QUYỀN SINH SẢN VÀ TÌNH DỤC
CỦA THANH NIÊN KHUYẾT TẬT VIỆT NAM
Nhóm thực hiện nghiên cứu:
Hoàng Tú Anh
Nguyễn Thị Vịnh
Đinh Thị Phương Nga
Dương Thu Phương
Trần Hương Giang
Nguyễn Thị Thành Trung
Hà Nội, tháng 9 năm 2011
1
Từ viết tắt
KT
khuyết tật
NKT
người khuyết tật
CBYT
cán bộ y tế
BPTT
biện pháp tránh thai
BLTQĐTD
bệnh lây truyền qua đường tình dục
SKSSTD
sức khỏe sinh sản tình dục
QHTD
quan hệ tình dục
2
Mục lục
Danh mục các bảng trong báo cáo (làm sau)...............................................................................4
I. Đặt vấn đề....................................................................................................................................5
II. Tổng quan về đề tài ở Việt Nam...............................................................................................6
1. Những vấn đề sức khoẻ sinh sản và tình dục của NKT ở Việt Nam ......................................................6
2. Các chính sách và chương trình liên quan đến sức khoẻ sinh sản và tình dục của NKT ở Việt Nam.....8
3. Các nghiên cứu về sức khoẻ sinh sản và tình dục của NKT ở Việt Nam..............................................10
III. Khung lý thuyết và khái niệm về NKT trong nghiên cứu..................................................10
1. Khung lý thuyết...................................................................................................................................10
2. Khái niệm về NKT trong nghiên cứu....................................................................................................12
IV. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu.........................................................................................12
V. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................................13
1. Cấu phần định tính:............................................................................................................................13
2. Cấu phần định lượng..........................................................................................................................15
3. Đạo đức nghiên cứu...........................................................................................................................16
4. Hạn chế của nghiên cứu.....................................................................................................................17
VI. Kết quả....................................................................................................................................17
1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu..........................................................................................17
2. Nhận thức và thực hiện quyền được yêu...........................................................................................19
3. Nhận thức và thực hiện quyền được QHTD lành mạnh, an toàn, và thoả mãn..................................46
4. Nhận thức và thực hiện quyền kết hôn .............................................................................................64
5. Nhận thức và thực hiện quyền sinh con.............................................................................................72
6. Nhận thức và thực hiện quyền tiếp cận thông tin SKSSTD..................................................................81
7. Nhận thức và thực hiện quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSSTD....................................................90
8. Mức độ hài lòng với cuộc sống của NKT và các yếu tố liên quan đến KT..........................................101
9. Mức độ stress của NKT và các yếu tố liên quan đến KT....................................................................107
VII. Kết luận ..............................................................................................................................110
VIII. Khuyến nghị .....................................................................................................................113
IX. Tài liệu tham khảo...............................................................................................................114
3
Danh mục các bảng trong báo cáo (làm sau)
4
I. Đặt vấn đề
Người khuyết tật (NKT)1 là nhóm thiểu số lớn nhất trên thế giới, chiếm 10% dân số, tương đương
với 650 triệu người và có mặt ở mọi cộng đồng dân cư (UN 2006; WHO and UNFPA 2009).
Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh Xã hội năm 2003, Việt Nam có khoảng 5-6 triệu
NKT, chiếm khoảng 6% dân số (Usaid 2005). NKT đã ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm
hơn của xã hội. Tuy nhiên, hầu hết các vấn đề của NKT được quan tâm tập trung vào các lĩnh vực
như giáo dục hoà nhập, công ăn việc làm, hỗ trợ kinh tế, phục hồi chức năng và chăm sóc sức
khoẻ nói chung, sự quan tâm đến các lĩnh vực này đã được thể hiện cụ thể trong các chính sách
và các chương trình dành cho NKT tại Việt Nam (xem phần tổng quan về các chính sách và
chương trình), trong khi vấn đề tình dục và sức khoẻ sinh sản của NKT hầu như bị bỏ qua trong
các chính sách, chương trình và nghiên cứu.
Điều này có thể một phần được lý giải là do xã hội chưa nhìn nhận đúng về vấn đề tình dục và
sinh sản của NKT. NKT bị xã hội xem là những người vô tính (asexual), tức là không có ham
muốn tình dục, không có khả năng tham gia vào các hoạt động tình dục hoặc không có khả năng
kích thích ham muốn tình dục. Nếu họ thể hiện rằng họ có ham muốn tình dục, có hoạt động tình
dục thì được coi là ‘lệch lạc’ hoặc bất thường (Earle 2001; Wilkerson 2002; Đỗ and Nguyễn
2006; Galvin 2006; Võ 2007). Quan niệm này làm cho NKT phải đối mặt với nhiều rào cản và
khó khăn trong đời sống tình dục của họ. Họ không dám thể hiện họ cũng có ham muốn tình dục
vì sợ bị phán xét và cảm thấy ‘tội lỗi’ khi có ham muốn tình dục, không dám thể hiện mong
muốn có một đời sống tình dục bình thường (Wilkerson 2002; Đỗ and Nguyễn 2006), họ không
dám kết hôn kể cả khi có người yêu và xin cưới họ vì họ nghĩ họ sẽ là gánh nặng của chồng và
gia đình nhà chồng, hoặc họ gặp cản trở trong quá trình kết hôn từ phía hai bên gia đình, gặp
những cản trở trong quá trình sinh con, khó khăn liên quan đến chăm sóc và thông tin về sức
khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục bởi không có nhiều dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và
tình dục mà họ có thể tiếp cận được và được chăm sóc như mong muốn (Đỗ and Nguyễn 2006;
Võ 2007). Vậy nên NKT thường không có được thậm chí là những thông tin cơ bản nhất liên
quan đến sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục, không biết những thực tế cơ bản nhất về bản
thân mình và quyền sinh sản và tình dục của mình (WHO and UNFPA 2009).
Thực tế cho thấy NKT cũng có ham muốn tình dục, cảm nhận tình dục, nhu cầu yêu và được yêu
và nhu cầu chăm sóc sức khỏe tình dục như những người không KT khác Họ có thể hưởng thụ
1
Trước đây ở Việt Nam gọi là người tàn tật. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, người ta có xu hướng gọi là NKT
bởi NKT vẫn có khả thể phát triển tài năng và trí tuệ bình thường giống như PGS.TS Lê Thị Quý, Trung tâm nghiên
cứu Giới và Phát triển phát biểu trong Hội thảo khoa học về sinh kế, việc làm và hỗ trợ xã hội cho NKT ở nông thôn
Việt Nam do Trung tâm nghiên cứu châu Á Thái Bình Dương - Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN phối hợp với
Trung tâm Hợp tác Quốc tế - Đại học Osaka và Đại học Ochanomizu, Nhật Bản tổ chức: ‘Dùng khái niệm Người
Tàn tật là không chính xác cả về nội dung và hình thức, vì trên thực tế những người bị tật vẫn có thể phát triển tài
năng và trí tuệ bình thường, thậm chí có những người đã đạt được những thành tích vượt trội so với những người
lành lặn trên nhiều lĩnh vực như âm nhạc, nghệ thuật, viết văn, tin học, thể thao, thủ công mỹ nghệ... Theo quan
điểm của chúng tôi, đề nghị chúng ta thống nhất dùng khái niệm NKT để chỉ nhóm người này. Thuật ngữ này diễn
đạt sự khuyết thiếu chủ yếu do khách quan, bất khả kháng, ngoài mong đợi... Đây là khái niệm vừa mang ý nghĩa tôn
trọng, vừa có ý nghĩa động viên NKT phấn đấu vươn lên.’ (VNU. (2009). ‘NKT ở nông thôn Việt Nam: sinh kế, việc
làm và bảo trợ xã hội.’ Retrieved ngày 23 tháng 3, 2010, from />
5
đời sống tình dục, có thể có những trải nghiệm tình dục như những người không KT. Nhiều NKT
đã có đời sống tình dục tích cực, họ có thể hưởng thụ đời sống tình dục một cách tự do và thể
hiện tình dục mà họ muốn (Shakespeare, Gillespie-Sells et al. 1996; Đỗ and Nguyễn 2006; Võ
2007).
Hơn thế nữa, được coi là nhóm người yếu thế trong xã hội, họ là đối tượng dễ bị lạm dụng. Trên
thế giới, theo thống kê, NKT có khả năng bị lạm dụng và hiếp dâm gấp 3 lần so với người không
KT. Tình trạng lạm dụng thường đi liền với thực tế rằng nạn nhân bị phụ thuộc về mặt thể chất
hoặc kinh tế vào người lạm dụng. Hơn nữa, họ cũng không được trợ giúp về y tế, luật pháp và hỗ
trợ xã hội khi báo cáo tình trạng bị lạm dụng (WHO and UNFPA 2009).
Trong khi đó, sức khoẻ sinh sản và tình dục là quyền cơ bản thuộc quyền con người của NKT, họ
có quyền sức khoẻ sinh sản và tình dục như những người bình thường khác. Quyền này dã được
đề cập trong nhiều văn bản, công ước quốc tế. Trong Chương trình hành động của hội nghị ICPD,
phần E chương VI về NKT đã nhấn mạnh rằng các chính phủ nên nhìn nhận các nhu cầu của
NKT liên quan đến sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục và xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử
liên quan đến sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục của NKT (UN 1994). Điều 7.3, chương VII
của chương trình hành động cũng nhìn nhận rằng quyền cơ bản của các cặp bạn tình và cá nhân là
được quyết định một cách tự do và trách nhiệm về số con, khoảng cách và thời gian sinh con và
có đầy đủ thông tin và biện pháp để làm điều đó, và quyền có được một sức khỏe sinh sản và tình
dục ở mức cao nhất (UN 1994). Trong tuyên bố về quyền tình dục của IPPF, điều 5 cũng khẳng
định rằng tất cả mọi người đều có quyền được tự do tình dục, bao gồm tự kiểm soát và quyết định
về các vấn đề liên quan đến tình dục, lựa chọn bạn tình, tìm kiếm trải nghiệm về tình dục và ham
muốn tình dục một cách đầy đủ mà không bị phân biệt đối xử và không vi phạm đến quyền của
người khác (IPPF 2008). Như vậy, NKT cũng có những quyền tình dục giống như những người
không KT. Và thậm chí, thực tế thì NKT còn có nhu cầu giáo dục và chăm sóc sức khỏe sinh sản
và tình dục hơn người không KT do tính dễ bị tổn thương với lạm dụng của họ cao hơn (Le,
Khuat et al. 2008; WHO and UNFPA 2009). Tại điều 25 trong công ước về quyền NKT của Đại
Hội đồng Liên hợp quốc kỳ họp 61 năm 2006 có nêu rõ cần phải cung cấp cho NKT các dịch vụ
và chương trình y tế cùng mức, có chất lượng, đạt tiêu chuẩn, miễn phí hoặc với mức phí có thể
chấp nhận được, tương tự như cung cấp cho những người không KT khác, bao gồm các dịch vụ y
tế về sức khoẻ tình dục và sinh sản và các chương trình y tế cộng đồng về dân số (UN 2006)
Nhằm phát hiện và cung cấp các bằng chứng giúp cho các nhà lập sách và các nhà làm chương
trình có những chính sách và can thiệp hiệu quả để đảm bảo quyền sức khoẻ sinh sản và tình dục
của NKT được thực hiện, Trung tâm Sáng kiến Sức khoẻ và Dân số (CCIHP) tiến hành nghiên
cứu để tìm hiểu thực trạng thực hiện quyền sinh sản và tình dục của NKT ở Việt Nam và những
yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền sinh sản và tình dục của họ.
II. Tổng quan về đề tài ở Việt Nam
1. Những vấn đề sức khoẻ sinh sản và tình dục của NKT ở Việt Nam
Ở Việt Nam, NKT hiện nay đang phải đối mặt với một số vấn đề liên quan đến sinh sản và tình
dục chẳng hạn như sự tự kì thị, gặp khó khăn trong việc kết hôn, duy trì hôn nhân, sinh con, bị
lạm dụng, thiếu tiếp cận thông tin về sức khoẻ sinh sản và tình dục, khó khăn trong việc tiếp cận
với các dịch vụ về sinh sản và tình dục.
6
Mặc dù Việt Nam hiện nay đã cởi mở hơn với vấn đề tình dục và hoạt động tình dục không chỉ
giới hạn trong các mối quan hệ hôn nhân như trước nữa, tuy nhiên, tư tưởng Nho giáo rằng người
phụ nữ phải giữ gìn tiết hạnh, phải có tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh) vẫn có ảnh hưởng khá lớn
lên đời sống tình dục của người dân Việt Nam. Vì vậy, hôn nhân là một yếu tố cần thiết để có
quan hệ tình dục (QHTD). Hôn nhân hiện nay đang là một vấn đề đối với NKT. NKT có mong
muốn kết hôn, theo báo cáo về NKT của Viện nghiên cứu phát triển xã hội thì khoảng một nửa
cho đến 70% NKT trong nghiên cứu tìm kiếm kết hôn (thành công hoặc không thành công) nhờ
sự giúp đỡ của người khác như bạn bè và người thân. Tuy nhiên, họ đang gặp khó khăn trong vấn
đề kết hôn đặc biệt ở NKT nữ (Đỗ and Nguyễn 2006; Le, Khuat et al. 2008; WHO and UNFPA
2009). Theo báo cáo của Viện nghiên cứu phát triển xã hội thì tỷ lệ người kết hôn ở nam và nữ
KT là 70% và 20%. Lý do chính khiến NKT gặp khó khăn trong kết hôn là do sự kỳ thị và phân
biệt đối xử của cộng đồng và sự tự kỳ thị của chính bản thân NKT. Một số quan niệm thường cho
rằng NKT chỉ nên kết hôn với NKT, còn nếu NKT mà kết hôn với người không KT thì giống như
đôi đũa lệch, không xứng đôi vừa lứa (Võ 2007). Họ cho rằng NKT khó duy trì một cuộc sống
bình thường kể cả cuộc sống hôn nhân, NKT sẽ không có khả năng chăm sóc gia đình mình một
cách đầy đủ, kể cả con cái họ, NKT là mối đe doạ tiềm tàng với hạnh phúc của người ‘bình
thường’ nên tránh kết hôn với NKT, NKT có thể còn trở thành ‘gánh nặng’ cho gia đình và xã
hội, KT của họ sẽ di truyền cho những thế hệ sau (Võ 2007; Le, Khuat et al. 2008) . Mặc cảm
tự ti cũng là trở ngại lớn đối với NKT. Họ thường cho rằng người bạn không KT phải ‘hy sinh’
rất nhiều khi đến với mình; sợ người khác yêu mình không thật lòng mà chỉ là thương hại; lo
lắng không hoàn thành vai trò trách nhiệm đối với gia đình. (Võ 2007). Bên cạnh đó, NKT cũng
không nhận thức được rằng mình có quyền được yêu, có quyền được có những cảm xúc tình dục,
có quyền được có gia đình, được làm vợ, làm mẹ mà chỉ coi đó là những mong ước xa vời vợi
nên nhiều người không dám đấu tranh cho tình yêu, cho hạnh phúc của bản thân mình (Đỗ and
Nguyễn 2006).
Trong thực tế thì NKT, đặc biệt là phụ nữ KT gặp nhiều khó khăn khi mang thai (đi lại khó
khăn, dễ ngã, sảy thai) và chăm sóc gia đình và con cái; khó khăn trong sinh hoạt
chung với gia đình chồng (do nhà cửa được thiết kế cho người không KT) nhưng không có nghĩa
là họ không vượt qua được và không thực hiện được chức năng của mình. Bằng chứng là đã có
những NKT lập gia đình, tự lo cho cuộc sống hôn nhân của mình và rất hạnh phúc (Võ 2007).
Với những NKT đã lập gia đình thì việc duy trì hôn nhân đối với họ cũng là một vấn đề. Rất
nhiều người trong số họ gặp khó khăn với việc chăm sóc con và đảm bảo điều kiện sống của gia
đình. Bên cạnh đó, còn một số lý do khác nữa là họ sinh con bị dị tật bẩm sinh, không hài lòng
với cuộc sống tình dục và thiếu sự thông cảm và khuyến khích từ vợ/chồng (Đỗ and Nguyễn
2006; Le, Khuat et al. 2008).
Với người Việt Nam, việc có con có ý nghĩa rất quan trọng về mặt văn hoá và tất cả mọi người
đều có quyền được có con. Tuy nhiên, cộng đồng còn có thái độ tiêu cực với việc sinh con của
NKT. Họ cho rằng đứa con có thể hoặc sẽ trở thành gánh nặng cho chính họ hoặc trở thành gánh
nặng cho gia đình và xã hội hoặc cả hai. Họ đã gạt đi và từ chối quyền được sinh con của NKT
(Le, Khuat et al. 2008).
7
Ở Việt nam, NKT được coi là người yếu thế và có vị thế thấp trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ KT
(Đỗ and Nguyễn 2006). Chính vì sự yếu thế và có vị thế thấp trong xã hội này khiến NKT dễ bị
lạm dụng hoặc cưỡng bức tình dục. Trong nghiên cứu của Viện nghiên cứu phát triển xã hội thì
có khoảng 5% người được hỏi cho biết họ đã chứng kiến có trường hợp NKT, chủ yếu là nữ, bị
thành viên trong cộng đồng cưỡng hiếp hoặc lạm dụng tình dục. Đôi khi thủ phạm lại chính là
người nhà của họ (Le, Khuat et al. 2008). Tài liệu của WHO và UNFPA cũng cho thấy rất nhiều
NKT bị ép buộc triệt sản hoặc ép buộc nạo phá thai (WHO and UNFPA 2009).
Tiếp cận các nguồn thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản hiện tại cũng là vấn đề nổi
cộm. Tỷ lệ biết chữ trong số NKT không cao, khoảng 64,4% trong đó chủ yếu là hoàn thành cấp
1 và cấp 2, các cấp mà giáo dục tình dục ít được đề cập. Vì vậy nguồn thông tin từ trường học đối
với họ là hầu như rất ít. Trong báo cáo nghiên cứu về NKT của Viện nghiên cứu phát triển xã hội,
hơn 50% NKT cho biết họ gặp khó khăn trong tiếp cận thông tin mà các nguyên nhân chủ yếu là
do hình thức phát thanh không phù hợp với NKT, không có chương trình đặt biệt dành cho NKT,
thiếu phương tiện trợ giúp, gia đình không khuyến khích, không chú ý cung cấp thông tin cho
NKT (Le, Khuat et al. 2008). NKT nhìn chung thiếu ngôn ngữ hoặc tự tin khi thảo luận về các
vấn đề tình dục và tình yêu (Shakespeare 1997). Như ở trên đã đề cập, một số quan niệm cho
rằng NKT không hoạt động tình dục nên cũng không cần các dịch vụ chăm sóc tình dục. Vì vậy,
các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục cho NKT hầu như bị bỏ qua (WHO and UNFPA 2009).
Ở Việt Nam, do nhiều lý do, NKT không luôn nhận được những dịch vụ y tế nói chung đúng theo
nhu cầu hay bất cứ lúc nào họ cần. (Le, Khuat et al. 2008).
Qua các vấn đề trên, chúng ta có thể thấy rằng nhận xét của Shakespeare rằng NKT gặp những
trở ngại về mặt xã hội nhiều hơn là về mặt sinh học hoàn toàn đúng (Shakespeare, Gillespie-Sells
et al. 1996). Thái độ kỳ thị của xã hội, trong đó bao gồm cả những người cung cấp dịch vụ y tế là
những trở ngại lớn nhất đối với NKT chứ không phải là KT của họ.
2. Các chính sách và chương trình liên quan đến sức khoẻ sinh sản và tình dục của NKT ở
Việt Nam
Nhà nước đã có những quan tâm đến NKT và việc hỗ trợ họ đã được đề cập trong nhiều chính
sách và có những chương trình thực tế để hỗ trợ họ. Tuy nhiên, các vấn đề được quan tâm chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực giáo dục, dạy nghề - việc làm, hỗ trợ kinh tế, phục hồi chức năng và
chăm sóc sức khoẻ nói chung và tham gia hoạt động văn hoá thể thao.
Văn bản pháp luật đầu tiên cần phải kể đến là Pháp lệnh về người tàn tật do uỷ ban thường vụ
quốc hội thông qua vào ngày 30 tháng 7 năm 1998 gồm 8 chương và 35 điều thể hiện quan điểm
của Đảng, Nhà nước trong việc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT thực hiện bình
đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định
đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. (UBTVQH, 1998)
Với lĩnh vực giáo dục, trong luật giáo dục ban hành ngày 20/5/2005, chương 3, mục 3 điều 36 có
quy định ‘Nhà nước thành lập và khuyến khích tổ chức cá nhân thành lập trường lớp dành cho
người tàn tật nhằm giúp đối tượng này phục hồi chức năng, học văn hoá, học nghề, hoà nhập với
cộng đồng’, ‘Nhà nước ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách cho các
trường, lớp dành cho người tàn tật do nhà nước thành lập’, chương 5, mục 2, điều 89 có đề cập
8
‘Học bổng và trợ cấp xã hội trong đó có ưu tiên đối với người tàn tật’. Trong một số các văn bản
pháp luật khác như Công văn số 4801/ĐH&SĐH của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày
14/6/2004, Thông tư liên tịch /TTLT-BLĐTBXH-BGD&ĐT ban hành ngày 10/8/2005 cũng đều
đề cập đến việc đào tạo và trợ cấp kinh phí đào tạo cho các học sinh KT.
Trong lĩnh vực dạy nghề - việc làm, Bộ luật lao động năm 2010 dành riêng mục III, gồm 6 điều
về lao động là NKT, trong đó có Điều 182 quy định rõ: ‘Nhà nước bảo hộ quyền làm việc của
NKT và khuyến khích việc thu nhận, tạo việc làm cho NKT; Hàng năm, Nhà nước dành một
khoản ngân sách để giúp NKT phục hồi chức năng lao động, học nghề và có chính sách cho vay
với lãi suất thấp để NKT tự tạo việc làm và tự ổn định đời sống; Những doanh nghiệp thu nhận
NKT vào học nghề, tập nghề được xét giảm thuế, được vay vốn với lãi suất thấp và được hưởng
các ưu đãi khác.’ Bên cạnh đó, còn nhiều văn bản nhà nước khác đề cập đến vấn đề dạy nghề và
việc làm của NKT như Nghị định 02/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định 776/2001/QĐ-BLĐ
TBXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã Hội, Nghị định 116/2004/NĐ-CP của Chính phủ,...
Phục hồi chức năng và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nói chung cũng đã được quy định rõ trong
nhiều chính sách dành cho NKT, chẳng hạn như Pháp lệnh về người tàn tật số 06/1998/PLUBTVQH quy định ‘Người tàn tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp, chăm sóc sức khoẻ, phục
hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp’, Nghị định 55/1999/NĐ-CP ghi rõ ‘Người tàn tật được có
quan y tế hướng dẫn về chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, sử dụng các dụng cụ chỉnh
hình’, Thông tư số 13/2001/TT-BLĐTBXH đề cập ‘‘trẻ em tàn tật, người tàn tật do hậu quả của
chất độc da cam trong chiến tranh được nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm bảo vệ, chăm
sóc’,...
Các chính sách và quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho NKT được phục hồi chức
năng, được học hành, được làm việc, được tham gia vào các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao
và giúp cho NKT nâng cao chất lượng cuộc sống, tự tin hơn và góp phần giảm kỳ thị và phân biệt
đối xử của cộng đồng với NKT. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải thừa nhận một điểm yếu là
vẫn còn rất nhiều NKT không tiếp cận được với các chính sách và chương trình này. Theo đánh
giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008, mới chỉ có 22,9% người biết Pháp lệnh
về NKT, còn tới 77,2% số người không biết. Trong số biết chỉ có 6,4% biết rõ, 16,5% mới chỉ
nghe và biết tên (BLĐTBXH, 2009). Việc thiếu hiểu biết và nhận thức về chính sách về NKT
một cách rộng rãi tiếp tục làm gây ra những thái độ tiêu cực về NKT, chẳng hạn như mặc dù nhận
thức về vấn đề KT đã cải thiện hơn trong những năm qua nhưng vẫn còn những trở ngại để nhìn
nhận NKT như là một thành viên bình thường của xã hội (Usaid 2005).
Hơn thế nữa, mặc dù vấn đề học hành, việc làm, phục hồi chức năng và hỗ trợ kinh tế và xã hội
cho NKT là thực sự cần thiết, tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng vấn đề sinh sản và
tình dục của NKT cũng hết sức quan trọng bởi đây là một phần quan trọng của cuộc sống hàng
ngày của tất cả mọi người trong xã hội (Earle 2001). Đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam hiện
nay khi mà chính sách mở cửa của nhà nước cùng với việc toàn cầu hóa đã thúc đẩy lối sống cởi
mở hơn. Những yếu tố trên đã tạo môi trường xã hội cởi mở khiến tình dục ngày càng không còn
là chủ đề cấm kị như trước nữa mà được thảo luận nhiều và rộng rãi hơn trên các phương tiện
thông tin đại chúng, văn hoá phẩm và đặc biệt là qua Internet. Thế nhưng vấn đề sinh sản và tình
dục của NKT vẫn chưa được đề cập đến trong các chính sách, kể cả những chính sách dành riêng
cho NKT.
9
Một số chương trình can thiệp với NKT hiện nay cũng đã có quan tâm hơn tới vấn đề sinh sản và
tình dục, đã sử dụng những phương tiện và ngôn ngữ phù hợp với các nhóm đối tượng KT, ví dụ
như dự án giáo dục sức khoẻ sinh sản và sức khoẻ tình dục bằng ngôn ngữ cử chỉ cho học sinh
khiếm thính trường THCS Xã Đàn, Hà Nội (HP 2009). Tuy nhiên, các can thiệp này không toàn
diện, chỉ tập trung ở một số nhóm đối tượng trong trường học dành riêng cho NKT và mới chỉ
dừng lại ở việc cung cấp các kiến thức về sức khoẻ sinh sản và sức khoẻ tình dục cho NKT chứ
chưa đề cập đến quyền sinh sản và tình dục của họ.
3. Các nghiên cứu về sức khoẻ sinh sản và tình dục của NKT ở Việt Nam
Các nghiên cứu về NKT ở Việt Nam hiện nay vẫn còn ít về số lượng và yếu về chất lượng. Hầu
hết các nghiên cứu này mới chủ yếu tập trung vào các khía cạnh phục hồi chức năng, nhu cầu học
tập và việc làm chứ chưa đi sâu tìm hiểu các khía cạnh đề xã hội như sự tham gia và hoà nhập xã
hội của NKT, vấn đề giới trong KT hoặc thái độ của cộng đồng, bao gồm cả sự kỳ thị và sự phân
biệt đối xử đối với NKT (Le, Khuat et al. 2008). Vấn đề tình dục của NKT vẫn chưa được nghiên
cứu sâu.
Báo cáo về NKT của Viện nghiên cứu phát triển xã hội năm 2008 đã đề cập đến rất nhiều khía
cạnh xã hội liên quan đến NKT, đề cập đến các khó khăn và cách giải quyết của họ trong các vấn
đề về sinh hoạt hàng ngày, giáo dục, việc làm, phục hồi chức năng, tham gia các hoạt động xã hội
và tiếp cận thông tin, dịch vụ y tế nói chung và đặc biệt là có đề cập đến vấn đề hôn nhân, duy trì
hôn nhân và sinh con của NKT. Tuy nhiên, vấn đề tình dục của NKT chưa được quan tâm nghiên
cứu sâu, nghiên cứu chỉ ra rằng một trong những lý do NKT cảm thấy khó khăn trong duy trì hôn
nhân là thiếu hòa hợp về tình dục, chiếm 8% trong tổng số các lý do về khó khăn trong việc duy
trì hôn nhân, bên cạnh các lý do chiếm đa số khác là khó đảm bảo được điều kiện sống cho gia
đình (38%), cảm thấy nuôi con vất vả (38%), và sinh con bị dị tật bẩm sinh (10%) và một lý do
thiếu sự thông cảm và khuyến khích từ vợ/chồng (5%). Tuy nhiên, việc thiếu hòa hợp về tình dục
ở đây chưa được chỉ ra một cách cụ thể (Le, Khuat et al. 2008).
Nghiên cứu định tính về đời sống tình dục của phụ nữ KT của tác giả Đỗ Thanh Toàn và Nguyễn
Hồng Hà năm 2006 đã cho thấy rằng phụ nữ KT có nhu cầu tình dục và gặp khó khăn trong việc
thể hiện tình dục của mình và gặp phải những trở ngại nhất định từ quan điểm và thái độ của
chính bản thân, gia đình và cộng đồng trong tình yêu và tình dục (Đỗ and Nguyễn 2006). Tuy
nhiên, nghiên cứu mới chỉ tìm hiểu đời sống tình dục của phụ nữ KT chứ chưa quan tâm đến đời
sống tình dục của nam giới KT. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chưa tìm hiểu sâu về các mối
QHTD trước, trong và ngoài hôn nhân, việc bị lạm dụng và cưỡng bức tình dục, ý nghĩa của tình
dục đối với cuộc sống của NKT, những quan niệm về giới truyền thống, quan niệm về nam tính
và nữ tính có được thể hiện trong đời sống tình dục của NKT hay không, việc thực hiện quyền
tình dục của NKT như thế nào.
III. Khung lý thuyết và khái niệm về NKT trong nghiên cứu
1. Khung lý thuyết
10
Sức khoẻ tình dục và sức khoẻ sinh sản:
YẾU TỐ CỘNG ĐỒNG - XH:
Khniệm về tình dục của
- Các quan
NKT
- Thiếu hiểu biết về tình dục và
quyền tình dục của NKT
- Sự kỳ thị với NKT
- Thiếu các chính sách về vấn đề
tình dục của NKT
- Thiếu các chương trình can thiệp
và dịch vụ về tình dục dành cho
NKT
- Các nguồn thông tin về tình dục
chưa chú trọng cho NKT cả về nội
dung và hình thức tiếp cận
YẾU TỐ GIA ĐÌNH:
- Các quan niệm về tình dục của
NKT
- Thiếu hiểu biết về tình dục và
quyền tình dục của NKT
- Sự kỳ thị với NKT
- Thiếu sự hỗ trợ đối với NKT, kể
cả cung cấp thông tin về tình dục
- Không tạo cơ hội cho NKT tiếp
cận đối tượng
* Áp dụng và chỉnh sửa dựa
theo khung lý thuyết của Dixon
Muller. The sexuality
connection, 1993
•
•
•
•
•
•
•
•
•
Bị lạm dụng/quấy rối tình dục
Mắc bệnh LTQĐTD
Có thai ngoài ý muốn
Nạo hút thai không an toàn
Mang thai và sinh nở không an toàn
Không được quyết định tình dục của bản thân
Không được hưởng khoái cảm tình dục
Không được quyết định hôn nhân của bản thân
Không tiếp cận được các thông tin và dịch vụ tư vấn và chăm sóc SKSSTD
Không thực hiện được quyền sinh sản và tình dục của NKT:
Quyền được yêu
Quyền được QHTD lành mạnh, an toàn và thoả mãn
Quyền kết hôn tự nguyện
Quyền sinh con
Quyền tiếp cận thông tin về SKSSTD
Quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSSTD
Mối QHTD:
• Cơ hội tình yêu và hôn nhân
• Số bạn tình
• Thời gian, thời điểm hình thành mối
quan hệ
• Nhân dạng xã hội của bạn tình:
người yêu, gái mại dâm, vợ/chồng v.v
• Điều kiện của mối quan hệ: lựa chọn
hay ép buộc
• Khả năng lựa chọn BPTT và bệnh
LTQĐTD
• Trao đổi thông tin về tình dục với
bạn tình
Hành vi tình dục:
• Các kiểu hành vi
tình dục
• Tần suất QHTD
• Lựa chọn hay bị
ép buộc?
• Các trở ngại trong
thực hiện hành vi
tình dục
Ý nghĩa tình dục:
• Nam tính/ nữ tính
trong tình dục
• Quan niệm về mối
QHTD
• Ý nghĩa của hành vi
tình dục đối với
NKT
• Quan niệm về sự hấp
dẫn cơ thể
• Ý nghĩa của kết hôn
và sinh con đối với
NKT
YẾU TỐ CÁ NHÂN
Ham muốn và khoái
cảm tình dục:
• Sự hài lòng về đời
sống tình dục
• Sự hình thành nhân
dạng tình dục
• Ham muốn tình dục
dựa theo quan niệm
chung của xã hội
• Quan niệm về khoái
cảm tình dục
11
2. Khái niệm về NKT trong nghiên cứu
Luật NKT ban hành năm 2010 định nghĩa NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ
phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh
hoạt, học tập gặp khó khăn.
Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã sử dụng 3 thuật ngữ để nói về mức độ KT là sự khiếm khuyết,
sự giảm khả năng và tàn tật. Các thuật ngữ này đã được hai bộ là Bộ Y tế và Bộ Lao động Thương binh Xã hội (LĐTBXH) là hai bộ chính soạn thảo ra các chính sách về NKT sử dụng:
- Khiếm khuyết: bị mất hoặc tình trạng bất bình thường một hay các bộ phận cơ thể hoặc chức
năng tâm sinh lý. Khiếm khuyết có thể là hậu quả của bệnh tật, tai nạn, các nhân tố môi trường
hoặc bẩm sinh.
- Giảm khả năng: giảm hoặc mất khả năng hoạt động do khiếm khuyết gây ra; hạn chế hoặc mất
chức năng (vận động, nghe, giao tiếp hoặc học tập).
- Tàn tật: những thiệt thòi mà một người phải chịu do bị KT. Hậu quả của sự tương tác giữa một
cá nhân bị khiếm khuyết hoặc giảm khả năng với những rào cản trong môi trường xã hội, văn
hoá hoặc vật chất, làm cho cá nhân này không thể tham gia một cách bình đẳng vào cuộc sống
cộng đồng chung hoặc hoàn thành một vai trò bình thường.
Để phân loại KT, Chính phủ Việt Nam đã sử dụng phương pháp phân loại của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO), trong đó KT được chia làm 7 loại chính như sau:
(i) KT vận động (chẳng hạn như cụt tay chân, tê liệt, bại liệt, tật bẩm sinh ở chân và những dị tật
bẩm sinh khác);
(ii) KT nghe/nói (giao tiếp);
(iii) KT nhìn;
(iv) KT về khả năng học tập (nhận thức hoặc trí tuệ);
(v) Hành vi lạ (do bệnh về tâm thần như trầm cảm và tâm thần phân liệt gây ra);
(vi) Động kinh
(vii) Những KT khác, chẳng hạn như bệnh phong.
Trong phạm vi của nghiên cứu này, chúng tôi xác định đối tượng dựa vào định nghĩa về NKT
của Tổ chức Y tế thế giới. Đối tượng của nghiên cứu sẽ là những NKT về thể chất bao gồm 3
loại là NKT vận động, KT nghe nói, KT nhìn bởi tỷ lệ NKT về mặt thể chất chiếm đa số và khó
khăn trong việc thu thập thông tin với những NKT về mặt trí tuệ.
IV. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
Mục đích: Tìm hiểu việc thực hiện quyền sinh sản và tình dục của NKT thể chất và những yếu
tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền này, từ đó đưa ra những khuyến nghị cho các chương
trình can thiệp, nghiên cứu và chính sách.
12
Mục tiêu cụ thể:
1. Mô tả việc thực hiện quyền sinh sản và tình dục của NKT thể chất liên quan tới việc NKT
có quyền:
o được yêu
o có các mối QHTD lành mạnh và an toàn, không bị cưỡng ép và bạo lực
o kết hôn tự nguyện
o sinh con
o tiếp cận với các thông tin SKSSTD
o tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc SKSSTD
2. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền sinh sản và tình dục của
NKT:
o quan niệm của NKT, gia đình, cộng đồng và dịch vụ (chăm sóc và y tế) về:
giới, nam tính và nữ tính của NKT
ý nghĩa của tình yêu, tình dục, hôn nhân và sinh con trong cuộc sống của
NKT
quyền sinh sản và tình dục của NKT
o việc tiếp cận các nguồn thông tin và dịch vụ về SKSSTD và những khó khăn
trong việc tiếp cận thông tin và các dịch vụ này
o khả năng đáp ứng của các dịch vụ chăm sóc và y tế hiện tại đối với nhu cầu về
thông tin và chăm sóc SKSSTD của NKT
3. Tìm hiểu ảnh hưởng của KT lên cuộc sống và sức khoẻ của NKT (mức độ hài lòng với
cuộc sống và stress) và mối liên quan giữa điểm hài lòng với cuộc sống và stress với
những rào cản họ gặp phải trong thực hiện quyền sinh sản và tình dục
4. Đưa ra các khuyến nghị cho các chính sách, chương trình can thiệp và nghiên cứu về vấn
đề sinh sản và tình dục của NKT
V. Phương pháp nghiên cứu
Trước tiên phương pháp định tính đã được áp dụng để tìm hiểu về chủ đề quyền sinh sản và tình
dục của NKT vì đây là chủ đề chưa được nghiên cứu ở Việt Nam. Sau đó, phương pháp định
lượng đã được sử dụng để lượng giá các tỷ lệ.
1. Cấu phần định tính:
* Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện tại Thành phố Hà Nội và Thái Bình.
* Thời gian nghiên cứu: Thực địa được thực hiện vào tháng 10 và 11 năm 2010
* Đối tượng nghiên cứu và cách chọn mẫu:
o NKT được lựa chọn trong nghiên cứu là NKT thể chất (KT vận động, nghe nói, nhìn) tuổi từ
18-30. Những NKT nghe nói thì có thêm tiêu chí là có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ kí hiệu.
Nhóm nghiên cứu cố gắng lựa chọn NKT thể chất để đa dạng về mức độ KT, tình trạng hôn
nhân, con cái.
13
o Bố/mẹ của NKT trong nghiên cứu: là bố mẹ của những NKT thể chất (KT vận động, nghe
nói, nhìn) tuổi từ 18-30, không phải là bố/mẹ của những NKT đã tham gia nghiên cứu.
o Cán bộ hội KT quận, thành phố, phường, cán bộ tại trung tâm chăm sóc NKT/hội bảo trợ
NKT, giáo viên trường dạy nghề cho NKT, cán bộ tại trung tâm chăm sóc sức khoẻ thành
phố.
Bảng 1: Cỡ mẫu tại mỗi thành phố
Nhóm
Đối với phỏng vấn sâu
Nam giới KT
Trong đó: KT vận động
KT nhìn
KT nghe nói
Phụ nữ KT
Trong đó: KT vận động
KT nhìn
KT nghe nói
Bố/mẹ của NKT
Cán bộ hội KT thành phố, quận, phường
Cán bộ tại trung tâm chăm sóc NKT
Giáo viên trường dạy nghề cho NKT
Cán bộ tại trung tâm chăm sóc SKSS
thành phố
Tổng số phỏng vấn sâu
Nhóm
Thảo luận nhóm
Nam giới KT
Nữ giới KT
Tổng số thảo luận nhóm
Hà Nội
Số lượng
Thái Bình
Số lượng
Tổng số
5
1
3
1
9
5
1
3
5
2
1
0
1
5
2
2
1
5
1
1
3
4
2
1
1
1
10
3
5
2
14
6
2
6
9
4
2
1
2
23
19
42
Hà Nội
Thái Bình
Tổng số người
tham gia
Số lượng thảo Số lượng thảo
luận nhóm
luận nhóm
3
2
5
2
2
4
26
23
49
Cách chọn mẫu: Các đối tượng tham gia nghiên cứu được lựa chọn có chủ đích theo hai cách
chính: 1) thông qua các hội NKT ở Hà Nội và Hội chữ thập đỏ ở Thái Bình và 2) theo phương
pháp trái tuyết lăn. Nhóm nghiên cứu cố gắng lựa chọn các đối tượng với đa dạng về mức độ KT,
tình trạng hôn nhân, con cái, nghề nghiệp, thu nhập.
* Tiến trình thu thập dữ liệu:
14
Các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm được thực hiện bởi 4 nghiên cứu viên. Trong mỗi
cuộc thảo luận nhóm đều có một nghiên cứu viên điều hành và một nghiên cứu viên là thư kí hỗ
trợ.
Sau khi hoàn thành mẫu đồng ý phỏng vấn, các cuộc phỏng vấn và thảo luận với các đối tượng
được ghi âm có sự cho phép của những người trả lời. Có một cuộc phỏng vấn đối tượng không
đồng ý ghi âm, nội dung của cuộc phỏng vấn đã được một nghiên cứu viên ghi chép lại trong quá
trình phỏng vấn và đánh lại vào máy tính ngay sau khi kết thúc cuộc phỏng vấn. Các cuộc phỏng
vấn và thảo luận được thực hiện theo bản hướng dẫn bán cấu trúc.
* Phân tích dữ liệu:
Băng ghi âm phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm được các nghiên cứu viên của nghiên cứu và một
số cán bộ của CCIHP gỡ và lưu dưới dạng Word. Người gỡ băng ngoài nhóm nghiên cứu được
nghiên cứu viên hướng dẫn về cách gỡ băng và nguyên tắc bảo mật thông tin. Các băng đã gỡ
được nghiên cứu viên kiểm tra lại. Các bản gỡ băng đảm bảo nguyên văn của phỏng vấn và đề rõ
tất cả những cử chỉ không lời (như im lặng, cười hoặc khóc).
Phân tích của các bản gỡ băng phỏng vấn được thực hiện phân tích theo chủ đề sử dụng phần
mềm phân tích định tính Atlas.ti (phiên bản 5.2) cho nghiên cứu.
2. Cấu phần định lượng
* Địa bàn nghiên cứu: Cấu phần định lượng được thực hiện tại 2 quận của thành phố Hà Nội là
Hoàng Mai và Hai Bà Trưng và 2 huyện tại Thái Bình là Đông Hưng và Vũ Thư.
* Thời gian nghiên cứu: Thực địa được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2011
* Đối tượng nghiên cứu và cách chọn mẫu: Khác với cấu phần định tính, ở cấu phần định
lượng chỉ nhóm KT vận động và KT nhìn được lựa chọn vào nghiên cứu bởi vì nhóm nghiên cứu
nhận thấy rằng để thực hiện bảng câu hỏi với nhóm KT nghe nói sẽ phải qua một phiên dịch và
có thể sẽ không hiểu đúng câu hỏi và như vậy có thể làm ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu do
phương pháp phỏng vấn với các nhóm KT khác nhau là khác nhau.
*Cỡ mẫu và quá trình chọn mẫu:
Hà Nội
2 quận
20 phường
98 đối tượng
192 đối
tượng
Thái Bình
2 huyện
20 xã
94 đối tượng
Một danh sách NKT của 10 phường/xã ở mỗi quận/huyện đã được xây dựng bởi các cán bộ hội
NKT phường (ở Hà Nội) và cán bộ hội chữ thập đỏ xã (ở Thái Bình) đáp ứng các tiêu chí là i)
tuổi từ 18 đến 30; ii) KT vận động hoặc KT nhìn hoặc cả hai và không kết hợp với các dạng KT
15
khác, iii) sống ở địa bàn nghiên cứu trong thời gian ít nhất là 6 tháng. Mục đích ban đầu của
chúng tôi là sẽ chọn ra ở mỗi phường/xã 7 người để phỏng vấn bộ câu hỏi. Tuy nhiên, do tổng số
đối tượng ở các phường/xã không đáp ứng đủ yêu cầu nên tất cả những đối tượng KT được cho
vào danh sách đều được phỏng vấn bộ câu hỏi. Tổng số 192 NKT bao gồm KT vận động và nhìn
được chọn vào nghiên cứu theo cách này.
* Điều tra viên và giám sát viên:
Nghiên cứu gồm có 7 điều tra viên và 2 giám sát viên đều là cán bộ của Trung tâm Sáng kiến
Sức khỏe và Dân số.
* Tiến trình thu thập dữ liệu:
Điều tra viên được cộng tác viên là các cán bộ hội NKT ở Hà Nội và hội chữ thập đỏ ở Thái
Bình dẫn đến nhà đối tượng. Sau khi điều tra viên giới thiệu về mình, cơ quan và nghiên cứu với
đối tượng, chỉ khi đối tượng đồng ý bằng miệng thì điều tra viên mới thực hiện phỏng vấn theo
bộ câu hỏi. Điều tra viên được yêu cầu kiểm tra lại một lượt toàn bộ bộ câu hỏi để xem có điểm
nào sót, thông tin mâu thuẫn để kịp thời bổ sung, chỉnh sửa khi có mặt đối tượng điều tra tại đó.
Các bộ câu hỏi sau khi hoàn thành được giao lại cho giám sát viên. Các giám sát viên sẽ một lần
nữa kiểm tra lại những thông tin còn sót và thông tin mâu thuẫn để yêu cầu điều tra viên liên hệ
với đối tượng bổ sung và chỉnh sửa thông tin. Phiếu chỉ được hoàn thành khi các giám sát viên
ký tên vào phiếu.
* Phân tích dữ liệu:
Các phiếu điều tra được nhập vào phần mềm Epidata 3.1. Số liệu được nhập 2 lần và kiểm tra
chéo để đảm bảo chất lượng của việc nhập số liệu. Sau đó các số liệu được xuất ra phần mềm
STATA 11.0 để phân tích.
3. Đạo đức nghiên cứu
Do đối tượng nghiên cứu là những NKT nên chúng tôi sẽ phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức
trong nghiên cứu y sinh học một cách kỹ lưỡng. Nghiên cứu này được gửi đến Hội đồng phản
biện trong nghiên cứu y sinh học của Trung tâm sáng kiến sức khoẻ và dân số để xem xét về khía
cạnh đạo đức. Nghiên cứu được thực hiện sau khi được hội đồng phản biện thông qua.
Với cấu phần định tính, một phiếu đồng ý tham gia phỏng vấn đã được phát triển. Trong phiếu
này sẽ có đầy đủ thông tin về nghiên cứu bao gồm: giới thiệu về nghiên cứu, mục đích, mục tiêu
nghiên cứu, thời gian tiến hành phỏng vấn, xin phép ghi âm và chỗ để đối tượng nghiên cứu ký.
Phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được dịch sang chữ nổi để những NKT nhìn có thể đọc
được bằng tay. Phỏng vấn chỉ được tiến hành sau khi đối tượng đã hiểu rõ về nghiên cứu như đã
đề cập trong phiếu đồng ý và ký vào phiếu. Ghi âm chỉ được thực hiện khi đối tượng đồng ý ghi
âm.
Với cấu phần định lượng, trước khi tiến hành nghiên cứu, nghiên cứu viên sẽ đọc phần giới thiệu
về nghiên cứu, mục đích, mục tiêu nghiên cứu, thời gian tiến hành phỏng vấn cho đối tượng
16
nghiên cứu nghe. Phỏng vấn chỉ được tiến hành sau khi đối tượng nghiên cứu trả lời đồng ý tham
gia nghiên cứu bằng miệng.
Nghiên cứu đảm bảo hoàn toàn tính bí mật thông tin của các cuộc phỏng vấn, bộ câu hỏi, sau khi
điều tra chỉ có nhóm nghiên cứu mới có thể tiếp cận.
Mỗi đối tượng tham gia trả lời phỏng vấn trong cấu phần định tính sẽ được nhận 100.000 đồng
và tham gia trả lời phỏng vấn trong cấu phần định lượng sẽ được nhận 50.000 đồng tương ứng
với thời gian mà họ dành cho việc tham gia nghiên cứu.
4. Hạn chế của nghiên cứu
- Việc thu thập thông tin với nhóm khuyết tật nghe nói bị hạn chế hơn so với nhóm KT vận động
và KT nhìn bởi vì quá trình này được thực hiện qua một phiên dịch viên thông qua ngôn ngữ kí
hiệu và ngôn ngữ này đơn giản hơn ngôn ngữ nói nên với các câu hỏi hầu như chỉ thu được
những ý đơn giản nhất, đặc biệt những câu liên quan đến quan niệm.
- Số đối tượng nghiên cứu của cấu phần định lượng không nhiều như mong đợi. Ban đầu kế
hoạch đặt ra là sẽ thu thập thông tin với 300 NKT, nhưng thực tế, số đối tượng không đáp ứng
đủ.
- Nghiên cứu chỉ được thực hiện tại 2 thành phố nên không đại diện cho tất cả những NKT trong
cả nước
VI. Kết quả
1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
1.1. Đặc điểm nhân khẩu – xã hội của những đối tượng tham gia cấu phần định tính
Đặc điểm
Số đối tượng điều tra
Tỉnh
Hà Nội
Thái Bình
Nhóm tuổi
18-24 tuổi
25-30 tuổi
Tuổi trung bình
Dạng KT
KT vận động
KT nhìn
Nghe nói
Nam
Số lượng (%)
Nữ
Số lượng (%)
Tổng số
Số lượng (%)
18 (52.94)
16 (47.06)
21 (55.26)
17 (44.74)
39 (54.17)
33 (45.83)
12 (35.29)
22 (64.71)
25.94
SD: 3.83
15 (38.46)
24 (61.54)
24.74
SD: 4.07
27 (36.99)
46 (63.01)
25.3
SD: 3.98
15 (44.12)
11 (32.35)
8 (23.53)
15 (39.47)
10 (26.32)
13 (34.21)
30 (41.67)
21 (29.17)
21 (29.17)
17
Thời gian bị KT
Bẩm sinh
Không bẩm sinh
Tình trạng hôn nhân
Đã kết hôn
Chưa kết hôn
23 (67.65)
11 (32.35)
29 (74.36)
10 (25.64)
52 (71.23)
21 (28.77)
14 (41.18)
20 (58.82)
7 (17.95)
32 (82.05)
21 (28.77)
52 (71.23)
1.2. Đặc điểm nhân khẩu – xã hội của những đối tượng điều tra cấu phần định lượng
Đặc điểm
Số đối tượng điều tra
Tỉnh
Hà Nội
Thái Bình
Nhóm tuổi
18-24 tuổi
24-30 tuổi
Tuổi trung bình
Trình độ học vấn
Mù chữ
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Trung cấp
Cao đẳng/đại học
Nghề nghiệp
Làm ruộng
Công nhân
Học sinh/sinh viên
CBVC nhà nước
CB của các tổ chức tư nhân
Ở nhà trông nom nhà cửa, làm
việc nhà
Thất nghiệp
Buôn bán kinh doanh
Lao động tự do
Dịch vụ cá nhân (cắt tóc, rửa
xe,...)
Khác (VĐV)
Thu nhập bình quân hàng
tháng
Không có thu nhập
Dưới 1 triệu
Nam
Số lượng (%)
105 (54.69)
Nữ
Số lượng (%)
87 (45.31)
Tổng số
Số lượng (%)
192 (100)
50 ( 47.62)
55 (52.83)
48 (55.17)
39 (44.83)
98 (51.04)
94 ( 48.96)
55 (52.38)
50 (47.62)
24.75
(SD: 3.88)
37 (42.53)
50 (57.47)
24.84
(SD: 3.96)
92 (100)
100 (52.08)
24.79
(SD: 3.90)
3 (2.86)
14 (13.33)
46 (43.81)
19 (18.1)
4 (3.81)
19 (18.10)
8 (9.2)
14 (16.09)
35 (40.23)
11 (12.64)
6 (6.9)
13 (14.94)
11 (5.73)
28 (14.58)
81 ( 42.19)
30 (15.63)
10 (5.21)
32 ( 16.67)
8 (7.62)
4 (3.81)
21 (20)
2 (1.9)
13 (12.38)
20 (19.05)
1 (1.15)
2 (2.3)
15 (17.24)
1 (1.15)
16 ( 18.39)
23(26.44)
9 (4.69)
6 (3.13)
36 (18.75)
3 ( 1.56)
29 ( 15.1)
43 ( 22.4)
11 (10.48)
3 (2.86)
13 (12.38)
8 (7.62)
4 (4.6)
3 (3.45)
5 (5.75)
15 (17.24)
15 (7.81)
6 (3.13)
18 (9.38)
23 (11.98)
2 (1.9)
2 (2.3)
4 (2.08)
41 (39.05)
22 (20.95)
33 ( 37.93)
24 (27.59)
74 ( 38.54)
46 (23.96 )
18
1-3 triệu
3-5 triệu
Trên 5 triệu
Dạng KT
KT vận động
KT nhìn
Cả hai
Thời gian bị KT
Bẩm sinh
Không bẩm sinh
Trung bình thời gian bắt đầu bị
KT
Đánh giá tình trạng KT
Rất nặng
Nặng
Trung bình
Nhẹ
Rất nhẹ
Sống ở đây bao lâu
Từ khi sinh ra
Chuyển đến trên 10 năm
Chuyển đến từ 5-10 năm
Chuyển đến từ 1-5 năm
Chuyển đến từ 6 tháng đến dưới
1 năm
Lý do chuyển đến
Chuyển đến theo gia đình
Chuyển đến khi kết hôn
Chuyển đến để đi học
Chuyển đến để đi làm
Khác (người thân chuyển vào
nhà trẻ nhờ nuôi)
34 (32.38)
5 (4.76)
3 (2.86)
23 (26.44)
5 (5.75)
2 (2.3)
57 (29.69)
10 (5.21)
5 (2.6)
87 (82.86)
15 (14.29)
3 (2.86)
63 (72.41)
20 ( 22.99)
4 (4.6)
150 ( 78.13)
35 (18.23)
7 (3.65)
49 (46.67)
56 (53.33)
5.05
(SD: 7.57)
57 (65.52)
30 (34.48)
2.21
(SD: 4.52)
106 (55.21)
86 (44.79 )
3.76
(SD: 6.51)
9 (8.57)
40 (38.1)
45 (42.86)
10 (9.52)
1 (0.95)
3 ( 3.45)
43 (49.43)
32 (36.78)
9 ( 10.34)
0 (0)
12 ( 6.25)
83 ( 43.23)
77 ( 40.1)
19 ( 9.90)
1 (0.52)
68 (64.76)
8 (7.62)
7 (6.67)
19 (18.10)
3 (2.86)
50 (57.47)
6 ( 6.90)
9 (10.34)
19 (21.84)
3 (3.45)
118 (61.46)
14 (7.29 )
16 (8.33)
38 (19.79)
6 (3.13)
6 (16.22)
3 (8.11)
18 ( 48.65)
9 (24.32)
1 (2.7)
6 (16.22)
2 (5.41)
13 (35.14)
16 (43.24)
12 (16.22)
5 (6.76)
31 ( 41.89)
25 (33.78)
1 (1.35)
2. Nhận thức và thực hiện quyền được yêu
Nội dung quyền được yêu:
- Được tự do lựa chọn người yêu
- Được tự do thể hiện tình yêu
- Không bị sự ngăn cấm của người khác
- Bình đẳng và tôn trọng giữa hai người yêu nhau
2. 1. Nhận thức về quyền được yêu
19
Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy NKT trong nghiên cứu nhận thức về quyền được yêu
chưa cao, cụ thể là có đến 78 người (40.63%) khi được hỏi về nội dung của quyền được yêu trả
lời là không biết về quyền này, 1 người cho biết rằng họ không có quyền này vì họ là NKT. Với
những người đã nói được các nội dung của quyền được yêu thì nội dung được mọi người đề cập
nhiều nhất là tự do thể hiện tình yêu (74 người; 38.54%); tiếp đến là tự do lựa chọn người yêu
(52 người; 27.08%); và 23 người đề cập đến nội dung không bị sự ngăn cấm của người khác
trong tình yêu (23 người; 11.97%) và thấp nhất là nội dung bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau (14
người; 7.29%).
Nội dung quyền được yêu
Tự do lựa chọn người yêu
Tự do thể hiện tình yêu
Không bị sự ngăn cấm của người khác
Bình đẳng và tôn trọng giữa hai người yêu nhau
Không có quyền được yêu vì là NKT
Không biết
Nam
(n=105)
28 (26.67)
43 (40.95)
15 (14.29)
5 (4.76)
0 (0)
42 (40)
Nữ
(n=87)
24 (27.59)
31 (35.63)
7 (8.05)
9 (10.34)
1 (1.15)
36 (41.38)
Tổng số
(n=192)
52 (27.08)
74 (38.54)
22 ( 11.46)
14 (7.29)
1 (0.52)
78 (40.63)
2.2. Thực hiện quyền được yêu và các rào cản
2.2.1. Người yêu lý tưởng của NKT
Cấu phần định tính cho thấy trong khi các bạn nữ KT trong nghiên cứu thích yêu những người
đồng tật với mình để họ có thể hiểu và thông cảm với mình hơn thì nam giới KT lại thích yêu
những người bình thường để họ có thể giúp đỡ mình và gia đình trong cuộc sống sau này và
chăm sóc con cái. Riêng nhóm nam KT nghe nói thì thích yêu những NKT nghe nói để họ có thể
giao tiếp được với nhau vì người bình thường không biết ngôn ngữ kí hiệu để giao tiếp với họ.
Người yêu lý tưởng của em chắc chắn phải là NKT nhưng mà không phải là quá yếu, có thể
cả hai người đều hơi yếu và có thể lo được cho nhau, thế thôi, và người ta yêu mình thật
lòng. (HN_PVS_PN_VD_NV_03)
Người điếc lấy người điếc thì giao tiếp dễ dàng hơn, nói chuyện hiểu nhau hơn, còn nếu
người điếc lấy người bình thường thì không hiểu nhau, bất đồng ngôn ngữ đấy thì buồn, nói
chung thì chán. (HN_PVS_NG_KT_TP_03)
Ttrong vấn đề này thì mình cũng lưu tâm đến là mình phải quyết tâm làm sao lấy được người
khỏe mạnh bình thường để sau này còn giúp đỡ trong cuộc sống thứ nhất là mình yếu mẹ già
con nhỏ thế bây giờ mà không có một người bạn đời khỏe mạnh thì làm sao mà làm được.
(TB_PVS_NG_VD_HG_02)
Kết quả định tính cũng cho thấy NKT không lấy ngoại hình để làm tiêu chuẩn lựa chọn người
yêu lý tưởng mà lấy những phẩm chất tốt, ví dụ như phải biết thông cảm, chia sẻ, giúp đỡ, chăm
lo cho gia đình, thương yêu, che chở cho mình. Tuy nhiên, có sự mâu thuẫn trong mẫu hình lý
tưởng về người yêu của nữ KT. Trong khi nữ KT cho biết họ thích những người đồng tật với
mình, nhưng khi họ đề cập đến những phẩm chất của người yêu lý tưởng là có công việc tốt,
20
chăm chỉ làm việc, biết che chở, bảo vệ cho mình, thương yêu, chung thủy và tôn trọng mình thì
ta thấy rằng ẩn sâu đằng sau những phẩm chất này lại là một người đàn ông bình thường, khoẻ
mạnh. Những phẩm chất này cũng phù hợp với những phẩm chất mà những người phụ nữ Việt
Nam không KT coi là lý tưởng khi chọn người yêu.
Mình không cần người ấy phải đẹp trai, chỉ cần có công việc tốt, biết giúp đỡ chăm lo cho
gia đình, quan trọng là phải có tình cảm với nhau. (HN_PVS_PN_NN_NV_05)
Tôi quan niệm người yêu lý tưởng phải biết thương mình, biết che chở cho mình trong lúc
mình ốm đau hoặc là như nào đó. (TB_PVS_PN_VD_PN_02)
Người yêu lý tưởng là người đấy phải yêu mình, phải thương mình rồi phải nuôi được mình.
Chị nghĩ là người yêu thì phải yêu thương mình này, họ phải biết lo lắng cho mình, chia sẻ
với mình và họ phải giúp đỡ mình. (HN-PVS-VD-PN-01)
Sự mâu thuẫn này đã được làm rõ trong cấu phần định lượng. Kết quả phần định lượng cho thấy
cả nam và nữ đều muốn yêu người không KT, tuy nhiên, nam giới (63.81%) có mong muốn yêu
người không KT với tỷ lệ cao hơn hẳn so với nữ giới (45.35%). Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (X2=10.63; P=0.005). 1/3 số đối tượng cũng cho biết với họ, người yêu lý tưởng không
quan trọng là có KT hay không.
Người yêu lý tưởng
NKT
Người không KT
Không quan trọng
Tổng
Nam
5 (4.76)
67 (63.81)
33 (31.43)
104 (100)
Nữ
15 (17.44)
39 (45.35)
32 (37.21)
87 (100)
Tổng
20 (10.47)
106 (55.5)
65 (34.03)
191 (100)
2.2.2. Đánh giá về sự hấp dẫn giới tính
Cả cấu phần định tính và định lượng đều cho thấy nhiều NKT nhận thấy mình hấp dẫn giới tính,
trong đó tỷ lệ này ở cấu phần định tính cao hơn so với cấu phần định lượng (61,11% và 41.15%).
Mặt hấp dẫn lớn nhất mà các đối tượng nghiên cứu tự đánh giá là về tính cách (51 người,
63.75%), tiếp đến là ăn nói (41 người, 51.25%), sau đó là ngoại hình (28 người; 35.44%) và cuối
cùng là tài năng (16 người; 20.25%). Tỷ lệ nam nhận mình hấp dẫn về giới tính cao hơn nữ giới
nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Biểu đồ: Đánh giá về tính hấp dẫn giới tính
của NKT
Biểu đồ: Các mặt hấp dẫn của NKT
21
H: Chị có cảm thấy mình có hấp dẫn về mặt giới tính không ?
Đ: Có chứ. Mà không phải vì mình là NKT lấy chồng NKT mà mình tự tin câu đấy đâu. Chị
thấy là thực ra thì ai cũng có những điểm đáng yêu hết. Ví dụ như chị thì có thể là chị cũng
khá là duyên dáng chẳng hạn. Mấy cả thật ra mình cảm thấy là cách mình nói chuyện với
mọi người, mọi người cũng có thiện cảm với mình, chẳng hạn như thế.
(HN_PVS_PN_VD_01)
Em nghĩ mình cũng có hấp dẫn tại mình thấy mình cũng được rất nhiều người quan tâm.
Không chỉ riêng các bạn khiếm thị đâu. Các bạn bình thường cũng có. Các bạn sinh viên
tình nguyện các bạn í gặp mình các bạn ấy cũng nói nhưng mình không quan tâm đến các
bạn ấy nhiều nên mình cũng không nói chuyện. Em nghĩ là do cái thứ nhất là mình luôn lạc
quan. Để người bình thường tiếp xúc với em mà không nói thì không ai biết em là người
khiếm thị đâu. Cái thứ hai là trong lúc nói chuyện em cũng không ngại nói về vấn đề khiếm
thị của mình. Cái nữa thì chắc là mình nhìn cũng được được một tí (cười)
HN_PVS_NG_NH_TP_01
Mình thấy mình cũng hấp dẫn đấy chứ, ví dụ như là mình có khả năng về ca hát này, hoặc là
mình nói chuyện là mình có cái tính khôi hài một chút, mình sống hòa đồng, chắc là người
phụ nữ người ta mến mình, hoặc là mình cũng có một chút ngoại hình chẳng hạn
(TB_PVS_NG_NH_PN_01)
Có 59% số người trong phần định lượng nghĩ rằng mình không hấp dẫn, chủ yếu về lý do ngoại
hình của họ không được đẹp như người bình thường. Bên cạnh đó, NKT cũng nêu ra một số trở
ngại làm giảm sự hấp dẫn của họ, chẳng hạn như KT khiến họ không đi guốc được và mặc quần
áo không đẹp như người bình thường, người khác nghĩ rằng NKT không cần làm đẹp và nói trực
tiếp với họ hoặc bàn tán về việc làm đẹp của họ khiến họ không dám làm đẹp. Điều này cho thấy
rằng những NKT cũng bị ảnh huởng rất lớn bởi khuôn mẫu chung của xã hội về cái đẹp của
người phụ nữ, đó là người phụ nữ đẹp phải biết trang điểm, ăn mặc đẹp, đi dép guốc cao.
Bây giờ em nghĩ mà xem, nhìn cô gái bị KT ấy thật ra nó cũng kém hấp dẫn với những cô gái
khỏe mạnh bình thường, đúng không. Ví dụ như em, chị nói đơn giản em có thể mặc váy, đi
những đôi guốc cao nhưng NKT thì không thể làm như thế được. Họ mặc váy nhưng họ
không thể đi guốc cao hoặc là váy của họ mặc không thể hấp dẫn như những cô gái bình
22
thường. như chị ngày xưa, mùa hè đấy mọi người cứ bảo đi guốc thích, thật ra nhiều khi
mình thèm cảm giác đi một đôi guốc là như thế nào vì thật ra mình không thể đi được những
đôi đấy, mình chỉ đi được giày bệt thôi. (HN-PVS-VD-PN-01)
Vì mình rất là mặc cảm bởi vì bây giờ chân mình đã như thế này mình lại còn ăn chơi nữa
thì người ta sẽ nói thế nọ kia. Người ta nói đã què mà lại còn vớ vẩn đấy. Thế cho nên là tôi
rất mặc cảm về cái đấy bởi vì cái đấy tự nhiên làm mình cảm thấy không như thế nào nữa.
Cho nên là đôi lúc mình rất là muốn ăn mặc cho nó đàng hoàng nhưng mà chỉ vì mặc cảm
với đôi chân của mình nên mình cũng cảm thấy rất là tự ti. (TB_PVS_PN_VD_PN_02)
Bố mẹ em hơi bị cổ hủ. Khi mà em đến trường kiểu như là em muốn make up một tí ấy, thì bố
mẹ em bảo là mày què cụt rồi thì make up cái gì. Rồi khi em bôi tí nước hoa thì bảo là hôi
như cú thì bôi nước hoa làm gì. Rất là cổ hủ, rất là buồn cười như thế.
(HN_PVS_PN_VD_NV_01)
Việc NKT đánh giá mình không hấp dẫn, đặc biệt là về mặt ngoại hình có thể khiến họ trở nên tự
ti, mặc cảm ơn trong giao tiếp với những người khác và chính điều này có thể hạn chế những cơ
hội tình yêu của họ.
2.2.3. Xu hướng gắn kết tình yêu với hôn nhân và sinh con
Kết quả nghiên cứu định lượng và định tính đều cho thấy tình yêu có ý nghĩa rất lớn với NKT, ý
nghĩa lớn nhất được đề cập đến là để có chỗ dựa về tinh thần (124 người, 64.6%), điều này với
họ nghĩa là có người yêu thì họ được chia sẻ, được hiểu, được bảo vệ. Tình yêu cũng mang đến
cho NKT sự tự tin (34 người, 17.7%), động lực trong cuộc sống (63 người, 32.8%) và để có
người giúp đỡ họ (33 người, 17.2%).
Ý nghĩa của tình yêu
Để kết hôn
Để sinh con
Để có người giúp mình
Để có động lực hơn trong cuộc sống
Để có chỗ dựa về kinh tế
Để có chỗ dựa về tinh thần (chia sẻ, hiểu mình, bảo vệ mình,...)
Để cảm thấy tự tin hơn
Để cuộc sống vui vẻ, có ý nghĩa hơn
Buồn, ảnh hưởng đến công việc và học tập nếu giận nhau
Không có ý nghĩa gì hết
Chưa nghĩ đến
Không biết
Tần suất (%)
31 (16.1)
26 (13.5)
34 (17.7)
62 (32.3)
5 (2.6)
122 (63.5)
34 (17.7)
15 (7.81)
7 (3.65)
1 (0.52)
7 (3.65)
18 (9.38)
Tuy nhiên, bên cạnh những ý nghĩa tích cực để khuyến khích NKT đến với tình yêu đó, nhiều
NKT còn gắn ý nghĩa của tình yêu với hôn nhân (31 người, 16.1%) và sinh con (26 người,
13.5%). Chính việc gắn kết này một mặt làm cho NKT không dám yêu, đặc biệt là phụ nữ bởi vì
hôn nhân có nghĩa là phụ nữ phải chăm lo công việc tề gia nội trợ của gia đình nhà chồng, phải
biết phải biết đối nội, đối ngoại với gia đình nhà chồng theo quan niệm truyền thống của Việt
23
Nam, vì thế nhiều phụ nữ lo lắng rằng mình bị KT như thế này chăm lo cho mình còn khó thì sẽ
không hoàn thành được những trách nhiệm của một nàng dâu nên sẽ không yêu. Mặt khác, việc
gắn kết khiến cho những người đã yêu rồi thì phải đi đến hôn nhân, nếu chia tay là xấu và mọi
người sẽ phán xét. Trong bối cảnh cơ hội tình yêu hạn chế kết hợp với sợ mọi người phán xét
nếu chia tay có thể khiến cho họ kể cả khi tình yêu gặp trục trặc hoặc khi không muốn yêu nữa
nhưng vẫn quyết định kết hôn. Điều này có thể khiến cho cuộc sống hôn nhân của họ tồi tệ hơn.
Mình nghĩ là có người yêu thì sau này sẽ có cơ hội được kết hôn, lấy chồng. Mình chỉ quan
trọng có người yêu là để sau này lấy chồng. Ngày xưa mình có yêu mấy anh ấy thì cũng
không nhận được nhiều sự giúp đỡ từ các anh ấy nên thực sự mình cũng chỉ yêu để về sau
lấy chồng. (HN_PVS_PN_NN_HG_04)
Bọn em vẫn mặc cảm với cuộc sống vì mình không lành lặn. Riêng bản thân em, em không
cho phép bản thân mình như thế [được yêu] bởi vì yêu là lập gia đình đó chị. Bởi vì em là
người khiếm thị, sinh hoạt cho bản thân mình còn khó, chắc là lập gia đình còn khó hơn, thế
là em luôn né tránh điều đó. [H: Em có thể kể cho chị cụ thể về trường hợp của em được
không?] Em có một bạn cùng lớp xoa bóp với em, cũng thích em nhưng em luôn né tránh
bạn đấy. Yêu thì trước mắt nhiều khi yêu bởi vì họ nghĩ là họ yêu, hôn nhân rồi lập gia đình.
Em không nghĩ đến điều đấy, thế là em không tiến tới. (nữ KT nhìn, 25 tuổi, chưa kết hôn,
Thái Bình) TB_TLN_PN_NV_02, trang 5
Yêu thì sẽ là lấy. Như bạn Phương yêu 7 năm, đúng 7 năm cưới, không yêu một đứa nào
khác. Yêu nhau vì một lý do gì đó chia tay nhau thì đấy rất là xấu. (TB_TLN_PN_PN_01)
2.2.4. Kì thị của gia đình và xã hội và sự tự kì thị hạn chế cơ hội có người yêu của NKT
Phần lớn những người tham gia nghiên cứu định lượng và định tính đều nói lên khía cạnh tốt của
tình yêu, nhưng họ cũng cho rằng thực tế những cơ hội để có được tình yêu, để đến với những ý
nghĩa lớn lao đó còn rất hạn chế. Bên cạnh hạn chế về thể chất liên quan đến KT chẳng hạn như
KT làm ảnh hưởng đến việc đi lại thì sự kỳ thị và tự kỳ thị với NKT mới là cản trở chính đối với
cơ hội có tình yêu của NKT, đặc biệt là nữ KT.
Thứ nhất, NKT cảm thấy rất tự ti, mặc cảm với KT của mình vì vậy nên họ thường khép mình,
không giao lưu rộng rãi với những người khác, họ luôn cảm thấy có khoảng trống vô hình giữa
mình với những người bình thường khác. Mặc cảm liên quan đến KT này khiến họ không dám
chủ động trong vấn đề tình yêu.
Người ta nói rằng: sinh ra ai cũng có một nửa, nên là tìm thấy vào một ngày. Tình yêu sẽ
đến với bất kì ai, kể cả người bình thường hay NKT, quan trọng là mình dám nói ra, mình
dám yêu, dám thổ lộ. Nói chung là ai cũng có hết, chỉ là không có một cách dễ dàng thôi.
NKT thì cơ hội đấy ít hơn bởi vì họ hay tự giới hạn mình, họ đi ra ngoài ít. Họ cảm thấy tự ti,
không tự tin vào mình, không đi ra ngoài thành ra giới hẹp, hạn chế.
(Hà Nội, nam KT vận động, 28 tuổi, đã kết hôn) HN_PVS_NG_VD_NV_07, trang 18
Vâng, em nghĩ cái cơ hội tình yêu của NKT ít vì NKT cũng mặc cảm ấy, lúc nào người ta
cũng nghĩ và người ta luôn tự ti về mình. [H: Những cái mặc cảm và tự ti này là do đâu] Do
24
cái KT nó mang lại chứ còn ví dụ như em mà là một người bình thường sẽ khác rất nhiều. Ví
dụ như em bình thường mà không bị như thế này thì khi đi ra ngoài rồi tham gia vui chơi
cùng bạn bè các thứ thì mình tự tin hơn. Em đi bây giờ nhá, bạn bè em cấp hai cấp ba mọi
người vẫn chơi với em bình thường nhưng lúc nào trong suy nghĩ của em nó có một cái rào
cản gì đó, như một cái khoảng trống vô hình nào đấy, nó tách mình ra các bạn. Trong khi
mình cố gắng nghĩ bình thường nhưng mà lúc nào mình cũng nghĩ như thế. Mình vẫn cứ mặc
cảm và nó có một khoảng cách nào đó với mọi người.
(Hà Nội, nữ KT vận động,26 tuổi, chưa kết hôn) HN_PVS_PN_VD_NV_03
Đ: cơ hội ít thì theo mình đó là do cái tình trạng KT, cái người mà khi mà người ta đã có cái
khiếm khuyết thì người ta sẽ có những cái mặc cảm, sự hoà nhập của bản thân NKT với cộng
đồng nó ít thế nên người ta cũng không dám chủ động trong cái vấn đề về tình yêu, hôn
nhân. (Thái Bình, nam KT nhìn, 30 tuổi, đã kết hôn) TB_PVS_NG_PN_01
Sự mặc cảm tự ti này một lần nữa lại được thể hiện trong nghiên cứu định lượng khi mà 89 đối
tượng chưa yêu ai (tình yêu hai phía) trong nghiên cứu cho biết lý do chính họ chưa yêu ai là do
họ mặc cảm với KT của họ nên sẽ không yêu (46 người, 51.69%).
Lý do chính cho việc chưa yêu ai
Vì chưa gặp được người phù hợp
Vì mặc cảm với KT nên sẽ không yêu
Vì gia đình cấm không cho yêu
Vì nghĩ mình còn ít tuổi
Không nghĩ đến chuyện yêu
Ít tiếp xúc với người khác
Công việc và kinh tế chưa ổn định
Khác (ngỏ lời bị từ chối, sức khỏe yếu, chưa nuôi được bản thân)
Tần suất (%)
N=89
24 (26.97)
46 (51.69)
1 (1.12)
5 (5.62)
3 (3.37)
3 (3.37)
3 (3.37)
5 (5.62)
Bên cạnh đó, cũng đã có tới 92 người (48.17%) đã từng yêu đơn phương mà không dám bày tỏ
tình cảm của mình do mặc cảm với KT, trong đó tỷ lệ này ở nam cao hơn ở nữ nhưng sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Đã từng yêu nhưng không dám bày
tỏ tình cảm do mặc cảm với KT
Có
Không
Tổng
Nam
Nữ
Tổng
54 (51.92)
50 (48.08)
104 (100)
38 (43.68)
49 (56.32)
87 (100)
92 (48.17)
99 (51.83)
191 (100)
Theo những NKT cho biết thì sự mặc cảm, tự ti của NKT một phần là do sự nhìn nhận của người
bình thường đối với họ.
Rõ ràng với NKT thì nó khó khăn hơn. Có thể họ mặc cảm vì sự nhìn nhận của người bình
thường với NKT làm họ rụt rè hơn. Họ nghĩ là yêu NKT sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong
cuộc sống, trong tất cả mọi việc. Họ cứ nghĩ là NKT sẽ không giúp đỡ được nhiều cho họ
trong cuộc sống sau này. (HN_PVS_NG_NH_TP_02)
25