LỜI NÓI ĐẦU
" Đất đai " là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là
yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác
trên trái đất ; Là một phần lãnh thổ nhất định ( vùng đất, khoanh đất, vạc đất,mảnh đất,
miếng đất. ..) có vị trí, hình thể, diện tích với nhữnh tính chất tự nhiên được tạo thành
(đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất, thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ ánh
sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá tính...) tạo ra những điều kiện nhất định cho việc
sự dụng đất vào các mục đích khác. Như vậy, để sử dụng đất có hiệu quả cần trả qua quá
trình nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm xác định khả năng thích nghi với từng mục
đích sử dụng đất khác nhau của từng phần lãnh thổ và đề xuất những phương hướng sử
dụng đất đai hợp lí, hiệu quả và tiết kiệm nhất.
Nghiên cứu đánh giá thích nghi cây măng cụt trên địa bàn huyện Dầu Tiếng tỉnh
Bình Dương theo đánh giá của FAO ( Food Agriculture Organization - Tổ chức Nông
Lương Liên Hợp Quốc) giúp cho việc quy hoạch cây măng cụt đạt hiệu quả và năng suất
cao.
Với các lý do trên, ta thấy đánh giá thích nghi đất đai rất quan trọng trong quy
hoạch sử dụng đất nên tôi đã chọn đề tài đánh giá mức độ thích nghi cây măng cụt tại
huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương làm đề tài thực hiện.
Mục tiêu: Đánh giá khả năng thích nghi đất đai của huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình
Dương đối với cây măng cụt với ý nghĩa: củng cố, bổ sung, hoàn thiện cho sinh viên
phần lý thuyết đã học. Rèn luyện kỹ năng tay nghề cơ bản cho sinh viên tiếp cận công
việc nghiệp vụ thực tế trong công tác quản lý đất đai. Sinh viên biết áp dụng lý thuyết đã
học vào thực hiện một dự án Đánh giá đất đai gồm: Lựa chọn loại hình sử dụng đất để
thực hiện dự án đánh giá đất đai; Nắm được yêu cầu của các loại hình sử dụng đất; Xây
dựng bản đồ chuyên đề thể hiện thông tin của các tiêu chí đánh giá đất đai; Biết sử dụng
phần mềm chồng ghép các bản đồ chuyên đề để xây dựng bản đồ đơn vị đất đai; Xác định
mức độ thích nghi của của đất đai đối với các loại hình sử dụng đất được lựa chọn.
PHẦN I. TỔNG QUAN
1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu
1.1. Đánh giá thích nghi đất đai
1.1.1. Định nghĩa
FAO đã định nghĩa về đánh giá đất đai (Land Evalution – LE) là quá trình so sánh,
đối chiếu những tính chất vốn có của một vật (hay khoanh) đất cần đánh giá với những
tính chất đất đai mà yêu cầu sử dụng đất cần phải có. LE là quá trình xem xét khả năng
thích ứng với những loại hình sử dụng đất khác nhau.
Theo Stewart (1968): LE là đánh giá khả năng thích nghi của đất đai cho việc sử
dụng đất đai của con người của nông, lâm nghiệp, thiết kế thủy lợi, quy hoạch sản xuất
Có thể nói LE nhằm mục tiêu cung cấp những thông tin về sự thuận lợi và khó
khăn cho việc sử dụng đất đai, làm căn cứ cho việc đưa ra những quyết định về việc sử
dụng và quản lý đất đai một cách hợp lý
1.1.2. Đánh giá thích nghi đất đai ở Việt Nam
Từ những năm 1970 đã tiến hành đánh giá phân hạng đất ở 23 huyện đến những
năm 1980 trở lại đây các nghiên cứu về đánh giá khả năng sử dụng đất đai được tến hành
trên cả nước.
Kết quả nghiên cứu đã đưa ra được những chỉ tiêu và tiêu chuẩn đánh giá, phân
hạng đất cho từng loại cây trồng, nhưng các chỉ tiêu đó chỉ đơn thuần thiên về mặt thổ
nhưỡng, chưa quan tâm đến vấn đề khí hậu, thủy văn và các điều kiện kinh tế xã hội cũng
như tác động của môi trường.
Qua nghiên cứu cho thấy, công tác đánh giá đất đai ở Việt Nam không thể dừng lại
ở mức độ phân hạng chất lượng tự nhiên của đất mà phải chỉ ra được các loại hình sử
dụng đất thích nghi cho từng hệ thống sử dụng đất khác nhau với đối tượng cây trồng
nông, lâm nghiệp khác, vì vậy các nhà khoa học đất cùng với các nhà quy hoạch, quản lý
đất đai trong toàn quốc đã nhanh chóng vận dụng tài liệu đánh giá đất đai của FAO (Food
Agriculture Organization - Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc)
1.1.3. Đánh giá thích nghi theo FAO
Theo đánh giá thích nghi đất đai của FAO có hai loại thích nghi: thích nghi tự
nhiên và thích nghi kinh tế -xã hội
Đánh giá thích nghi tự nhiên: chỉ ra mức độ thích hợp của loại hình sử dụng đất
đối với điều kiện tự nhiên không tính đến điều kiện kinh tế - xã hội. Đối với các loại hình
sử dụng đất đặc thù thì nếu không thích nghi về mặt tự nhiên, vẫn phải cân nhắc kĩ lưỡng
trước khi đánh giá kinh tế để đề xuất phát triển.
Đánh giá thích nghi kinh tế - xã hội: các quyết định sử dụng đất đai thường cân
nhắc về mặt kinh tế - xã hội và dùng để so sánh các loại hình sử dụng đất có cùng mức độ
thích nghi về mặt tự nhiên. Tính thích nghi về mặt kinh tế-xã hội có thể dược xác định
bằng các yếu tố: sử dụng đất, tổng giá trị sản xuất, lãi ròng, tỉ suất chi phí / lợi nhuận…..
Sảm phẩm quan trọng cuối cùng của quá trình đánh giá thích nghi đất đai là bản
đồ thích nghi đất đai (suitability Map ). Tài liệu này là cơ sở quan trọng giúp các nhà quy
hoạch và quản lý ra quyết định cho việc sử dụng đất một cách hiệu quả.
Phân loại khả năng thích nghi Hệ thống phân thành 4 cấp:
1. Bộ (Orders ) : phản ánh các loại thích nghi , trong bộ phân thành 2 lớp: thích
nghi ( S) và không thích nghi (N)
2. Lớp (classes) phản ánh mức độ thích nghi
3. Lớp (Sub – classes ): phản ánh những giới hạn cụ thể của tùng đơn vị thích nghi
đất đai với từng loại hình sử dụng đất những yếu tố này tạo ra sự khác biệt giữa các
dạng thích nghi trong cùng 1 lớp
4. Đơn vị (Units ) phản ánh sự khác biệt về yêu cầu quản trị của các dạng thích
nghi trong cùng một lớp phụ
2. Giới thiệu đối tượng nghiên cứu
2.1. Giới thiệu chung
Măng cụt, một loại quả nhiệt đới đã được giới tiêu thụ Âu Mỹ đánh giá là một
trong những trái cây ngon nhất. Jacobus Bonitus cũng đã gọi măng cụt là: “Hoàng hậu
của các loại trái cây” (Queen of fruits). Măng cụt là loại quả quý, có phẩm chất rất ngon
vì vị ngọt, mát và thơm đặc biệt, được mọi người ưa chuộng; vì thế, quả măng cụt có giá
trị thương phẩm rất cao và là một trong những loại quả tiềm năng xuất khẩu của nước ta.
Măng cụt có nhiều tên gọi khác nhau như: tên tiếng Anh ( Mỹ ) là Mangosteen ;
tên Pháp là mangoustanier ; tên Trung Quốc là Sơn trúc tử, Thái Lan là Mankhut. Măng
cụt có tên la tinh là Garcinia mangostana tên “Garcinia” để ghi nhớ nhà thực vật học
Laurence Garcia, người đã sưu tập các mẫu cây cỏ và sống tại Ấn-độ vào thế kỷ XVIII.
“Mangostana” và tên tiếng Anh mangosteen đều phát xuất từ tên Mã-lai là “mangustan”.
Còn tên Việt Nam và Thái Lan thì lại gần giống nhau.
Măng cụt được giới khoa học phân loại như sau:
Bảng 1.1. Phân loại của măng cụt
Giới
Plantae
Bộ
Họ
Chi
Loài
Malpighiales
Clusiaceae
Garcinia
G. mangoostana
Chi Garcinia còn gồm một số cây tương cận, đa số mọc trong vùng Đông Ấn
(West Indies) trong đó có thể kể Garcinia cambogia, Garcinia cowa cung cấp quả “cowamangosteen” lớn hơn và có khía màu vàng apricot, hay Garcinia indica hay “CocumConca” cho quả chua, áo hạt màu tím, dùng làm giấm , hạt ép lấy dầu.
2.2 Nguồn gôc và phân bố
2.2.1 Nguồn gốc
Cây măng cụt là cây ăn quả nhiệt đới có nguồn gốc từ Malaysia và những đảo
thuộc vùng xích đạo gần Indonesia, có lịch sử hàng chục thế kỷ. Loại cây này đã được
thuyền trưởng Cook mô tả khá chi tiết từ năm 1770, và được đưa đến Tích-lan năm 1880,
trồng tại Anh trong các nhà kiếng từ năm 1855, sau đó đưa đến vùng West Indies (bờ biển
Trung Mỹ dưới Florida) từ giữa thế kỷ IXX.
Ở Việt Nam, măng cụt được các nhà truyền giáo đạo Gia Tô di thực vào miền
Nam nước ta, vua Minh Mạng đã cho đem cây này ra trồng ở Huế và giao cho một ông
Hoàng trông nom, và sau đó trồng tại các lăng tẩm, phủ đệ và chùa chiền tại Huế. Vua
Minh Mạng đặt tên cho trái măng cụt là Giáng Châu.
2.2.2 Phân bố
Ngày nay, cây măng cụt được bắt gặp ở những nước thuộc vùng xích đạo như khu
vực Đông Nam Á, Ấn Độ, Myanma cũng như ở Sri Lanka, Philipines, … Riêng tại Việt
Nam, do thích hợp với điều kiện nóng ẩm nên măng cụt chủ yếu được trồng ở phía Nam,
các tỉnh như Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương .... Việt Nam đã có lúc là nơi có những
vườn măng vụt lớn nhất thế giới.
Ở Việt Nam, măng cụt chủ yếu được phân bố ở hai vùng đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) và Đông Nam Bộ, trong đó ĐBSCL với tổng diện tích trồng khoảng 4,9
nghìn hecta, cho sản lượng khoảng 4,5 nghìn tấn/năm. Nam Bộ hiện có khoảng 5.400
hecta măng cụt, trong đó có vườn măng cụt trăm tuổi. Dưới 1/3 diện tích măng cụt cho
thu hoạch, trong đó phần lớn diện tích chưa ổn định năng suất. Bến Tre, Cần Thơ, Hậu
Giang, Bình Dương, Sóc Trăng, Đồng Nai là các địa phương chủ yếu trồng măng cụt và
đặc biệt Bến Tre là tỉnh dẫn đầu do tác động của chương trình trồng xen trong vườn dừa
lão đang vận hành.
Theo số liệu thống kê hiện nay toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 4,5 nghìn hecta đất
trồng măng cụt (chiếm 77% diện tích cả nước). Hiện nay, Bến Tre là tỉnh đã có công bố
chính thức về việc chọn măng cụt là loại cây trồng chủ lực để đầu tư phát triển theo
hướng chuyên canh.
2.3. Đặc điểm thực vật
Cây măng cụt thuộc họ Clusiaceae; đây là một họ lớn gồm nhiều loại của vùng
nhiệt đới và Á nhiệt đới. Ở Việt Nam có 3 giống là họ dọc, họ tai chua và họ măng cụt.
Những cây này có tính thích nghi mạnh, hiện chủ yếu còn mọc hoang trong rừng.
Thân và rễ: Là cây thân gỗ lớn, cao khoảng 10 – 25 m, đường kính thân khoảng
15 – 35 cm. Thân thẳng, gốc to ngọn nhỏ dần, tán lá dày, xanh và gọn, dáng đẹp. Cành
cách đều nhau trên thân, góc cành và thân to, đầu cành hơi rũ xuống. Gỗ thân nặng và
bền, thường được sử dụng làm đồ mộc, trang trí, ...
Bộ rễ phát triển tương đối chậm và yếu, tập trung phần lớn ở độ sâu 20 -30 cm. Rễ
không có hệ thống lông hút mềm khả năng hấp thu nước bị hạn chế.
Lá: Lá măng cụt khá lớn, dài 12 – 25 cm, rộng 7 – 13 cm, dạng hình trứng, dày,
mọc đối nhau, cuống nhắn. Các đường gân hai bên nổi lên, phân bố đều đặn, hình lông
chim. Mặt trên lá xanh đen và bóng, mặt dưới lá xanh nhạt và hơi mốc. Khả năng quang
hợp của lá kém.
Hoa: Hoa đơn hoặc kép ở đầu những cành 1 - 2 năm tuổi. Hoa cứng có cuống dài
7 - 9 mm. Kích thước hoa tương đối lớn, khi nở đường kính hoa 4 - 6 cm, dài 1,5 - 2 cm.
Bốn cánh hoa màu xanh vàng xen lẫn mảng phớt hồng ở tâm.
Hoa măng cụt là loại hoa bất toàn, về hình thái là những hoa lưỡng tính nhưng về
chức năng thì là hoa cái vì tuy có nhị đực nhưng hoàn toàn bất thụ. Hạt măng cụt không
phải hình thành từ phôi đã thụ phấn theo đường hữu tính, mà là một phôi giả hình thành
không qua thụ phấn.
Trong điều kiện thuận lợi, cây ra hoa vào năm thứ 6 hoặc thứ 7 sau khi gieo,
thường thì từ 10 - 12 năm. Ở miền Nam nước ta cây măng cụt ra hoa vào tháng 1 - 3
dương lịch và trái chín vào tháng 5 - 9 dương lịch ( khoảng 104 - 108 ngày sau khi hoa
nở ).
Quả và hạt: Quả măng cụt thuộc loại quả nang còn mang đại hoa ở cuống và núm
nhụy ở đầu quả. Vỏ quả khi sống có màu xanh đọt chuối, khi chín vỏ đỏ dần, rồi chuyển
sang tím và tím sẫm khi mùi chín.
Quả hình cầu, đáy phẳng, đường kính 4 - 7 cm, nặng 70 - 100 g. Vỏ quả bóng
láng, dày 0,8 - 1 cm, chứa một loại dịch đắng màu vàng tiết ra khi quả non bị thương.
Bên trong quả có 5 - 7 múi trắng, rất dễ tách, cơm không sượng, vị chua ngọt (độ Brix 17
- 19 %). Phần thịt quả ăn được chỉ chiếm khoảng 25 - 30 % trọng lượng quả, còn lại là vỏ
và hạt. Mỗi múi có một hạt mẩy hoặc lép. Các hạt có màu tím sẫm được bao bọc bởi một
lớp xơ mỏng phát triển bên trong múi. Hạt dùng để nhân giống, nếu cây càng trồng xa
vùng xích đạo thì hạt càng dễ bị lép. Phẩm chất quả có thể thay đổi do điều kiện khí hậu
khác nhau.
2.4. Đặc điểm sinh hóa
2.4.1 Thành phần dinh dưỡng
Trong 100 g quả tươi có chứa các thành phần qua bảng sau :
Bảng 1.2. Thành phần dinh dưỡng
Calories
Chất đạm
Chất béo
Carbohydrates
Chất xơ
Calcium
Sắt
Phosphorus
Thiamin B1
Vitamin C
60-63
0.5-0.60 g
0.1-0.60 g
10-14.7 g
5.0-5.10 g
0.01-8.0 mg
0.20-0.80 mg
0.02-12.0 mg
0.03 mg
1.0- 2.0 mg
(Nguồn: Phân tích tại Đại học Nông Lâm, 1994)
2.4.2 Thành phần hóa học
Như các loại quả khác, măng cụt ngọt nhờ có nhiều chất đường: sucrose, fructose,
glucose và có thể cả maltose. Nó thơm nhờ một số lớn các chất dễ bốc hơi. Phổ sắc ký
lỏng tinh dầu chiết xuất phát hiện khoảng 50 hóa chất hữu cơ, trong số đó, hơn 30 chất đã
được xác định. Chiếm nhiều nhất là (%) hexenol, bên cạnh đó còn có octan, hexyl acetat,
α-copaen, aceton, furfural, hexanol, methyl butenon, toluen. Những chất khác đều dưới
2% nhưng kết hợp với các chất trên cấu thành hương vị của măng cụt. Ngoài hexyl acetat
và hexenyl acetat đặc biệt của măng cụt, mùi trái cây là do các chất hexenal, hexanol, bisabolen mà ra, thêm vào mùi xoài với α-copaen, mùi hoa lài với furfuryl methylceton,
mùi huệ dạ hương với phenyl acetaldehyd, mùi cỏ với hexenol, hexanal, mùi cỏ héo với
pyridin, mùi lá ướt với xylen, mùi hoa khô với benzaldehyd, mùi hồ đào với d-cadinen .
Aceton, ethyl cyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt trong lúc toluen, a-terpinol đem lại
mùi đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu, valencen đặc biệt mùi mứt cam . Đáng
để ý là nếu furfural methylceton cống hiến hương thơm dễ chịu thì furfural lại cho thoáng
vào một mùi hôi khó ngửi. Tóm lại, mùi vị của măng cụt là kết quả của sự kết hợp phức
tạp của nhiều hợp chất khác nhau.
Những nghiên cứu về dược tính của măng cụt gần đây cho thấy măng cụt có thành
phần hóa học khá phức tạp. Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào vỏ quả. Thành
phần chính đã được xác định là một loạt xanthon mà những chất chính là α-mangostin, βmangostin, g-mangostin, những isomangostin, normangostin, bên cạnh trioxyxanthon,
pyranoxanthon, dihydroxy-methyl-butenyl-xanthon, trihydroxy methyl butenyl xanthon,
pyrano xanthenon. Những garcinon A, B, C, D, E, mangostinon, garcimangoson A,B,C,
gartanin, egonol, epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam,
benzophenon glucosid tuy số lượng ít cũng đã được tìm ra.
Cũng có một vài bản báo cáo trình bày thành phần hóa học của lá măng cụt. Bên
cạnh protein (7,8%), tanin (11,2%), đã xác định được những trihydroxy-methoxy-methylbutenyl-xanthon, 2,3-ethyl-methyl-maleimid-glucopyranosid, cùng những triterpenoid
như cycloartenol, friedlin, -sitosterol, betulin, mangiferadiol, mangiferolic acid,
cyclolanostendiol , hydroxy cyclolanostenon .
Từ ruột thân cây, tetrahydroxy xanthon và dẫn xuất O-glucosid của nó cùng
pentahydroxy xanthon, maclurin, cũng đã được tìm ra. Còn tử y thì chứa đựng mangostin,
những calaba xanthon, dihydroxy và trihydroxy–dimethyl-allyl xanthon.
2.5. Đặc điểm sinh thái
Măng cụt là một loại cây đòi hỏi điều kiện thổ nhưỡng khắt khe, cần điều kiện khí
hậu nóng ẩm, mưa nhiều và không được trồng lên cao quá vĩ tuyến 10 - 15 0. Cây lớn rất
chậm, sau hai ba năm chỉ cao đến đầu gối, và chỉ bắt đầu cho quả sau 10 – 15 năm trồng,
tuổi thọ cây dài, cây già 60 - 70 năm vẫn ra hoa và kết quả tốt.
Khí hậu: Vì là loại cây nhiệt đới xích đạo, nên măng cụt ưa khí hậu nóng và ẩm
với nhiệt độ khoảng tư 25 - 30 0C và ẩm độ không khí thấp nhất là 80%. Nhiệt độ thấp
hơn 200C cây tăng trưởng chậm, khi nhiệt độ từ 38 0C trở lên và dưới 50C có thể làm chết
cây.
Lượng mưa hàng năm thích hợp trên 1.200 mm, phân bố đều trong năm và không
mưa nhiều ở giai đoạn cây mang trái là tốt nhất.
Khi cây còn nhỏ (dưới 5 năm), măng cụt cần râm mát vì vậy phải che bớt ánh
năng trực tiếp bằng vật liệu che chắn hoặc trồng cây che bóng.
Đất: Cây măng cụt có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau nhưng tốt nhất
là trồng trên đất màu mỡ, giàu hữu cơ, tơi xốp, tầng canh tác dày, ẩm nhưng thoát nước
tốt, gần nguồn nước tốt để có đủ nước tưới trong mùa khô. Đất hơi chua, độ pH từ 5,5 - 7
là thích hợp, không trồng được trên đất phèn, mặn.
2.6. Yêu cầu dinh dưỡng
Tuy cây măng cụt không đòi hỏi nhiều về dinh dưỡng, nhưng nếu được cung cấp
đầy đủ chất dinh dưỡng cây sẽ sinh trưởng và phát triển tốt, tuổi thọ dài, cho năng suất và
chất lượng cao. Giai đoạn cây còn nhỏ và khi đâm chồi cây cần nhiều đạm và lân, giai
đoạn chuẩn bị ra hoa cần lân, khi cây hình thành quả và nuôi quả lớn cần thêm kali để
tăng chất lượng quả. Những nhu cầu về chất vi lượng chưa được thể hiện rõ.
3. Quan điểm vấn đề lựa chọn nghiên cứu
Hiểu được tầm quan trọng của đánh giá thích nghi đất đai trong quá trình quy
hoạch sử dụng đất , quản lý đất và hiệu quả kinh tế của cây măng cụt đem lại nên tôi đã
chọn đề tài thực hiện nhằm đánh giá thích nghi sinh thái của cây măng cụt tại huyện Dầu
Tiếng tỉnh Bình Dương để tìm ra mức độ thích nghi của cây măng cụt từ đó đưa ra bản đồ
đánh giá giúp cho việc quy hoạch trồng măng cụt theo hướng hàng hóa ở địa bàn huyện
góp phần sử dụng hợp lí đất đai và phát triển kinh tế của huyện Dầu Tiếng nói riêng và cả
tỉnh Bình Dương nói chung
4. Hoạt động nghiên cứu
Từ dữ liệu giáo viên hướng dẫn đã cho ( dữ liệu không gian, dữ liệu thuộc tính )
bản đồ loại đất (SOIL_MAP), bản đồ độ dốc (SLOP_MAP), tầng dày (DEEP_MAP) ,
khả năng tưới (irrigational_map) thực hiện chồng ghép bản đồ trong công cụ phần mềm
mapinfo tạo ra bản đồ thuộc tính có loại đất, độ dốc, tầng dầy, khả năng tưới.Từ dữ liệu
thuộc tính ta chuyển qua excel xử lý số liệu áp dụng đánh giá thích nghi đất đai của FAO,
ứng dụng phương pháp hạn chế suy ra được mức độ thích nghi của các khoanh đất đối
với cây măng cụt trên địa bàn huyện từ đó đưa dữ liệu thuộc tính excel vào mapinfo
thành lập bản đồ mức độ thích nghi cây măng cụt dựa vào số liệu đã xử lý ở trên.
5. Cơ sở lý thuyết, căn cứ pháp lý và thực tiễn sử dụng
5.1. Cơ sở lý thuyết
❖Giáo trình Đánh giá đất đai trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP.HCM
❖ Quy trình đánh giá đất đai được áp dụng theo đề cương của FAO -1976 có chỉnh
sửa năm 1983 và được chỉ dẫn trong các tài liệu hướng dẫn đánh giá đất đai cụ thể cho:
• Nông nghiệp có mưa (FAO, 1983)
• Đất rừng (FAO, 1984)
• Nông nghiệp có tưới (FAO, 1984)
• Đống cỏ chăn thả(FAO, 1992) Quy trình tập trung các bước chính sau:
1) Dựa vào mục tiêu và quy mô của từng dự án đánh giá đất đai, thu thập các tài
liệu, thông tin có sẵn về tự nhiên, kinh tế và xã hội của vùng dự án.
2) Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai: mô tả các đơn vị bản đồ đất đai (Land
Mapping unit –LMU) dựa trên kết quả điều tra tài nguyên đất. Mỗi đơn vị bản đồ đất đai
(LMU) có số lượng các đặc tính như độ dốc, lượng mưa, phẫu diện đất, thoát nước, thảm
thực vật…. khác với đơn vị bản đồ đất đai (LMU) kề bên.
3) Chuyển đổi các đặc tính của mỗi đơn vị bản đồ đất đai (LMU) thành các tính
chất đất đai có tác động trực tiếp đến sự hình thành hệ thống sử dụng đất hay nói cách
khác là sự kết hợp các loại hình sử dụng đất được lựa chọn với đơn vị bản đồ đất đai.
4) Xác định và mô tả các LUT với các thuộc tính liên quan đến:
• Các chính sách và mục tiêu phát tiển.
• Những hạn chế đặc biệt trong sử dụng đất.
• Những nhu cầu và ưu tiên của các chủ sử dụng đất.
• Các điều kiện tổng quát về kinh tế - xã hội và sinh thái nông nghiệp trong vùng
đánh giá đất đai.
5) Quyết định các yêu cầu sử dụng đất cho mỗi loại hình sử dụng đất được lựa
chọn.
6) Đối chiếu xếp hạng các LUT trên cơ sở so sánh các yêu cầu sử dụng đất của các
LUT với các tính chất đất đai của các LMU nhằm xác định mức phù hợp cưa các tính
chất đất đai của mỗi LMU cho mỗi LUT. Quá trình đối chiếu này là tiền đề của nội dung
phân hạng thích hợp của các LMU cho từng LUT. Tiến hành phân hạng tích hợp đất đai
cho các LUT đã đối chiếu. Như vậy đánh giá đất đai dựa trên cơ sở so sánh các dữ liệu tài
nguyên đất với các yêu cầu sử dụng đất của từng loại hình sử dụng đất. Nó cung cấp
thông tin về sự thích hợp đất đai trong việc sử dụng đất, cũng có nghĩa là nó cung cấp
thông tin về sự thích hợp trong sử dụng đất cho công tác quy hoạch sử dụng đất.
5.2. Cơ sở pháp lý
- Luật đất đai năm 2013 được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá
XIII thông qua ngày 29/11/2013.
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ về hướng dẫn thi
hành Luật đất đai 201 3.
- Thông tư số 35/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường Quy định về việc điều tra, đánh giá đất đai.
- Thông tư 60/2015/TT-BTNMT
5.3. Cơ sở thực tiễn
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Dầu Tiếng.
- Điều kiện hạ tầng kĩ thuật, yêu cầu sử dụng đất cây măng cụt ở huyện Dầu Tiếng.
- Tình hình quy hoạch, trồng và phát triển cây măng cụt ở thời điểm hiện tại.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
1
Kế thừa các công trình nghiên cứu có trước đó.
2
Sử dụng phương pháp chồng xếp bản đồ trong phần mềm Mapinfo để xây dựng bản
đồ đơn vị đất đai.
3
Phương pháp tổng hợp và xử lý thông tin: phương pháp này được vận dụng để phân
tích, tổng hợp, đánh giá và xử lý các số liệu, các tài liệu thu thập được để thấy được
tiềm năng phát triển của cây cà phê trong các địa phương ở trên địa bàn huyện,
nghiên cứu định hướng phát triển kinh tế xã hội của huyện Di Linh thông qua các
văn kiện, báo cáo, niên giám thống kê, đề xuất định hướng phát triển cây cà phê,
nghiên cứu đặc tính của cây cà phê để đề xuất các giải pháp, biện pháp kỹ thuật
trồng cà phê.
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
Chương 1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội.
1 Lịch sử hình thành
Dầu Tiếng vốn là một huyện lâu đời nhất của tỉnh Bình Dương.
Tháng 2 năm 1976, 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Long hợp nhất thành tỉnh
Sông Bé, huyện Dầu Tiếng thuộc tỉnh này.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện được hợp nhất với huyện Bến Cát (nay là thị xã Bến
Cát và huyện Bàu Bàng) thành huyện Bến Cát.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Bình Dương được tách ra từ tỉnh Sông Bé cũ, huyện Bến
Cát thuộc huyện Bình Dương.
Ngày 23 tháng 7 năm 1999, huyện Dầu Tiếng được tái lập từ huyện Bến Cát, gồm 9 xã:
Định Hiệp, Minh Hòa, Minh Tân, Minh Thạnh, Long Tân, An Lập, Thanh An, Thanh
Tuyền, Long Hòa, trong đó 3 xã: Minh Hòa, Minh Tân, Minh Thạnh được chuyển
từ huyện Bình Long cũ (nay là thị xã Bình Long và hai huyện Chơn Thành, Hớn Quản)
về huyện Bến Cát quản lý tháng 1 năm 1997; thành lập xã Định An trên cơ sở 11.570 ha
diện tích tự nhiên và 5.377 nhân khẩu của xã Định Hiệp.
Ngày 10 tháng 12 năm 2003, thành lập xã Định Thành thuộc huyện Dầu Tiếng trên cơ sở
550 ha diện tích tự nhiên và 822 nhân khẩu của thị trấn Dầu Tiếng, 4.256 ha diện tích tự
nhiên và 873 nhân khẩu của xã Định An, 555 ha diện tích tự nhiên và 1.004 nhân khẩu
của xã Định Hiệp.
Như vậy, huyện Dầu Tiếng có 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay.
2 Điều kiện tự nhiên
- Khí hậu Dầu Tiếng tương đối ôn hòa, ít thiên tai (bão, lụt), rất thuận lợi cho phát
triển kinh tế chung của huyện. Nhiệt độ và ánh sáng được xếp vào loại cao, rất thích
hợp với cây trồng nhiệt đới ưa sáng có chỉ số quang hợp cao.
- Địa hình chủ yếu là đồi thấp, thế đất bằng phẳng, nền địa chất ổn định - vững chắc
rất thuận lợi cho phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng và canh tác nông nghiệp.
- Dầu Tiếng thuộc khu vực địa hình thấp dọc theo sông Sài Gòn sẽ có lợi thế tận dụng
chênh lệch triều để tiêu tự chảy và tưới được trên diện tích vừa phải
2.1. Vị trí địa lý
Huyện nằm ở phía tây bắc tỉnh Bình Dương.
•
Phía bắc giáp huyện Chơn Thành, Bình Phước.
•
Phía đông giáp huyện Bàu Bàng và đông nam là thị xã Bến Cát cùng thuộc
tỉnh Bình Dương.
•
Phía tây là hồ Dầu Tiếng thuộc huyện Dương Minh Châu và tây nam là
huyện Trảng Bàng, cùng thuộc Tây Ninh.
•
Phía nam là huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Địa hình
Bình Dương là một tỉnh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy Trường
Sơn, nối nam Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; là tỉnh bình nguyên có
địa hình lượn sóng yếu từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển. Vị trí
trung tâm của tỉnh ở vào tọa độ địa dư từ 10o-50’-27’’ đến 11o-24’-32’’ vĩ độ bắc và từ
106o-20’ đến 106o25’ kinh độ đông.
Vùng đất Bình Dương tương đối bằng phẳng, thấp dần từ bắc xuống nam. Nhìn tổng
quát, Bình Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau: vùng địa hình núi thấp có lượn sóng
yếu, vùng có địa hình bằng phẳng, vùng thung lũng bãi bồi … Có một số núi thấp, như
núi Châu Thới (huyện Dĩ An), núi Cậu (còn gọi là núi Lấp Vò) ở huyện Dầu Tiếng… và
một số đồi thấp.
Các quy luật tự nhiên tác động lên vùng đất này tạo nên nhiều dạng địa mạo khác nhau:
có vùng bị bào mòn, có vùng tích tụ (do có sự lắng đọng của các vật liệu xâm thực theo
dòng chảy), có vùng vừa bị bào mòn, vừa tích tụ và lắng đọng. Nguyên nhân chủ yếu là
do nước mưa và dòng chảy tác động trên mặt đất, cộng với sự tác động của sức gió, nhiệt
độ, khí hậu, sự sạt lở và sụp trượt vì trọng lực của nền địa chất. Các sự tác động này diễn
ra lâu dài hàng triệu năm.
2.3. Thổ nhưỡng
Đất đai Bình Dương rất đa dạng và phong phú về chủng loại:
+ Đất xám trên phù sa cổ, có diện tích 200.000 ha phân bố trên các huyện Dầu
Tiếng, Bến Cát, Thuận An, thị xã Thủ Dầu Một. Loại đất này phù hợp với nhiều loại cây
trồng, nhất là cây công nghiệp, cây ăn trái.
+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ, có khoảng 35.206 ha nằm trên các vùng đồi thấp
thoải xuống, thuộc các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, khu vực thị xã Thủ Dầu Một, Thuận
An và một ít chạy dọc quốc lộ 13. Đất này có thể trồng rau màu, các loại cây ăn trái chịu
được hạn như mít, điều.
+ Đất phù sa Glây (đất dốc tụ), chủ yếu là đất dốc tụ trên phù sa cổ, nằm ở phía
bắc huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, Thuận An, Dĩ An; đất thấp mùn
Glây có khoảng 7.900 ha nằm rải rác tại những vùng trũng ven sông rạch, suối. Đất này
có chua phèn, tính axít vì chất sunphát sắt và alumin của chúng. Loại đất này sau khi
được cải tạo có thể trồng lúa, rau và cây ăn trái, v.v…
2.4. Khí hậu
Khí hậu ở Bình Dương cũng như chế độ khí hậu của khu vực miền Đông Nam Bộ: nắng
nóng và mưa nhiều, độ ẩm khá cao. Đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định, trong năm
phân chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng
5 kéo dài đến cuối tháng 10 dương lịch.
Vào những tháng đầu mùa mưa, thường xuất hiện những cơn mưa rào lớn, rồi sau đó dứt
hẳn. Những tháng 7,8,9, thường là những tháng mưa dầm. Có những trận mưa dầm kéo
dài 1-2 ngày đêm liên tục. Đặc biệt ở Bình Dương hầu như không có bão, mà chỉ bị ảnh
hương những cơn bão gần.
Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Bình Dương từ 26oC-27oC. Nhiệt độ cao nhất có lúc lên
tới 39,3oC và thấp nhất từ 16oC-17oC (ban đêm) và 18oC vào sáng sớm. Vào mùa nắng,
độ ẩm trung bình hàng năm từ 76%-80%, cao nhất là 86% (vào tháng 9) và thấp nhất là
66% (vào tháng 2). Lượng nước mưa trung bình hàng năm từ 1.800-2.000mm. Tại ngã tư
Sở Sao của Bình Dương đo được bình quân trong năm lên đến 2.113,3mm.
2.5. Thuỷ văn sông ngòi:
Chế độ thủy văn của các con sông chảy qua tỉnh và trong tỉnh Bình Dương thay đổi theo
mùa: mùa mưa nước lớn từ tháng 5 đến tháng 11 (dương lịch) và mùa khô (mùa kiệt) từ
tháng 11 đến tháng 5 năm sau, tương ứng với 2 mùa mưa nắng. Bình Dương có 3 con
sông lớn, nhiều rạch ở các địa bàn ven sông và nhiều suối nhỏ khác.
Sông Đồng Nai là con sông lớn nhất ở miền Đông Nam Bộ, bắt nguồn từ cao nguyên
Lâm Viên (Lâm Đồng) dài 635 km nhưng chỉ chảy qua địa phận Bình Dương ở Tân
Uyên. Sông Đồng Nai có giá trị lớn về cung cấp nước tưới cho nền nông nghiệp, giao
thông vận tải đường thủy và cung cấp thủy sản cho nhân dân.
Sông Sài Gòn dài 256 km, bắt nguồn từ vùng đồi cao huyện Lộc Ninh (tỉnh Bình Phước).
Sông Sài Gòn có nhiều chi lưu, phụ lưu, rạch, ngòi và suối. Sông Sài Gòn chảy qua Bình
Dương về phía Tây, đoạn từ Lái Thiêu lên tới Dầu Tiếng dài 143 km, độ dốc nhỏ nên
thuận lợi về giao thông vận tải, về sản xuất nông nghiệp, cung cấp thủy sản. Ở thượng
lưu, sông hẹp (20m) uốn khúc quanh co, từ Dầu Tiếng được mở rộng dần đến thị xã Thủ
Dầu Một (200m).
Sông Thị Tính là phụ lưu của sông Sài Gòn bắt nguồn tự đồi Cam xe huyện Bình Long
(tỉnh Bình Phước) chảy qua Bến Cát, rồi lại đổ vào sông Sài Gòn ở đập Ông Cộ. Sông Sài
Gòn, sông Thị Tính mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở Bến Cát, thị xã, Thuận
An, cùng với những cánh đồng dọc sông Đồng Nai, tạo nên vùng lúa năng suất cao và
những vườn cây ăn trái xanh tốt.
Sông Bé dài 360 km, bắt nguồn từ các sông Đắc RơLáp, Đắc Giun, Đắc Huýt thuộc vùng
núi tỉnh Đắc Lắc hợp thành từ độ cao 1000 mét. Ở phần hạ lưu, đoạn chảy vào đất Bình
Dương dài 80 km. Sông Bé không thuận tiện cho việc giao thông đường thủy do có bờ
dốc đứng, lòng sông nhiều đoạn có đá ngầm, lại có nhiều thác ghềnh, tàu thuyền không
thể đi lại.
2.6. Tài nguyên thiên nhiên
2.6.1. Tài nguyên rừng và sinh vật:
Do đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm và đất đai màu mỡ, nên rừng ở Bình Dương xưa
rất đa dạng và phong phú về nhiều chủng loài. Có những khu rừng liền khoảnh, bạt ngàn.
Rừng trong tỉnh có nhiều loại gỗ quý như: căm xe, sao, trắc, gõ đỏ, cẩm lai, giáng hương
… Rừng Bình Dương còn cung cấp nhiều loại dược liệu làm thuốc chữa bệnh, cây thực
phẩm và nhiều loài động vật, trong đó có những loài động vật quý hiếm.
Hiện nay, rừng Bình Dương đã bị thu hẹp khá nhiều do bị bom đạn, chất độc hóa
học của giặc Mỹ tàn phá trong chiến tranh. Trong những năm tháng chiến tranh diễn ra ác
liệt, Mỹ-ngụy đã ủi phá rừng, bứng hết cây cối nhằm tạo thành những “vùng trắng”, đẩy
lực lượng cách mạng ra xa căn cứ càng làm cho rừng thêm cạn kiệt. Mặt khác, sau ngày
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc khai thác rừng bừa bãi cũng làm cho rừng bị thu
hẹp.
Diện tích đất tự nhiên 72.139 ha (chiếm khoảng 27% diện tích toàn tỉnh), chủ yếu
là đất phù sa cổ, thích hợp với cây cao su trên qui mô lớn và trồng rau màu và cây ăn quả
trên đất phù sa ven sông Sài Gòn.
Đất nông nghiệp chiếm khoảng 86%, chủ yếu là cao su (chiếm 84% đất nông
nghiệp).
Đất lâm nghiệp có khoảng 3.600ha (chiếm khoảng 5%), bao gồm: rừng sản xuất
khoảng 220 ha (rừng Kiến An ở xã An Lập); rừng phòng hộ khoảng 3380ha, tập trung
ở Núi Cậu (Định Thành) và xã Minh Hòa, hiện đang được các cấp chính quyền bảo vệ
nghiêm ngặt.
Cây lâu năm che phủ khoảng 78% tổng diện tích tự nhiên của huyện (chủ yếu là
cây cao su).
Tài nguyên sinh vật trên địa bàn huyện Dầu Tiếng khá phong phú, song các loài
sinh vật tự nhiên đã và đang suy giảm. Các loại cây trồng vật nuôi được nhà nông
chọn lựa, du nhập như các loại rau, qủa, heo, gà có chất lượng, và rất có điều kiện
phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa thương hiệu.
2.6.2 Tài nguyên khoáng sản :
Cùng với những giá trị quý giá về tài nguyên rừng, Bình Dương còn là một vùng
đất được thiên nhiên ưu đãi chứa đựng nhiều loại khoáng sản phong phú tiềm ẩn dưới
lòng đất. Đó chính là cái nôi để các ngành nghề truyền thống ở Bình Dương sớm hình
thành như gốm sứ, điêu khắc, mộc, sơn mài …
Bình Dương có nhiều đất cao lanh, đất sét trắng, đất sét màu, sạn trắng, đá xanh,
đá ong nằm rải rác ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhất là ở các huyện: Tân Uyên, Thuận
An, Dĩ An, thị xã Thủ Dầu Một.
Các nhà chuyên môn đã phát hiện ở vùng Đất Cuốc (huyện Tân Uyên) có một mỏ
cao lanh lớn phân bố trên một phạm vi hơn 1km2, với trữ lượng lớn. Đất cao lanh ở đây
được đánh giá là loại đất tốt, có thể sử dụng trong nghề gốm và làm các chất phụ gia cho
việc sản xuất một số sản phẩm công nghiệp…
Cát: Cát trên sông Sài Gòn và sông Thị Tính chỉ dùng cho san lấp là phù hợp nhất,
việc khai thác phải nghiên cứu phù hợp với khơi thông dòng chảy và không bị sạt lở. Cát
lòng hồ Dầu Tiếng là loại cát sạch rất phù hợp cho xây dựng, hàng năm thường khai thác
50-100 ngàn m3 là vừa để đảm bảo nạo vét lòng hồ thường xuyên.
Sỏi đỏ: Trữ lượng không nhiều, có thể chỉ đủ khai thác phục vụ phát triển giao
thông nông thôn, chủ yếu tập trung ở xã Minh Hòa và Định An.
Đất sét: Trữ lượng lớn, phân bố đều trên địa bàn, rất có điều kiện phát triển ngành
vật liệu xây dựng (gạch, ngói,…).
Ngoài ra trên địa bàn còn có cao lanh, nhưng trữ lượng không lớn, chất lượng
không cao (nhiều tạp chất).
2.6.3 Tài nguyên nước
Nước mưa: Thuộc vùng có lượng mưa lớn (bình quân 2.000mm/năm), là một phần
nguồn nước dùng cho sinh hoạt, tưới tiêu và dự trữ.
Nguồn nước mặt: Rất dồi dào so với các huyện-thị khác trong tỉnh, mật độ sông suối trên
địa bàn huyện khoảng 0,4km/km2, có các sông chính: sông Sài Gòn, sông Thị Tính; các
hồ chứa nước chính: hồ Dầu Tiếng, hồ Cần Nôm, hồ Hàng Nú. Sông Sài Gòn bắt nguồn
từ hồ Dầu Tiếng có tổng lượng nước đến tại Dầu Tiếng khoảng gần 2,0 tỷ m3. Hồ Dầu
Tiếng có ảnh hưởng rất lớn đến nguồn nước mặt, nước ngầm và môi trường sinh thái, chế
độ thủy văn của toàn vùng. Nguồn nước ngầm: Nằm dọc theo sông Sài Gòn thuộc khu
vực giàu nước ngầm nhất tỉnh Bình Dương.
2.6.4 Tài nguyên du lịch và nhân văn
Tài nguyên du lịch tự nhiên:
Hồ Dầu Tiếng rộng khoảng 27.000ha (huyện Dầu Tiếng khoảng 3.000ha). Việc kết hợp
hài hòa giữa mặt hồ rộng lớn với các quần thể cảnh quan thiên nhiên xung quanh, sẽ là
điểm du lịch sinh thái độc đáo và hấp dẫn. Núi Cậu nằm sát hồ Dầu Tiếng thuộc xã Định
Thành, cảnh quan thiên nhiên rất phong thủy, quanh núi có nhiều chùa chiền tâm linh,
gần Núi Bà (Tây Ninh), rất thuận lợi để Dầu Tiếng kết hợp phát triển các tour du lịch.
Rừng Kiến An (xã An Lập) với tổng diện tích khoảng 220 ha, có trên 100 ha rừng nguyên
sinh, là căn cứ cách mạng. Kết hợp với nuôi thú, khu rừng này rất có tiềm năng để phát
triển du lịch sinh thái và lịch sử.
Tài nguyên du lịch nhân văn:
Khu du lịch sinh thái Bến Súc (xã Thanh Tuyền): Qui mô 124ha, được TP.Hồ Chí
Minh đầu tư mở rộng khu di tích, địa đạo Củ Chi-Bến Được. Trên địa bàn huyện có
07 di tích cấp tỉnh và 01 di tích cấp quốc gia là Sở chỉ huy chiến dịch tiền phương Hồ
Chí Minh (xã Minh Tân).
Đình thần Dầu Tiếng, Thanh An, Thanh Tuyền có lễ hội Kỳ Yên và Kỳ Bông, hàng
năm được nhân dân tổ chức 2 kỳ cúng.
Lễ hội chùa bà Thiên Hậu (thị trấn Dầu Tiếng) hàng năm được tổ chức vào ngày 1011 tháng 01 âm lịch, thu hút nhiều người (đặc biệt người Hoa).
3. Cơ sở hạ tầng
Các nguồn lực đầu tư được ưu tiên tập trung cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
hỗ trợ tích cực cho phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
Bình Dương là một tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy rất quan
trọng nối liền giữa các vùng trong và ngoài tỉnh. Trong hệ thống đường bộ, nổi lên đường
quốc lộ 13 – con đường chiến lược cực kỳ quan trọng xuất phát từ thành phố Hồ Chí
Minh, chạy suốt chiều dài của tỉnh từ phía nam lên phía bắc, qua tỉnh Bình Phước và nối
Vương quốc Campuchia đến biên giới Thái Lan. Đây là con đường có ý nghĩa chiến lược
cả về quân sự và kinh tế.
Đường quốc lộ 14, từ Tây Ninh qua Dầu Tiếng đi Chơn Thành, Đồng Xoài, Bù
Đăng (tỉnh Bình Phước) xuyên suốt vùng Tây Nguyên bao la, là con đường chiến lược
quan trọng cả trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước.
Ngoài ra còn có liên tỉnh lộ 1A từ Thủ Dầu Một đi Phước Long (Bình Phước); Liên tỉnh
lộ 13 từ Chơn Thành đi Đồng Phú, Dầu Tiếng; liên tỉnh lộ 16 từ Tân Uyên đi Phước
Vĩnh; lộ 14 từ Bến Cát đi Dầu Tiếng … và hệ thống đường nối thị xã với các thị trấn và
điểm dân cư trong tỉnh.
Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa 3 con sông lớn, nhất là
sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa
với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
4. Nguồn nhân lực
Qui mô dân số của huyện Dầu Tiếng vào loại nhỏ nhất của tỉnh Bình Dương, năm
2010 đạt 109.781 người (chiếm khoảng 7% dân số toàn tỉnh), tốc độ tăng dân số trung
bình hàng năm giai đoạn 2005-2010 đạt khoảng 2,3% (tăng tự nhiên khoảng 0,95%,
còn lại là tăng cơ học). Mật độ dân số của huyện càng nhỏ, năm 2010 đạt khoảng 152
người/km2, cả tỉnh là 575 người/km2.
Chất lượng dân số: Tổng dân số trong độ tuổi lao động của huyện năm 2010 đạt
khoảng 65.500 người (chiếm 60%), lao động ngoài độ tuổi khoảng 44.281 người
(chiếm 40%); số người chưa đến tuổi lao động và hết tuổi lao động còn đang chiếm
nhiều.
5. Đơn vị hành chính: 11 xã: Minh Hòa, Minh Thạnh, Minh Tân, Định An, Long
Hòa, Định Thành, Định Hiệp, An Lập, Long Tân, Thanh An, Thanh Tuyền; 01 thị
trấn: Dầu Tiếng.
Chương 2. Đặc điểm tài nguyên đất đai
2.1. Nhóm đất phù sa (Fluvisols): được hình thành do sự bồi lắng của sông, suối,
tính chất đất thay đổi phụ thuộc vào sản phẩm phong hoá của mẫu chất tạo thành đất ở
vùng thượng nguồn của từng lưu vực, thời gian và điều kiện bồi lắng. Nhóm đất này có 3
đơn vị đất: đất phù sa chua, đất phù sa giàu mùn chua, đất phù sa glây với tổng diện tích
882,01ha.
2.2. Nhóm đất glây (Gleysols) được hình thành ở địa hình thấp trũng, mực nước
ngầm nông, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khử trong đất xảy ra, dẫn tới đất có màu
xanh, đất có nguồn gốc thuỷ thành. Nhóm đất này có 5 đơn vị đất: đất glây đọng nước
nhân tác, đất glây có tầng sỏi sạn nông, đất glây chua, đất glây giàu mùn, đất glây tầng
mặt giàu mùn với tổng diện tích 3.319,11 ha.
2.3. Nhóm đất xám (Acrisols) phân bố ở hầu hết các huyện, từ địa hình núi cao
đến địa hình gò đồi thấp trũng và thung lũng trên các loại đá mẹ. Nhóm đất này có 17
đơn vị đất: đất xám đỏ vàng, đất xám có tầng thảm mục, đất xám điển hình, đất xám giàu
mùn, đất xám giàu mùn tích nhôm, đất xám glây, đất xám nghèo bazơ, đất xám nghèo
bazơ sỏi sạn sâu, đất xám rất chua, đất xám rất chua đỏ vàng, đất xám rất chua nghèo
bazơ, đất xám rất chua sỏi sạn nông, đất xám rất chua sỏi sạn sâu, đất xám sỏi sạn nông,
đất xám tầng mặt giàu mùn rất chua, đất xám tầng mặt giàu mùn sỏi sạn nông, đất xám
tầng mỏng; tổng diện tích: 100.145,3 ha.
2.4 Nhóm đất vàng nhạt trên đá cát: Đất được hình thành từ các loại đá mẹ như
quăczit, phiến silic, các loại cát kết, dăm cuội kết,... Tính chất chung là thành phần cơ
giới nhẹ, tỷ lệ cấp hạt cát rất cao, đất không có kết cấu hoặc kết cấu rất kém. Tầng đất
mỏng (30 - 60 cm). Phẫu diện tầng trên mỏng (10 - 15 cm) có màu xám sáng, thành phần
cơ giới cát - cát pha, kết cấu rời rạc, độ xốp 40 - 45%; tầng đất dưới 50 cm có màu vàng
sáng, cát pha, rời rạc. Về tính chất: Do loại đất này phần lớn phân bố ở những nơi địa
hình dốc hoặc thoải, quá trình xói mòn, rửa trôi xảy ra mạnh, thậm chí sắt cũng bị rửa
trôi, nên màu của nó rất nhạt. Đất rất chua, hàm lượng mùn thấp (nhỏ hơn l%), lân tổng
số và dễ tiêu đều nghèo - rất nghèo, kali ở mức nghèo - trung bình; dung tích hấp thu rất
thấp nên khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng kém. Nói chung đây là loại đất có tính
chất xấu, độ phì tự nhiên thấp, rất dễ biến thành đất trơ sỏi đá nếu không có phương thức
bảo vệ khi khai thác sử dụng. Về hướng sử dụng: Những nơi có độ dốc nhỏ thì có thể
dùng vào sản xuất nông nghiệp, có thể trồng cây họ đậu hoặc luân canh cây họ đậu với
các loại cây trồng khác; trồng xen cây phân xanh với các loại cây màu: ngô, khoai, sắn...;
hoặc trồng các loại cây có bộ rễ ăn nông như: dứa, dứa sợi,.... Những nơi có địa hình cao
và dốc nên ưu tiên để trồng cây lâm nghiệp. Khuyến khích áp dụng biện pháp nông lâm
kết hợp sẽ có hiệu quả thiết thực hơn.
2.5 Đất nâu vàng trên phù sa cổ: Loại đất này thường có ở các bậc thềm tiếp giáp
giữa đồng bằng và đồi núi, có đại địa hình dốc thoải về phía đồng bằng. Tuy nó hình
thành trên nền phù sa cổ, nhưng tính chất phù sa đã thay đổi hẳn do địa hình khá cao, quá
trình feralit diễn ra làm cho đất đã mang tính chất của đất feralit, tuy mức độ feralit yếu.
Ở những vùng khác nhau, cấu tạo phẫu diện có những nét khác nhau khá rõ. Nhìn chung
nó vẫn mang tính chất của đất phù sa, tầng đất khá dày (0,8 - 1m). Đất đã được trồng trọt
lâu đời, tầng đất mặt bị rửa trôi nhiều các chất dinh dưỡng. Đất có thành phần cơ giới
nhẹ, hàm lượng cấp hạt sét ở tầng dưới cao hơn tầng mặt. Đất có phản ứng chua, độ no
bazơ thường nhỏ hơn 50%. Hàm lượng mùn ở mức trung bình - khá, lân tổng số, lân dễ
tiêu và kali trao đổi đều nghèo. Mức độ kết von và đá ong hóa xảy ra khá mạnh. Những
nơi có mạch nước ngầm dâng cao thì tỷ lệ kết von và đá ong rất lớn, thậm chí có nơi đá
ong xuất hiện ở cả tầng mặt, làm cho đất mất sức sản xuất. Trên đất này có thể trồng được
nhiều loại cây trồng khác nhau, như: chè, cà phê, dứa, cam, quýt, ngô, khoai, đậu đỗ,.. Ưu
điểm của nó là địa hình khá bằng phẳng, tầng đất dày, tơi xốp, gần nguồn nước. Nhưng
chú ý chống xói mòn, áp dụng các biện pháp hạn chế kết von và đá ong hóa xảy ra, đồng
thời đầu tư phân hữu cơ và các loại phân vô cơ khác, vì đất nghèo dinh dưỡng.
Chương 3. Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai
3.1. Bản đồ đất
Sau khi xác định khu vực nghiên cứu có các loại đất nào, tôi tiến hành xây dựng
bản đồ đất cho khu vực đó khu vực huyện Dầu Tiếng có các loại đất sau
Bảng 4.1 Bảng phân cấp đất
STT
Loại Đất
Ký Hiệu
Diện Tích(ha)
Tỉ lệ( %)
1
Đất phù sa gley (Pg)
So1
2506,514
3,789
2
Đất xám (X)
So2
33001,99
49,89
3
Đất xám gley (Xg)
So3
3744,829
5,66
4
Đất vàng nhạt trên đá cát (Fq)
So4
9417,715
14,23
5
Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp)
So5
17208,95
26,01
6
Đất dốc tụ thung lũng (D)
So6
263,3463
0,398
66143,34
100
Tổng
Huyện Dầu Tiếng có tổng diện tích canh tác là 66143,34, trong đó diện tích đất
xám chiếm tỉ lệ lớn nhất với 33001,99 ha chiếm 49,89 % tập trung chủ yếu ở phía Nam
và Tây Nam của huyện. Các loại đất khác có tỉ lệ thấp. Cây măng cụt có thể trồng được
trên loại đất xám đây là điều kiện khá thuận lợi để huyện phát triển trồng cây măng cụt ở
những vùng đất màu mỡ này.
Hình 1 : Bản đồ loại đất
3.2. Bản đồ độ dốc
Bảng 4.3 Bảng phân cấp độ dốc
STT
Độ dốc
Ký hiệu
Diện tích (ha)
Tỉ lệ(%)
1
≤ 30
Sl1
57294,78
86,62
2
30 - 80
Sl2
6086,47
9,2
3
80 - 150
Sl3
0
0
4
150 - 200
Sl4
0
0
5
200 - 250
Sl5
2762,08
4,18
66143,34
100
Tổng
Địa bàn huyện có độ dốc khá thấp (tương đối bằng phẳng) với tỉ lệ diện tích
86,62% có độ dốc ≤ 30 đây là một lợi thế cho huyện để phát triển các cây nông
nghiệp,công nghiêp với diện tích này thích hợp trồng cây măng cụt.
Hình 2: Bản đồ độ dốc
3.3. Bản đồ tầng dày
Bảng 4.5 Bảng phân cấp tầng dày
STT
Tầng Dày (cm)
Ký hiệu
Diện tích( ha)
Tỉ lệ ( % )
1
2
3
50 - 70
70 - 100
>100
Tổng
De1
De2
De3
62997,83
2982,23
163,28
66143,34
95,24
4,5
0,24
100
Nhìn vào hình 3: Bản đồ tầng dày huyện Dầu Tiếng và Bảng 4,5 (bảng phân cấp tầng
dày) ta có thể thấy diện tích đất có tầng dày từ 50 – 70 cm chiếm diện tích rất lớn trên
toàn huyện Dầu Tiếng (hơn 95%). Đấy được xem là một yếu tố bất lợi trong việc trồng
cây măng cụt. Bởi lẽ, măng cụt cần tầng đất dày, bộ rẽ cắm sâu vào long đất (thích hợp
với tầng dày từ 70 – 100 cm – De2) nhưng diện tích De2 chỉ chiếm 4,5% diện tích đất
trên toàn huyện.
Hình 3: Bản đồ tầng dày