HỒN VÀ CÁC NGHI THỨC LIÊN QUAN
2.1. Quan niệm của ngƣời Việt về việc an táng ngƣời chết
Trong quan niệm truyền thống của ngƣời Việt, nếu ngƣời sống cần có ngôi
nhà để sum họp, che nắng che mƣa thì ngƣời chết cũng phải có một nấm mồ để giữ
gìn hình hài. Ngƣời Việt Nam rất coi trọng mồ mả của ngƣời đã khuất, do lòng
thành kính với ngƣời chết mà ra. Hơn nữa, mồ mả không chỉ là nơi an táng, yên

nghỉ của ngƣời đã mất mà còn mang ý nghĩa thiêng liêng, tâm linh và huyền bí,
khiến ngƣời ta phải lo xây cất mộ cho ngƣời chết đàng hoàng, cũng không ai dám
động chạm tới mồ mả, sợ bị động mộ” ảnh hƣởng đến sức khỏe, công việc tƣơng
lai của con cháu trong gia đình. Luật pháp xƣa coi việc xúc phạm mồ mả là trọng
tội. Những gia đình nghèo, dù không có tiền cũng gắng kiếm lấy manh chiếu, hay
cỗ áo quan để lập mộ chôn cất cho ngƣời thân chu toàn.
Mộ (mồ, mả) là nơi ngƣời chết đƣợc chôn cất (chôn xuống đất). Mộ
thƣờng nằm tập trung ở các nghĩa trang hay nghĩa địa hoặc nằm riêng lẻ, rải rác
ở khắp nơi, với xác ngƣời chết hoặc tro đốt xác chôn bên dƣới. Theo Ngũ
Hành, Kim sinh Thủy (Kim khí nấu chảy ra nƣớc), Thủy sinh Mộc (Nƣớc nuôi
cây đâm chồi nẩy lộc), Mộc sinh Hỏa (Cây cháy phát ra lửa), Hỏa sinh Thổ
(Lửa cháy tàn rụi ra tro đất). Cho nên, chƣa hạ Thổ” là chu luân sanh, trụ,
hoại, diệt chƣa hoàn tất. Nghĩa là ngƣời chết chƣa đi hết hành trình sinh diệt!
Ngƣời xƣa nói: Sống cái nhà, già cái mồ” là muốn khi chết đƣợc mồ yên mả
đ p. Động mồ, động mả là điều đại kỵ. Cho nên, chỉ có xá lợi của Phật là một
thứ ngọc rất qúi, kết tinh bởi tinh, khí, thần mới đáng để chiêm bái thờ phƣợng
mà thôi. Còn tro cốt của ngƣời phàm nào làm trái với qui luật tự nhiên, tự nó sẽ
gây ra nhân qủa vật lý có hại mà không ai có thể chối cãi đƣợc.
Có nhiều cách phân chia mộ, nhƣng xét trƣờng hợp chất liệu làm mộ thì có
hai loại chính: mộ đất và mộ đá.
Mộ đất: hình chữ nhật, có kích thƣớc chừng 2m x 0,5m x 0,5m; đỉnh mộ
có hình chữ nhật nhƣng hơi tròn và càng cao, bề mặt càng nhỏ dần. Nếu không
đƣợc chăm sóc hay bồi lắp hàng năm, những ngôi mộ này sẽ dần dần bị mƣa, gió
sói mòn, nên nấm mồ thấp hay lở dần, có khi bị san bằng dần dần không thể tìm
thấy nữa.

19


Mộ đá: là loại mộ đƣợc xây bằng đá, gọi theo dân gian là mả đá cũng là hình

chữ nhật, kích thƣớc thì tùy và gia cảnh của ngƣời quá cố, sau này mả xây bằng xi
măng cũng đƣợc gọi là mả đá.
Dù là mộ đất hay mộ xây thì bia mộ, bình cắm nhang bao giờ cũng đặt ở
dƣới chân ngƣời chết theo sự tin tƣởng rằng, ngƣời chết nằm trong mồ chứng kiến
ngƣời sống mỗi lần ra thăm mộ đốt nhang vái lạy hay cúng thức ăn trƣớc mộ bia.
Tuy nhiên về sau này, có nhiều mộ xây bằng đá cẩm thạch hay đá mài thì có mộ bia
dính ở ngay phía đầu ngƣời chết. Bình cắm nhang có khi đặt ở đầu, có khi ở giữa
có khi ở chân của ngƣời chết.
Dân gian ta có câu: “không mả, con bà đứa nào làm nên” ngƣời ta cho rằng
có mối liên quan siêu vật lý giữa mồ mả của tổ tiên với số mệnh của con cháu. Mồ
mả không chỉ là nơi chôn cất ngƣời chết, mà còn mang nhiều ý nghĩa linh thiêng.
Mồ mả trong vòng bốn đời phải chôn cố định. Phải chọn đất, chọn hƣớng chôn phù
hợp với tuổi tác của ngƣời đã mất. Sau đó phải giữ gìn, không đƣợc phép làm động
mộ nếu không sẽ bị ảnh hƣởng đến ngƣời sống, vì làm xáo trộn vong linh ngƣời âm
đang tu luyện yên tĩnh ở cõi âm. Khi đó chắc chắn con cháu sẽ đau ốm, làm ăn
không thuận lợi.
Đối với gia đình ngƣời Viêt thì việc chôn cất, thờ cúng ngƣời chết là điều quan
trọng, thiêng liêng và thành kính. Khi còn sống ông bà, cha mẹ là đại ân nhân,con
cháu phải một lòng kính dưỡng, hiếu thảo; lúc ông bà cha mẹ chết con cháu phải sung
bái tỏ lòng biết ơn đồng thời cầu mong tổ tiên phù hộ…”
Ngƣời ta quan niệm rằng phách là phần phụ của thể xác, khi ngƣời ta chết thì
tan xuống đất. Theo dị đoan, đàn ông có bảy phách hợp với thất khiếu (bảy lỗ)
trong cơ thể. Đàn bà thì có 9 phách hợp với cửu khiếu trong cơ thể. Đàn ông, đàn bà
đều có ba hồn phụ vào tam tiêu. Khi bất tỉnh thì hồn lìa khỏi than thể trong chốc lát,
khi ngƣời ta chết thì hồn lìa hẳn khỏi xác. Bởi vậy phách và xác là phần ô trọc nên
bị tiêu hủy đi. Còn linh hồn là phần tinh anh nên vẫn còn và có đủ ý thức. Vong hồn
không đƣợc tiêu diệt nên hằng cảm thông với kẻ sống. Vong hồn của cha - m tuy
âm dƣơng khác nhau nhƣng vẫn thƣờng dự vào cuộc sống của con cháu, của gia
đình, mỗi khi có điều vui, điều buồn, điều lo sợ. Tổ tiên vẫn phù hộ cho con cháu
nên đôi khi vẫn đề phòng tai ách. Linh hồn tổ tiên và cha m linh thiêng nhƣờng ấy,


20


×