HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
----------------------Chủ đề:
Đào tạo dạy nghề trong các trường cao
đẳng ở Thế giới và Việt Nam
& Nhân tố ảnh hưởng
Thành viên nhóm: Nguyễn Thị Thu Hằng
Nguyễn Thu Hằng
Nguyễn Thị Hồng Nghĩa
Đoàn Lan Phương
Nguyễn Ngân Sơn
Nguyễn Phương Thảo
Nguyễn Hải Yến
Lớp : CH 17H
I.
Lời mở đầu
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì việc dạy nghề đang ngày càng trở nên quan
trọng. Đó chinh là lý do vì sao các chương trình giáo dịch nghề nghiệp được phổ biến.
Đào tạo giáo dục dạy nghề cung cấp cho học sinh những chương trình giáo dục và kỹ
thuật mà họ quan quan. Học sinh được chuẩn bị như những thực tập sinh với công
việc ngành nghề cụ thê liên quan lĩnh vực thực tế họ muốn theo đuổi trong tương lai.
Giảng viên sẽ truyền đạt cho sinh viên những kiến thức mà lĩnh vực của họ yêu
cầu.Các trường cao đẳng luôn cung cấp chứng chỉ trong lĩnh vực dạy nghề khác nhau .
Họ cũng cung cấp các chương trình mức độ nhất định mà tập trung vào một số ngành
nghề phổ biến . Các trường dạy nghề mở rộng mỗi năm bao gồm các lĩnh vực mà là
tại một thời điểm phi truyền thống cho khu vực này .
Việc đào tạo nghề đòi hỏi thường diễn ra ít thời gian hơn so với với các chương trình
học đại học bốn năm nên kinh phí dành cho những khóa học này thường ít tốn kém .
Ở những khóa học này, Giảng viên kết hợp việc sử dụng các kế hoạch bài giảng , tài
nguyên giáo viên , bảng tính và các công cụ khác trong quá trình này . Một sự khác
biệt với các chương trình giáo dục khác là thành phần đào tạo trên trong công việc .
Nhiều sinh viên sẽ có cơ hội làm việc trong lĩnh vực của họ khi được giáo dục . Một
số sẽ được chấp nhận vào chương trình học nghề có giá trị.
Một số các công việc trong lĩnh vực dạy nghề bao gồm công nhân xây dựng , thợ rèn ,
và công nhân thép . Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu phát triển của từng quốc gia, đào
tạo nghề đã mở rộng và đa dạng hóa nhiều ngành nghề đào tạo như bán lẻ , du lịch ,
và thẩm mỹ . Một số phần của các lĩnh vực công nghệ thông tin được giảng dạy trong
chương trình giáo dục nghề nghiệp.
II. Đào tạo dạy nghề trong các trường cao đẳng trên Thế giới
1. Đào tạo dạy nghề tại một số nước trên Thế giới
Tại NA UY (NORWAY)
Mô hình đào tạo
Mô hình chung của đào tạo nghề ở Na Uy là “2+2”, nghĩa là 2 năm học đại cương và
2 năm học nghề tại nhà máy hoặc DN. Ngoài ra, dựa trên mô hình chung này, các tổ
chức đào tạo nghề Na Uy đã thiết lập và xây dựng thêm nhiều mô hình biến thể linh
hoạt và uyển chuyển như “mô hình 1+ 3” (1 năm học tại trường và 3 năm học nghề),
“mô hình 0+ 4” (cả 4 năm đều học nghề) v.v…
Các cơ sở dạy nghề ở Na Uy có được sự liên kết chặt chẽ đối với các đối tượng liên
quan. Đặc biệt là có sự hợp tác ba bên chặt chẽ của Tổ chức giới chủ, Công đoàn và
đại diện cơ quan giáo dục từ cấp quốc gia, đến cấp tỉnh và địa phương. Các đối tác
liên quan đặc biệt ủng hộ với độ tin cậy cao về chất lượng đào tạo của mô hình dạy
nghề này. Thêm vào đó, trong tình hình thị trường lao động tương đối khan hiếm hiện
nay, các chủ DN rất quan tâm đến việc thực tập sinh.
Trái với Na Uy, thị trường lao động Việt Nam đang bị các DN “thả nổi”. Các DN và
các TTDN ở Việt Nam chưa thực sự bắt tay hợp tác với nhau nên mới có tình trạng
thợ đào tạo ra không đáp ứng nhu cầu của DN, thị trường lao động Việt Nam ở trong
tình trạng “thừa mà thiếu”. DN luôn “than” khó tuyển dụng lao động có kĩ năng và
chuyên môn nghề nghiệp và ngược lại, người lao động cũng luôn trong tình trạng phải
“nhảy việc” thường xuyên do không tương thích với DN.
Về tính liên kết giữa các bên liên quan trong công tác đào tạo và dạy nghề, rõ ràng các
DN Việt Nam cần phải học hỏi nhiều từ các mô hình đào tạo nghề của Na Uy.
Nguyên tắc đào tạo
Ở Na Uy, những người lựa chọn con đường học nghề sẽ kí hợp đồng với một
công ty mà công ty này phải được cơ quan có thẩm quyền công nhận là DN đào tạo.
Trong khoảng thời gian 2 năm thực hành về một ngành nghề cụ thể, DN cần phải bảo
đảm nguyên tắc: Năm 1 các công nhân lành nghề sẽ hướng dẫn về kĩ thuật. Năm 2
giảm bớt hướng dẫn, tăng việc tự học. Học viên sẽ được hưởng lương học việc trong
cả 2 năm học. Sau khi kết thúc học việc, học viên sẽ được trao chứng chỉ và bắt đầu
có thể tìm kiếm việc làm. Các mô hình đào tạo nghề khác cũng hoạt động dựa trên
nguyên tắc của mô hình “2+2”.
Về nội dung chương trình dạy nghề sẽ do Các tổ chức 3 bên cấp quốc gia có
nhiệm vụ xây dựng giáo trình dạy nghề và tổ chức đào tạo nghề. Nội dung đào tạo
được soạn thảo dựa trên nguyên tắc: Xây dựng kiến thức cơ bản về đọc, viết, làm
toán, khoa học, ngoại ngữ và các kĩ năng thực tiễn.
Các tổ chức ba bên cấp khu vực – Ban đào tạo- chịu trách nhiệm xác định quy
mô đào tạo nghề, kinh phí của chính phủ cấp cho đào tạo nghề, cung cấp dịch vụ đào
tạo nghề, giám sát và tổ chức các cuộc thi cấp chứng chỉ đào tạo nghề v.v…
Ông Kurt Nilsen cho biết hầu hết các nội dung của chương trình đào tạo nghề
đều dựa trên triết lý của Cựu Thủ tướng Na Uy – Gro Harlem Brundtland: “Mục tiêu
chung của tất cả hệ thống giáo dục đào tạo nghề là phải cung cấp được kiến thức đồng
bộ giữa lý thuyết và thực hành để người học có thể ứng dụng những kinh nghiệm thực
tế vào cuộc sống”.
Theo đánh giá của tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống đào tạo nghề của Na Uy khá
toàn diện và ít khiếm khuyết khi kết hợp quá trình đào tạo nghề với chương trình giáo
dục phổ thông. Sự kết hợp này đã tạo điều kiện để những người thợ có thể học lên cao
hơn khi họ muốn để có một tương lai sự nghiệp vững vàng hơn.
Ở Na Uy: Mô hình cao đẳng nghề:( nguồn />Tại My
Lớp học có sĩ số nhỏ, thường 20-25 sinh viên, ít hơn nhiều so với các trường
cao đẳng và đại học truyền thống.
-
Lịch trình học tập cũng linh hoạt hơn. Các khóa học bắt đầu tại nhiều thời
điểm khác nhau trong năm.
-
Ctrình đào tạo chuyên sâu có thể chỉ kéo dài một vài tuần hoặc vài tháng.
Một số trường dạy vào buổi tối hoặc cuối tuần, một số trường khác dạy các
khóa học liên quan đến đào tạo thực tế các kinh nghiệm liên quan đến một công việc
cụ thể.
-
Cung cấp chương trình thực tập.
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triển như Đức, Mỹ,
Anh, Pháp, Nhật Bản đã quan tâm đến vấn đề đào tạo nghề và quản lý quá trình đào
tạo nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội công nghiệp. Do đặc điểm, yêu cầu về
nguồn nhân lực, đội ngũ công nhân kỹ thuật ở mỗi nước có khác nhau nên không chỉ
có lĩnh vực đào tạo nghề mà cả phương pháp, hình thức, qui mô đào tạo cũng như có
sự khác nhau song có điểm chung là đều chú trọng đến sự phát triển kiến thức, kỹ
năng và thái độ nghề nghiệp.
Thí dụ: tại Mỹ, đào tạo công nhân kỹ thuật được chú trọng và tiến hành ngay từ cấp
THPT phân ban và các trường dạy nghề cấp trung học, các cơ sở đào tạo nghề sau
THPT. Học sinh tốt nghiệp được cấp bằng chứng nhận và chứng chỉ công nhân lành
nghề và có quyền được đi học tiếp theo. Thời gian đào tạo dao động từ 2 đến 7 năm
tùy thuộc vào từng nghề đào tạo. Các loại trường tư thuộc vào các công ty tư nhân mà
công ty của họ khá lớn. Các nhà trường trong công ty đào tạo công nhân ngay trong
công ty mình và có thể đào tạo cho công ty khác theo hợp đồng.
Tại Đức
Sớm hình thành hệ thống đào tạo nghề và hệ TCCN. Giáo dục chuyên nghiệp
là bộ phận trung học cấp hai của hệ thống giáo dục quốc dân với các loại hình trường
đa dạng. Họ đã phân thành 2 loại trình độ: trình độ 1 được xếp vào bậc trung học
tương đương với TNPT từ lớp 9 đến lớp 12, trình độ 2 được xếp cao hơn bậc sau
THPT. Ngoài trường phổ thông mang tính không chuyên nghiệp chỉ nhằm mục tiêu
đào tạo chuẩn bị lên Đại học còn có các trường phổ thông chuyên nghiệp, trường hỗn
hợp… học sinh các loại trường này có thể vào học ở các trường Đại học chuyên
ngành. Sau khi tốt nghiệp chủ yếu học sinh ra làm việc sơ cấp. Do các loại hình
trường rất đa dạng nên không có mô hình tổ chức quản lý đồng nhất giữa các trường,
nhất là các bang khác nhau, có trường công lập, tư thục, có trường thuộc công ty tư
nhân chuẩn bị phần nhân lực cho công ty.
Cho đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đều bố trí hệ thống giáo dục kỹ thuật và
dạy nghề bên cạnh bậc phổ thông và đào tạo bậc cao đẳng, đại học. Do sớm có hệ
thống đào tạo nghề nên các nước tư bản phát triển đã tích lũy đc nhiều kinh nghiệm
trong quá trình đào tạo. Quá trình đào tạo cũng như quản lý đào tạo liên tục đc hoàn
thiện, đổi mới để đảm bảo chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc sống.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Liên Xô trước đây cũng sớm quan tâm đến vấn
đề đào tạo nghề, với những đóng góp quan trọng của các nhà giáo dục, nhà tâm lý học.
Dưới góc độ giáo dục học nghề nghiệp, tâm lý lao động, tâm lý học kỹ sư, tám lý học
xã hội, tuy nhiên theo nhận xét của Kudrixep những nghiên cứu trong lĩnh vực dạy
học và giáo dục nghề vào những năm 70 của thế kỷ XX còn mang tính từng mặt, một
chiều nên chưa giải quyết được một cách triệt để vấn đề chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước
vào cuộc sống và lao động. Quá trình hình thành nghề lúc đó được chia thành bốn giai
đoạn tách rời nhau, đó là: Giai đoạn nảy sinh dự định nghề và bước vào học các
trường nghề; giai đoạn học sinh lĩnh hội có tính chất tái tạo những trí thức, kỹ năng
nghề nghiệp; giai đoạn thích ứng nghề và cuối cùng là giai đoạn hiện thức hóa từng
phần hoạt động nghề. Quá trình hình thành nghề trải qua bốn giai đoạn nhưng chúng
có sự gắn bó mật thiết với nhau. Quan điểm này của tác giả đã tạo nên nhận thức mới
về hình thành nghề, là cơ sở khoa học để xây dựng mô hình đào tạo nghề và nâng cao
chất lượng đào tạo nghề.
Thành tựu của các nước trên thế giới trong công tác đào tạo nghề:
-
Tạo nguồn lực đảm bảo kế hoạch phát triển cho công cuộc “hiện đại hoá” nền
kinh tế các nước.
-
Gắn kết các dự án đào tạo giữa các trường, viện với các tổ chức kinh tế dưới
các hình thức hợp tác/ ủy thác (Theo đó, hiện tại Nhật Bản có 3.205 trường đào tạo
nghề với hơn 669.669 học sinh (năm 2014). Và kể từ khi thành lập vào năm 1976 đến
nay vẫn luôn phát triển với vai trò là trung tâm cung cấp nguồn nhân lực có trình độ
cao. Thậm chí hiện nay, nhiều doanh nghiệp tại Nhật Bản vẫn đánh giá cao đội ngũ
nguồn nhân lực được đào tạo ở các trường nghề hơn là tốt nghiệp từ các trường đại
học.)
-
Hệ thống giáo dục rất linh hoạt và luôn hướng đến khả năng, sở thích cũng như
năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát huy cao nhất tiềm năng của
mình
-
Công tác đào tạo nghề có chiến lược phổ cập tiếng Anh, cải thiện nguồn nhân
luTại Cộng hòa Séc, nước này đã xây dựng vàực, chiến lược phát triển giáo dục đào
tạo dạy nghề và lien kết các hoạt động nghiên cứu, chiến lược phát triển đội ngũ giáo
viên, …..
2. Kết quả đạt được trong công tác dạy nghề
-
Cung cấp nguồn lực có tay nghề cao với đa dạng ngành nghề đảm bảo đáp ứng
-
cho sự phát triển” nền kinh tế các nước.
Gắn kết các dự án đào tạo giữa các trường, viện với các tổ chức kinh tế dưới
-
các hình thức hợp tác/ ủy thác
Hệ thống giáo dục rất linh hoạt và luôn hướng đến khả năng, sở thích cũng như
năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát huy cao nhất tiềm năng
-
của mình
Tăng tỷ lệ việc làm tại các nước đang phát triển
III. Đào tạo dạy nghề trong các trường cao đẳng ở Việt Nam
1. Thất nghiệp ở Việt Nam
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam trong suốt
10 năm qua đều có xu hướng giảm và đều dưới 5,4 %, đây là mức thấp so với nền
kinh tế thế giới.
Dân số trung bình năm 2016 của cả nước ước tính 92,7 triệu người, tăng 988
ngàn người, tương đương tăng 1.08% so với năm 2015, bao gồm dân số thành thị 32
triệu người, dân số nông thôn 60,6 triệu người. Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong 6 tháng đầu năm nay ước tính 53,3 triệu người, bao gồm 22,5 triệu người đang
làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; khu vực công nghiệp và xây dựng
13 triệu người; khu vực dịch vụ 17,8 triệu người.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước đến thời điểm 01/07/2016
ước tính là 54.4 triệu người, tăng 654 ngàn người so với cùng thời điểm năm 2015.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính 47.5 triệu người, tăng 263 ngàn
người so với cùng thời điểm năm trước.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động 6 tháng đầu năm 2016 là
2,27% (năm 2013 là 2,18%; năm 2014 là 2.10%, năm 2015 là 2.31%). Năng suất lao
động mặc dù đã cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và
không đồng đều giữa các ngành và lĩnh vực. Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong 6 tháng đầu năm nay ước tính 53.3 triệu người, bao gồm 22.5 triệu người đang
làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; khu vực công nghiệp và xây dựng
13 triệu người; khu vực dịch vụ 17.8 triệu người.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động 6 tháng đầu năm 2016 khu vực thành
thị là 3,18% (năm 2013 là 3,59%; năm 2014 là 3,40%; năm 2015 là 3,29%); khu vực
nông thôn là 1,81% (năm 2013 là 1.54%; năm 2014 là 1.49%, năm 2015 là 1,83%).
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Theo Tổng cục Thống kê, nền kinh tế khởi sắc với sự phát triển mạnh của khu
vực công nghiệp và dịch vụ là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ
thất nghiệp ở khu vực thành thị.
2. Thực trạng đào tạo nghề ở Việt Nam
a. Quy mô đào tạo
Trong năm 2015, Việt Nam có trên 1400 cơ sở dạy nghề, trong đó có 45 trường
được chọn để tập trung đầu tư thành trường chất lượng cao vào năm 2020. Cùng với
sự phát triển các CSDN, số lượng tuyển sinh học nghề cũng không ngừng tăng
lên. Kết quả tuyển sinh học nghề trong 5 năm (2011 - 2015) được 9.171.371 người,
trong đó CĐN và TCN chiếm 12,2 %; sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng chiếm
87,8 %. Năm 2015, tuyển sinh đạt được 1.979.199 người, trong đó CĐN, TCN chiếm
10,6 %. Tỷ lệ này giảm 4,7 % so với năm 2014. Mặc dù kết quả tuyển sinh trong giai
đoạn 2011 - 2015 chưa đạt mục tiêu Chiến lược đề ra, song kết quả tuyển sinh của giai
đoạn này được hơn 9,1 triệu người, đạt 95,5% so với mục tiêu chiến lược đề ra , tăng
18% so với giai đoạn 2006 - 2010 (tăng gần 7,8 triệu người). Tính đến tháng 4/ 2016,
số lượng CSDN tiếp tục tăng, có 1465 cơ sở dạy nghề, gồm 189 trường cao đẳng
nghề, 279 trường trung cấp nghề, 997 trung tâm dạy nghề., tăng 3,5 % so với 2010.
Trong tháng 4/2016 cả nước đã tuyển sinh khoảng 282000 người, đạt 13,11% kế
hoạch năm. Trong đó, đào tạo nghê cho lao động nông thôn, theo quyết định 1956/QĐ
– TTg là 50000 người.
b. Chất lượng đào tạo nghề
Chất lượng đào tạo nghề từng bước được nâng lên, thể hiện qua kết quả tốt
nghiệp và tìm được việc làm sau đào tạo. Năm 2015, tỷ lệ học sinh học nghề tốt
nghiệp có việc làm đạt khoảng 70%. Nhiều trường có những nghề trên 90% học viên
có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Một số nghề có số lượng HSSV có việc làm ngay
sau khi tốt nghiệp chiếm tỷ lệ cao (đối với các nghề có số lượng học viên tốt nghiệp
lớn hơn 500 người) như: Kỹ thuật khai thác mỏ hầm lò (94%), Kỹ thuật cơ điện mỏ
hầm lò (94%), Hàn (91%), Công nghệ dệt (87%), Công nghệ hóa nhuộm (85%); Kỹ
thuật xây dựng (86%), Lâm sinh (82%); May thời trang (81%), Kỹ thuật dược (81%);
Nguội sửa chữa máy công cụ (79%); Nghiệp vụ nhà hàng (77%).
Lao động qua ĐTN tham gia vào hầu hết các lĩnh vực ngành nghề của các KCN;
đã đảm nhận được các vị trí, công việc phức tạp mà trước đây phải do kỹ thuật
viên nước ngoài thực hiện. Hiện, đang chuẩn bị các điều kiện để thí điểm đào tạo chất
lượng cao theo tiêu chuẩn của Úc (tiếp cận chất lượng quốc tế).
Hình thức đào tạo: hợp tác với doanh nghiệp
Hiện nay có nhiều hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp và CSDN, bao gồm các
nội dung về trao đổi, cung cấp nguồn lực giữa CSDN và doanh nghiệp; trao đổi thông
tin giữa CSDN và doanh nghiệp; hỗ trợ của doanh nghiệp với sinh viên học nghề; hợp
đồng đào tạo cho lao động của doanh nghiệp.... sự hợp tác giữa doanh nghiệp và
CSDN còn được thực hiện thông qua các hoạt động: mời cựu sinh viên về nói chuyện
với sinh viên đang học; mời chuyên gia doanh nghiệp về giảng dạy; doanh nghiệp cấp
học bổng cho sinh viên, tài trợ thiết bị dạy nghề cho nhà trường; hợp tác xây dựng chỉ
tiêu, kế hoạch đào tạo; tham gia xây dựng chương trình đào tạo,... Một số doanh
nghiệp đã hỗ trợ thiết bị cho dạy nghề cho CSDN; bố trí việc làm cho sinh viên tốt
nghiệp….
Qua khảo sát tại các CSDN, có thể nhận thấy “hợp tác đưa sinh viên đến thực tập
tại doanh nghiệp” là hình thức được thực hiện thường xuyên, phổ biến nhất tại các
trường dạy nghề. Chương trình hợp tác này được đánh giá cao nhất so với các nội
dung khác, có ảnh hưởng nhiều nhất tới kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp của
sinh viên. Theo một số khảo sát của các nhóm nghiên cứu khác nhau, đa số các doanh
nghiệp đều sẵn sàng, ở các mức độ khác nhau, tham gia các hoạt động hợp tác đào tạo
với CSDN.
Hiện nay, tiềm năng phát triển các chương trình hợp tác với doanh nghiệp trong
các CSDN còn rất lớn và được phía doanh nghiệp ủng hộ. Nếu khai thác tốt chất
lượng sinh viên tốt nghiệp sẽ được hoàn thiện, đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao
động.
Hạn chế trong đào tạo nghề hiện nay ở Việt Nam
Dù đạt được một số kết quả nhất định, song công tác đào tạo nghề cho LĐNT vẫn
còn những tồn tại, bất cập, đó là việc triển khai đề án đào tạo nghề ở một số địa
phương còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch nông thôn mới. Việc tổ chức dạy nghề ở một số nơi còn hình thức,
chạy theo số lượng, chất lượng chưa cao, chưa phù hợp với đặc điểm vùng, miền và
nhu cầu của người học nghề, người sử dụng lao động, dẫn đến khó duy trì nghề lâu
dài. Như nghề mây tre đan, dễ học, dễ áp dụng nhưng phần lớn lao động sau học nghề
mới chỉ sản xuất được những mặt hàng đơn giản, chưa thể sản xuất được những mặt
hàng chất lượng cao, mẫu mã đa dạng phục vụ xuất khẩu
Bên cạnh đó, việc khôi phục các nghề truyền thống quy mô còn hạn chế, nhiều
ngành nghề bị mai một do không còn phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Số lượng doanh
nghiệp tham gia đào tạo nghề còn ít, cá biệt có doanh nghiệp chỉ chạy theo xu thế
hưởng lợi trong chính sách đào tạo, chưa thực sự quan tâm đến chất lượng, hiệu quả
đào tạo. Đối với các huyện miền núi, huyện nghèo, việc đào tạo nghề cho LĐNT còn
khó khăn hơn do trình độ dân trí không đồng đều, thời gian đào tạo quá ngắn nên tay
nghề của người lao động chưa cao. Có học viên đi học cho có để nhận hỗ trợ, chưa
thực sự chú tâm vào nghề đã học. Có nơi cả làng đi học một nghề, một người học 2 –
3 nghề nhưng lại không thể mưu sinh bằng nghề đã học.
Hiện nay, phần lớn các cơ sở dạy nghề vẫn còn tình trạng đào tạo theo năng lực
của cơ sở, tập trung vào các nghề như điện, điện tử, sửa chữa xe máy, cơ khí, may
mặc, kế toán, tin học… mà chưa chú trọng đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao
động. Ngay cả những trường được đầu tư bài bản, thì các ngành nghề đào tạo giữa các
trường còn chồng chéo, chưa có các ngành nghề kỹ thuật cao theo yêu cầu của thị
trường. Có thể thấy rõ ở việc các trường được coi là có chất lượng như Cao đẳng
Nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, Cao đẳng nghề Việt - Đức, Cao
đẳng nghề số 4, Cao đẳng nghề số 1…, đều đào tạo các ngành cơ khí, sửa chữa ô tô,
xe máy, điện, hàn…., Trong khi, có đến 16 nghề thuộc nhóm nông nghiệp và một số
nghề có nhu cầu lao động cao thuộc nhóm nghề công nghệ kỹ thuật cơ khí như: Nghề
nguội chế tạo, Nghề nguội lắp ráp cơ khí, rèn, dập và Một số nghề thuộc nhóm nghề
công nghệ dầu khí và khai thác... không được quan tâm. Các ngành nghề sản xuất và
phục vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản cũng chưa được
chú trọng đào tạo, trong khi những sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thuộc
các lĩnh vực này..
Nhiều trường nghề thiết bị lạc hậu
Rất ít trường nghề đáp ứng được 100% quy mô đào tạo, đa phần mới đáp ứng được
trên 50% quy mô đào tạo theo tiêu chuẩn, quy định ban hành. Thêm nữa, đa phần các
trường chưa đạt tiêu chuẩn về diện tích phòng học theo quy định. Một số trường chưa
có cơ sở riêng phải thuê giảng đường, phòng làm việc. Thư viện của các trường nhỏ,
chỉ đáp ứng khoảng 1% nhu cầu của người học, số lượng đầu sách nghèo nàn. Khi
sinh viên đến đợt thực tập, mặt bằng các xưởng không đủ diện tích tiêu chuẩn lắp đặt
thiết bị và bố trí đủ vị trí thực hành cho sinh viên. Ngoài ra, giáo trình và chương trình
đào tạo ở nhiều trường nghề chưa phù hợp với nhu cầu tuyển dụng của các chủ cơ sở
kinh doanh, chủ doanh nghiệp. Ví như nghề may, dù ngành may mặc thời trang nhu
cầu tuyển dụng khá cao, nhưng đa phần các đơn vị chấp nhận tuyển người chưa có tay
nghề về và đào tạo lại. Trong khi đó, chương trình dạy nghề may ở các trường từ
trung cấp đến cao đẳng nghề chỉ đào tạo công nhân may công nghiệp hoặc đào tạo
theo đơn đặt hàng của các công ty, chậm đổi mới, chậm thích nghi với yêu cầu thực
tiễn.
Quốc tế đánh giá chất lượng lao động Việt Nam
Người lao động Việt Nam được đào tạo ra vẫn không có việc làm do thiếu kỹ
năng, do ngành nghề đào tạo không phù hợp nhu cầu thực tiễn… trong khi, nhu cầu về
kỹ năng cao ngày càng tăng và xã hội ngày càng đòi hỏi trình độ lao động cao hơn.
Theo đánh giá của ILO công bố trong năm 2014, năng suất của lao động Việt Nam
thuộc nhóm thấp ở Châu Á - Thái Bình Dương và ở ASEAN: Chỉ bằng 1/15 so với
Singapore; bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan, chưa kể so sánh với năng xuất lao
động của Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Ấn Độ, Newzealand… là những đối tác đã
có các hiệp định quan trọng với ASEAN.
Ngoài ra, theo các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB), sự chuẩn bị kiến thức,
kỹ năng; thái độ và tâm lý để sẵn sàng di chuyển sang làm việc tại các nước ASEAN
của lao động Việt Nam là chưa cao. Chỉ xét về đào tạo ngoại ngữ ở Việt Nam, kể các
thành phố lớn, rất ít lao động Việt Nam được học ngôn ngữ của các nước ASEAN. Về
khả năng sử dụng tiếng Anh, thí sinh Việt Nam có điểm trung bình 5,78 (theo thang
điểm từ 0 - 9), thuộc nhóm trung bình thấp; đứng sau Malaysia (6,64), Philippines
(6,53), Indonesia (5,97).
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề ở Việt Nam
Trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay, giáo
dục nghề đang được coi là điểm đột phá quan trọng để tạo ra một nền giáo dục lành
mạnh, góp phần đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời các yêu cầu về nhân lực kỹ
thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, có nhiều
yếu tố tác động, làm cho giáo dục nghề ở nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập cần sớm
sớm được khắc phục.
Do vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo nghề cần thiết phải xác định rõ những
yếu tố ảnh hưởng tới nó, bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan:
• Về khách quan:
Thứ nhất, về đội ngũ giảng viên dạy nghề (GVDN). Trong những năm qua,
cùng với sự nghiệp phát triển dạy nghề, đội ngũ GVDN tăng nhanh về số lượng và
chất lượng, từng bước được nâng lên về chuẩn trình độ, kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư
phạm. Hơn nữa, GVDN luôn được đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu
ngày càng cao của các ngành nghề lao động trong nước và quốc tế.
Hiện nay, chính sách đối với GVDN từng bước được quan tâm, như được
hưởng các chính sách chung đối với nhà giáo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ngoài
ra, còn có một số chế độ, chính sách riêng đối với GVDN như: chế độ làm việc, chế
độ sử dụng, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ; chính sách về phụ cấp cho
giảng viên khi dạy thực hành các nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và phụ cấp đặc
thù của GVDN cho người tàn tật, khuyết tật. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ, nhất là
tiền lương vẫn chưa thật sự hợp lý. GVDN chưa có ngạch lương riêng, mà vẫn hưởng
theo ngạch lương của giảng viên trung học (theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP, ngày
14-12-2004). Giảng viên dạy trình độ cao đẳng nghề chưa được hưởng chế độ tiền
lương như giảng viên của các trường cao đẳng khác.
Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng không thu hút được
những người có trình độ, có tay nghề giỏi, có kinh nghiệm trong sản xuất chuyển về
làm GVDN. Ngược lại, nhiều GVDN có trình độ tay nghề giỏi lại muốn chuyển ra sản
xuất tại các doanh nghiệp để có thu nhập cao hơn.
Bên cạnh đó, chúng ta chưa có những chính sách khuyến khích động viên đối
với giảng viên tự phấn đấu nâng cao trình độ; chưa có cơ chế, chính sách để doanh
nghiệp và cơ sở dạy nghề tạo điều kiện cho GVDN được đi thực tế tại các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ hàng năm.
Mặc dù số lượng GVDN những năm qua tăng đáng kể nhưng so với yêu cầu
đổi mới và phát triển dạy nghề, số lượng GVDN vẫn còn thiếu trầm trọng. Cơ cấu
ngành nghề đào tạo GVDN chưa hợp lý, một số nghề chưa có giảng viên được đào tạo
cơ bản, kỹ năng nghề còn hạn chế, tỷ lệ giảng viên dạy tích hợp còn thấp so với yêu
cầu của chương trình đào tạo. Trình độ ngoại ngữ, tin học của GVDN còn yếu, hạn
chế khả năng cập nhật công nghệ mới, ứng dụng tin học và các phương pháp sư phạm
hiện đại. Khả năng phát triển chương trình, biên soạn giáo trình, tài liệu dạy nghề của
GVDN còn hạn chế.
Trong phát triển GVDN, chúng ta cũng đang đối mặt với những thách thức bởi
hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Tuy được tiếp cận với những kiến thức mới,
công nghệ mới, mô hình dạy nghề hiện đại, mở rộng trao đổi kinh nghiệm, có cơ hội
tiếp cận, thu hút các nguồn lực bên ngoài cho phát triển dạy nghề, song năng lực nói
chung của GVDN nước ta chưa đáp ứng và thích ứng kịp thời các yêu cầu đặt ra. Xu
hướng đa dạng hóa các loại hình và phương thức giáo dục - đào tạo, phát triển đào tạo
từ xa, qua mạng cũng như sự thay đổi chức năng và mô hình của các cơ sở dạy nghề
đều khó khăn đối với GVDN nước ta, nhất là trong bối cảnh khoa học công nghệ và
nghề nghiệp thế giới luôn biến đổi mau lẹ.
Thứ hai, cơ cấu ngành, nghề đào tạo vẫn chưa thật phù hợp với cơ cấu ngành,
nghề của thị trường lao động; chưa bổ sung thường xuyên các nghề đào tạo mới theo
yêu cầu của thị trường lao động; thiếu lao động kỹ thuật trình độ cao cung cấp cho các
doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn, ngành kinh tế trọng điểm và cho xuất
khẩu lao động.
Thứ ba, chất lượng dạy nghề vẫn còn thấp, nội dung chương trình, giáo trình
giảng dạy chất lượng chưa cao, chưa gắn chặt lý luận với thực tiễn, tính lôgic, tính
khoa học chưa cao, thường không thỏa mãn nhu cầu của người học và nhu cầu của thị
trường lao động; nội dung đào tạo ít phù hợp với sự thay đổi nhanh công nghệ sản
xuất của doanh nghiệp. Thực tế các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề mới được
nâng cấp trong những năm gần đây nên cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho
giảng dạy, học tập, thực hành còn rất hạn chế, đội ngũ giảng viên cũng chưa có nhiều
kinh nghiệm. Trình độ năng lực cũng chưa tương xứng với vị trí cũng tác động ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo.
Thứ tư, số lượng các cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp còn ít, chưa đáp ứng
được nhu cầu lao động có tay ghề giỏi, thuần thục của bản thân doanh nghiệp. Mối
quan hệ giữa các trường dạy nghề với doanh nghiệp còn lỏng lẻo (cả về trách nhiệm
và quyền lợi) nên trên thực tế các trường vẫn chủ yếu đào tạo theo khả năng "cung"
của mình chứ chưa thực sự đào tạotheo "cầu" của doanh nghiệp. Nhiều trường chỉ đào
tạo những kiến thức mình có chứ chưa hướng tới kiến thức mà xã hội cần.
Thứ năm, người lao động qua đào tạo nghề, kỹ năng thực hành và khả năng
thích ứng với sự thay đổi công nghệ của doanh nghiệp còn hạn chế. Điều này có “lỗi”
từ hệ thống giáo dục nước nhà, trong đó việc tổ chức giáo dục theo kiểu “ứng thí”,
cùng với chưa chú trọng làm tốt công tác hướng nghiệp, làm cho công tác đào tạo
nghề luôn bất cập: trường có nhiều nhưng không có nhiều người học; có trường nhưng
thiếu các điều kiện giảng dạy và học tập, làm cho sản phẩm sau đào tạo không đáp
ứng được yêu cầu cả về tay nghề, tính chuyên nghiệp, phẩm chất đạo đức và kỷ luật
lao động của các cơ sở sản xuất, nhất là đối với các cơ sở sản xuất liên doanh với
nước ngoài hoặc ở nước ngoài.
• Về chủ quan
Một là, vấn đề bất cập nhất hiện nay là thu nhập của GVDN. Trong khi phải
làm việc căng thẳng, vất vả (vừa là một giảng viên vừa là kỹ thuật viên) nhưng thu
nhập từ lương và phụ cấp theo lương lại rất thấp, không đảm bảo cho chính họ và gia
đình một mức sống hợp lý, do vậy khó có thể đòi hỏi GVDN toàn tâm, toàn ý với
nghề. Thực tế này là nguyên nhân dẫn đến khó giữ chân các GVDN có đủ năng lực ở
lại công tác tại các cơ sở dạy nghề.
Đây cũng là nguyên nhân khó thu hút được người giỏi, người có tay nghề cao
làm GVDN và thu hút sinh viên giỏi học các trường đào tạo GVDN để trở thành
GVDN. Do vậy, trước tiên cần thay đổi chính sách đãi ngộ để nhà giáo sống được
bằng lương và các khoản phụ cấp nghề nghiệp, tạo cho họ mức sống ổn định và có thể
vươn lên khá giả bằng khả năng lao động của họ mà xã hội đang rất cần.
Hai là, hiện nay, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng GVDN không thể hiện rõ tính
chuyên nghiệp của một trường nghề. Tình trạng bất cập trong việc bồi dưỡng, phát
triển năng lực hành nghề cho giáo sinh là do những hạn chế về thời lượng và chất
lượng giảng dạy, đồng thời gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức kiến tập, thực
tập. Bên cạnh đó, thực tế khả năng nghiên cứu khoa học của GVDN hiện nay chưa
được chú trọng đúng mức, dẫn đến hoạt động nghiên cứu khoa học của các cơ sở dạy
nghề nói chung và khả năng tham gia nghiên cứu khoa học của GVDN nói riêng còn
rất hạn chế.
Ba là, vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo nguồn lực phát triển đội ngũ
GVDN cho toàn hệ thống, huy động đóng góp của người học theo quy định của pháp
luật, huy động các nguồn lực xã hội hóa, đầu tư của các tổ chức, cá nhân, doanh
nghiệp trong và ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác; tăng cường hợp tác quốc tế
trong việc phát triển đội ngũ GVDN.
Những yếu tố nêu trên đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động dạy nghề trong các
trường nghề ở nước ta hiện nay. Trong đó, đội ngũ GVDN là yếu tố chủ đạo luôn luôn
chịu sức ép giữa cung và cầu trong đào tạo. Vì thế, coi đầu tư phát triển GVDN là đầu
tư "nguồn" quan trọng và có hiệu quả nhất để phát triển nguồn nhân lực nghề nghiệp
hiện nay.
4. Các giải pháp cho đào tạo nghề tại Việt Nam
• Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác dạy nghề, đào tạo nghề
có ảnh hưởng đến sự thành công khi tiến hành CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc
tế. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân cần tích cực thực hiện tốt
chủ trương của Đảng đã được thể hiện trong các văn kiện về phát triển công tác đào
tạo nghề.
• Hoàn thiện quy hoạch hệ thống mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề trong
cả nước, đáp ứng yêu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật và nâng cao trình độ nghề cho
người lao động, phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội đến
năm 2020 của cả nước, ngành, vùng, tiểu vùng, địa phương.
• Bảo đảm các điều kiện để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, nhất là chất
lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhằm tạo cho người lao động Việt Nam có đủ năng
lực tham gia bình đẳng vào thị trường lao động khu vực và thế giới.
• Xây dựng cơ chế, chính sách, khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng
những thành tựu của khoa học vào công tác đào tạo nghề, góp phần không ngừng
nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Có những giải pháp để kiểm soát chất lượng đào
tạo nghề.
• Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư cho phát triển đào tạo nghề,
đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá công tác đào tạo nghề, huy động các nguồn lực cho
phát triển đào tạo nghề. Khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia
tích cực vào công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm sau khi đào tạo nghề.
• Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nghề, mở rộng trao đổi và học
tập kinh nghiệm của các nước phát triển về các hoạt động đào tạo nghề. Có chính sách
thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực đào tạo nghề. Tăng cường vai trò của cộng
đồng, của các đoàn thể, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát hoạt động
đào tạo nghề.