CHUYÊN ĐỀ 2. PHẦN MỞ ĐẦU CỦA LUẬN VĂN
2.1 Phần mở đầu - những điều lưu ý
Phần mở đầu (Lời nói đầu) là phần rất quan trọng. Trong đa số các trường hợp,
người đọc chỉ cần tham khảo phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo là có thể đánh giá được luận văn có đạt chất lượng hay không. Tất nhiên,
việc đạt chất lượng ở mức nào thì phải xem xét cụ thể các chương trong luận
văn đó. Hơn thế nữa, phần mở đầu là những lời giới thiệu sơ khởi, dẫn dắt
người đọc đến nội dung, tạo mối dây liên hệ giữa luận văn và người đọc nên nó
có vai trò quyết định trong việc tạo ra ấn tượng tốt hoặc không tốt đối với luận
văn.
Trong phần mở đầu, không nên sử dụng ngữ pháp ở thì tương lai, vì thực sự
khi công trình đến tay các thành viên hội đồng thì đã được hoàn tất. Theo ngữ
pháp Việt Nam, người viết có thể sử dụng thì hiện tại để diễn đạt trong trường
hợp này.
Phần mở đầu cần phải ngắn gọn và súc tích. Vì vậy, rất nhiều người bắt tay vào
việc viết phần mở đầu, hoặc hoàn chỉnh phần mở đầu sau khi đã hoàn thành tất
cả các chương trong luận văn. Điều này thật ra có một số thuận lợi nhất định vì
ý tưởng khá liền mạch để có một phần mở đầu khá trôi chảy, thống nhất với
nội dung các chương và kết luận.
Trong phần mở đầu, thông thường người viết cần phải nêu các nội dung sau:
- Lý do nghiên cứu (Tính cấp thiết của đề tài)
- Tình hình nghiên cứu
- Mục đích, đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu
- Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu
- Bố cục của đề tài
Các nội dung này lần lượt được lý giải trong các mục tiếp theo ngay sau đây.
2.2 Lý do nghiên cứu (Tính cấp thiết của đề tài)
2.2.1 Nội dung cần biểu đạt
Lý do nghiên cứu là phần thuyết phục người đọc rằng tại sao người viết lại
chọn đề tài này mà không là đề tài khác về hai phương diện khách quan và chủ
quan. Mặc dù đa số các trường hợp việc làm luận văn là bắt buộc để đủ điều
kiện xét tốt nghiệp, nhưng người viết không nên đưa lý do này vào nội dung
của luận văn. Thay vào đó, người viết nên tập trung chỉ ra những nguyên nhân,
động cơ khoa học, tức là những nguyên nhân, động cơ phát sinh trong quá trình
người viết học tập, nghiên cứu khoa học luật. Khi đưa ra những nguyên nhân,
1
động cơ, người viết nên có những bằng chứng khoa học xác thực như những lý
thuyết, kiến thức cơ bản, hoặc những học thuyết mà người viết đã tham khảo.
Tất nhiên, người viết phải trích dẫn rõ ràng nguồn gốc của những “bằng
chứng” này. Nhìn chung, người viết nên tập trung phân tích dưới các góc độ
sau đây:
- Về phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội;
- Về phương diện sáng kiến, ban hành pháp luật;
- Về phương diện thi hành, áp dụng pháp luật;
- Về phương diện nghiên cứu luật (khoa học luật);
- Về đặc thù của ngành công tác, phục vụ cho đơn vị công tác (hiện tại hoặc
tương lai);
- Về khả năng, sở thích và điều kiện nghiên cứu…. Lưu ý, các khả năng, sở
thích này tập trung vào các nội dung phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu và
đề tài nghiên cứu. Thêm vào đó, người viết nên nêu tính mới của đề tài: có thể
tên đề tài không mới nhưng người viết tiếp cận, tìm hiểu đề tài dưới góc độ
mới hoặc vừa có những sửa đổi, bổ sung trong luật mà các công trình khác
không cập nhật hết.
2.2.2 Những điều nên tránh
Người viết luận văn nên lưu ý cần tránh đưa ra các lý do sau đây:
- Nghiên cứu để “mọi người cùng biết”.
- Vì lý do chưa ai chọn đề tài này.
- Vì người viết muốn tạo ra một sản phẩm hoàn toàn mới trong giới nghiên
cứu.
Như trên đã phân tích, lý do nghiên cứu để “mọi người cùng biết” là không
khoa học, bởi vì khác với báo chí, luận văn không thiết kế để cung cấp cho tất
cả mọi người, mà là các đối tượng nghiên cứu khoa học chuyên ngành. Lý do
thứ hai “Vì lý do chưa ai chọn đề tài này” có thể dẫn đến một kết luận từ người
đọc: có thể vì đề tài không có giá trị về mặt khoa học nên không có chuyên gia
nào để mắt nghiên cứu. Mặt khác, người viết cũng cần lưu ý là không “phủ
nhận” những công trình trước đây nếu không biết rõ về các công trình này. Nếu
người viết không tìm thấy công trình nghiên cứu thì cũng không thể khẳng
định là chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này. Thay vào đó, nên xác
định chính xác là người viết không tìm thấy công trình nghiên cứu tương tự
trong lĩnh vực này thì hợp lý hơn.
Riêng lý do thứ hai và thứ ba đưa ra có thể do người viết muốn nêu ra tính mới
của đề tài. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, câu chữ trong tiêu đề luận văn có thể
hoàn toàn mới, nhưng không có nội dung đề tài nào ở bậc cử nhân là hoàn toàn
mới một cách tuyệt đối. Ít nhất nó phải dựa trên những kiến thức khoa học gần
đó hoặc trước đó để “xây thêm viên gạch trong ngôi nhà khoa học”. Vì vậy,
2
người viết cần lý giải thích tính mới của đề tài mình chọn một cách logic và
thuyết phục.
Ví dụ: Có nhiều công trình đã nghiên cứu về vi phạm hành chính và xử lý vi
phạm hành chính trong nhiều lĩnh vực. Mặt khác, nhiều công trình cũng đã
nghiên cứu về giao thông đường thủy ở Đồng bằng sông Cửu long. Tuy nhiên,
khác với lĩnh vực giao thông đường bộ, lĩnh vực vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường thủy chưa được quan tâm nhiều. Đặc biệt, trên địa bàn
tỉnh Cà Mau, người viết chưa tìm thấy công trình nghiên cứu chuyên biệt nào
về “Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy trên địa bàn tỉnh Cà Mau.” Chính vì lẽ đó, người viết chọn
đề tài này làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Với cách đặt vấn đề như vậy, người viết cho người đọc biết mình sẽ tạo mối
dây liên kết giữa “vi phạm hành chính” và “giao thông đường thủy trên địa bàn
tỉnh Cà Mau”, thay vì nói một cách chung chung là “Nghiên cứu này hoàn toàn
mới”.
2.3 Tình hình nghiên cứu
Việc xác định tình hình nghiên cứu đề tài sẽ hộ trợ cho người viết luận văn như
sau:
- Những nội dung mà các nghiên cứu trước đây đã thực hiện, đã hoàn thành.
Từ đây, người viết thể hiện sự chủ động của mình đối với nội dung nghiên cứu:
những nội dung nào đã được nghiên cứu, những nội dung nào còn dang dở,
chưa được nghiên cứu.
- Thông qua việc xác định tình hình nghiên cứu, người viết có thể tiếp cận vấn
đề một cách toàn diện, có hệ thống, góp phần vào việc xây dựng nền khoa học
luật của đất nước.
- Xác định được tính mới của đề tài. Như đã nói ở phần trước, không có nội
dung nghiên cứu nào là “hoàn toàn mới” mà chủ yếu là nghiên cứu ở góc độ
mới, làm cầu nối trong những “bờ” khoa học, điểm giao giữa các chuyên
ngành hẹp, khả năng ứng dụng để giải quyết hoặc góp phần giải quyết một vấn
đề mà thực tiễn đặt ra.
2.4 Mục đích, đối tượng nghiên cứu
Việc xác định mục đích, đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì
nó định hình “hướng đi” cho đề tài. Nghiên cứu là một hoạt động có mục đích,
do vậy, không thể có một kết quả tốt nếu không có mục đích, mục tiêu rõ ràng.
Trên cơ sở mục đích chung của đề tài, người viết xác định các mục tiêu nghiên
cứu cụ thể. Có những nhóm mục đích sau:
- Nghiên cứu ứng dụng: Tìm hiểu những quy định của pháp luật, thực tiễn áp
dụng pháp luật của địa phương nhằm phục vụ cho lĩnh vực công tác sau này.
Đây là nghiên cứu thể hiện nhiều ở bài tiểu luận, không cần bảo vệ, nhằm ứng
3
dụng các nội dung luật thực định và một ít nội dung khoa học, giải quyết công
việc cơ quan trong thời gian sau này. Ưu điểm của mục đích này là tính thực
tiễn cao, gắn với nội dung công việc cụ thể. Tuy nhiên, các công trình theo
nhóm mục đích này thường không đặt ra nhiều những nội dung khoa học luật.
- Nghiên cứu khoa học luật: Nhóm mục đích nghiên cứu này phải có tính khoa
học, tức là mục đích khoa học, nhằm đặt ra vấn đề khoa học luật, giải quyết
vấn đề và đề xuất những nội dung đóng góp vào nền khoa học luật thông qua
một chuyên ngành hẹp, nội dung hẹp. Đây là những nội dung thuộc nhóm đề
tài luận văn cử nhân luật, phải được bảo vệ trước hội đồng chuyên ngành.
2.5 Phạm vi nghiên cứu
Việc xác định phạm vi nghiên cứu chính xác giúp ích cho người viết rất nhiều
trong khâu bố cục và bảo vệ luận văn trước hội đồng. Trước hết, phải xác định
nội hàm của đề tài thông qua các khái niệm cơ bản trong tiêu đề hoặc liên quan
đến nội dung đề tài. Ví dụ đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường thủy” không thể không xác định các khái niệm: vi phạm
hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, giao thông đường thủy, giao thông
đường thủy nội địa.
Trong phạm vi nghiên cứu, người viết nên xác định rõ: thời gian, không gian,
đối tượng nghiên cứu, giới hạn nội dung nghiên cứu. Những điều này sẽ “định
khung” phạm vi ranh giới để làm rõ nội dung trọng tâm. Đồng thời nó giúp loại
trừ những nội dung “ngoại biên”, “lân cận” của đề tài mà giáo viên phản biện
có thể đặt câu hỏi “Tại sao vấn đề này có liên quan mà không thấy đề cập trong
luận văn?”
2.6 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp (methods) và phương pháp luận (methodologies) là những phần
cực kỳ quan trọng trong đề tài. Về nguyên tắc, giả sử có trường hợp vô tình hai
tên đề tài hoàn toàn giống nhau (điều này thật ra không khuyến khích trong
nghiên cứu khoa học), có phạm vi nghiên cứu, phương pháp luận và phương
pháp giống nhau thì kết quả nghiên cứu phải tương đồng nhau dù nó do bất kỳ
ai thực hiện. Điều này, chứng tỏ tính khách quan của việc nghiên cứu, vì nếu
khác đi, chứng tỏ là người viết đã đặt ý chủ quan của mình vào công trình
nghiên cứu.
Nếu không xác định được phương pháp và phương pháp luận, khả năng nghiên
cứu sẽ bị giới hạn, hoặc thậm chí, trong một số trường hợp, không thể tiếp cận
“bản chất” của nội dung. Nếu người viết thể hiện phương pháp và phương
pháp luận tốt, hoàn chỉnh, sau khi đọc qua phương pháp và phương pháp luận,
người đọc có thể đánh giá khả năng thành công của đề tài. Về nguyên tắc, công
trình nghiên cứu bậc càng cao (từ bậc trung cấp, cử nhân, đến thạc sỹ, tiến sỹ),
4
vai trò của phương pháp luận và phương pháp càng quan trọng. Người viết cần
phân biệt giữa phương pháp và phương pháp luận.
2.5.1 Phương pháp luận…
5