Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Vai trò của triết học với đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.87 KB, 13 trang )

GS. TS. Lê H ữu T ầng
T ạp chí Tri ết h ọc
Ngu ồn: />Trong bài này, tác gi ảđề c ập đến hai thái c ự
c trái ng ượ
c nhau khi đá nh giá vai trò c ủa
tri ết h ọc trong cu ộc s ống. Thái c ự
c th ứnh ất coi th ườn g vai trò c ủa tri ết h ọc vì cho r ằng:
1) Tri ết h ọc nghiên c ứ
u và gi ải quy ết nh ữ
ng v ấn đề quá chung nên nh ữ
ng k ết qu ả
nghiên c ửu c ủa nó không có tác d ụng thi ết th ự
c gì h ết,
2)Tri ết h ọc không có ph ươ
n g pháp và trang thi ết b ị nghiên c ứ
u riêng c ủa mình nh ưc ủa
khoa h ọc t ự nhiên nên tính chân lý c ủa các k ết qu ả nghiên c ứ
u tri ết h ọc không được
b ảo đảm . Thái c ự
c th ứhai, ng ược l ại, l ại tuy ệt đối hoá vai trò c ủa tri ết h ọc, cho r ằng ch ỉ
c ần n ắm được tri ết h ọc thì s ẽgi ải quy ết được t ất c ảcác v ấn đề c ụth ểc ủa cu ộc s ống.
Tác gi ảđã lu ận ch ứ
ng cho quan đi ểm , theo đó , c ả hai thái c ự
c trên đều sai l ầm vì để
gi ải quy ết m ột cách có hi ệu qu ả nh ữ
ng v ấn đề c ụth ểc ủa cu ộc sông, c ần k ết h ợ
p ch ặt
ch ẽ c ảhai lo ại tri th ứ
c: Tri th ứ
c chung (trong đó có tri th ứ
c tri ết h ọc và tri th ứ


c khoa h ọc
chuyên ngành) và tri th ứ
c th ự
c ti ễn (trong đó có s ựhi ểu bi ết tình hình th ứ
c ti ễn và trình
độ tay ngh ềđược bi ểu hi ện qua s ựnh ạy c ảm th ự
c ti ễn).

Ch ủ đề H ội th ảo c ủa chúng ta là ( Nh ận th ứ
c l ại vai trò c ủa tri ết h ọc trong k ỷ nguyên
toàn c ầu. Nói "nh ận th ứ
c l ại", trong tr ườ
ng h ợ
p này, có ngh ĩa là nh ận th ứ
c tr ướ
c đâ y là
phù h ợp v ới th ời k ỳ tr ướ
c đâ y, nh ư
ng ngày nay, trong k ỷ nguyên toàn c ầu, nh ận th ứ
c
đó c ần được b ổsung, hoàn thi ện thêm cho phù h ợp v ớ
i b ối c ảnh m ớ
i.
Mu ốn v ậy, có l ẽc ần xem l ại xem vai trò c ủa tri ết h ọc đã được đá nh giá nh ưth ếnào?

Triết học, như chúng ta biết, đã có lịch s ử t ồn t ại su ốt m ấy ngàn n ăm v ới r ất nhi ều h ệ
thống, trào lưu, tr ường phái khác nhau. M ặc đầu v ậy, theo nh ận xét c ủa Vi ện s ĩ
T.I.Ôiderman - nhà nghiên c ứu lịch s ử tri ếth ọc n ổi ti ếng c ủa Liên Xô tr ước đây và C ộng
hoà Liên bang Nga ngày nay - thì cho đến nay, h ầu nh ư không có m ột định ngh ĩa nào



về triết học được mọi người thừa nhận. S ự thống nhất ý ki ến gi ữa các nhà tri ết h ọc v ĩ
đại về một định nghĩa triết học nào đó là h ết s ức hi ếm hoi, g ần nh ư là m ột ngo ại l ệ.
Song, cũng giống nh ư trong lĩnh v ực văn hoá, v ới trên 300 định ngh ĩa khác nhau, nh ưng
không vì v ậy mà v ăn hoá không phát tri ển. Tri ết h ọc c ũng th ế. Tuy hi ện ch ưa có định
nghĩa nào được mọi người th ừa nh ận, nh ưng tri ết h ọc c ũng không vì v ậy mà không ti ếp
tục t ồn t ại và phát tri ển, không ti ếp t ục xu ất hi ện thêm các h ệ th ống, trào l ưu, tr ường
phái mới.
Triết học, ngay t ừ khi m ới nảy sinh và cho đến mãi t ận nay, dù t ồn t ại ở ph ương Đông
hay phương Tây, dù d ưới dạng các h ệ thống, trào l ưu, tr ường phái r ất khác nhau,
nh ưng n ội.đung c ất lõi c ủa tri ết h ọc bao gi ờ c ũng bao g ồm nh ững quan đi ểm lý lu ận
chung nhất, những lời giải đáp có lu ận ch ứng (dù được tán thành hay không được tán
thành) cho nh ững câu hỏi của con ng ười v ề th ế gi ới xung quanh mình, v ề v ị trí c ủa con
người trong thế giới đó, về quan h ệ gi ữa con ng ười v ới thiên nhiên và v ới b ản thân con
người. Trong triết học, ng ười ta luôn tìm th ấy nh ững bi ện lu ận, phán xét suy t ư, nh ững
băn khoăn, trăn trở cùng nh ững l ời gi ải đáp cho các câu h ỏi v ề s ố ph ận c ủa cá nhân
con ng ười tr ước thiên nhiên bao la, v ề ngu ồn g ốc cùng nh ững bí ẩn c ủa thiên nhiên bao
la ấy, nh ững s ức mạnh, nh ững l ực l ượng chi ph ối nó và chi ph ối cu ộc s ống c ủa chính
bản thân con ng ười, về cuộc sống và cái ch ết c ủa h ọ... Nh ững l ời gi ải đáp ấy, dù là
khác nhau trong các hệ thống, trào l ưu, tr ường phái tri ết h ọc khác nhau nh ưng đều là
những cách lý giải nh ất định về th ế gi ới mà trong đó con ng ười đang s ống theo quan
đi ểm của các hệ th ống, trào l ưu, tr ường phái tri ết h ọc đó.
Song, bất cứ hệ thống lý luận nào cũng không bao gi ờ ch ỉ làm m ột nhi ệm v ụ là lý gi ải v ề
thế giới. Triết học cũng vậy. Trên c ơ s ở c ủa s ự lý gi ải ấy, tri ết h ọc tr ở thành cái đinh
hướng cho con người trong hành động. Khi tr ở thành cái định h ướng cho con ng ười
trong hành động, triết học th ực hi ện một ch ức n ăng khác - ch ức n ăng ph ương pháp
luận.
V ề nguyên t ắc, giá trị định h ướng này c ủa tri ết h ọc không khác v ới giá tr ị định h ướng
của các nguyên lý, quy lu ật, h ệ th ống lý lu ận c ủa các b ộ môn khoa h ọc chuyên ngành
nào đấy v ề m ột lĩnh v ực nh ất định nào đó c ủa hi ện th ực, ch ẳng h ạn, không khác v ới giá

trị định hướng của định luật bảo toàn và chuy ền hoá n ăng l ượng, c ủa quy lu ật giá tr ị...
Cái khác chỉ là ở ch ỗ, vì các nguyên lý, các kh ẳng định c ủa tri ết h ọc là k ết qu ả nh ận
thức những mặt, nh ững thuộc tính, nh ững mối liên h ệ chung nh ất c ủa c ả t ự nhiên, xã
h ội l ẫn t ư duy, cho nên chúng có tác d ụng định h ướng không ph ải ch ỉ trong m ột ph ạm vi
nhất định nào đấy nh ư trong tr ường h ợp các nguyên lý, quy lu ật do các khoa h ọc
chuyên ngành nêu lên, mà ở t ất c ả m ọi l ĩnh v ực các nguyên lý, các kh ẳng định tri ết h ọc
ấy giúp cho con ng ười khi b ắt tay vào nghiên c ứu và ho ạt động c ải bi ến s ự v ật bao gi ờ
cũng có được một lập trường xuất phát nhất định. Lập tr ường xu ất phát ấy giúp cho ch ủ
thể hành động th ấy tr ước được ph ương h ướng v ận động chung c ủa đối t ượng, xác định
được sơ bộ các mốc cơ bản mà vi ệc nghiên c ứu hay ho ạt động c ải bi ến s ự v ật ph ải tr ải
qua, nghĩa là nó giúp cho con ng ười xác định được v ề đại th ể con đường c ần đi, có


được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh được những mò
mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt hết sức phức tạp mà không có t ư
tưởng dẫn đường. Xuất phát từ một lập trường triết học nhất định, con người s ẽ đi đến
chỗ lựa chọn một phương hướng giải quyết vấn đề theo một cách th ức nh ất định, và
xuất phát từ những lập trường triết học khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ l ựa ch ọn
những phương hướng và cách thức giải quyết vấn đề một cách khác nhau. Đi ều đó có
nghĩa là, việc chấp nhận hay không chấp nhận một l ập trường triết h ọc nào đấy s ẽ
không chi đơn thuần là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định,
một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là s ự ch ấp nh ận hay không ch ấp nh ận
một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động.
Khẳng định trên đây cho thấy triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, vi ển vông,
ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát từ một lập
trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách gi ải quy ết đúng đắn
các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập tr ường triết h ọc sai
lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây th ể hi ện giá tr ị
đinh hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp lu ận c ủa tri ết
học. Tiếc rằng, giá trị định hướng này hiện nay chưa được khai thác triệt để. Có lẽ chính

vì vậy mà còn có những sự đánh giá chưa thoả đáng v ề vai trò c ủa tri ết h ọc trong vi ệc
giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
Sự đánh giá chưa thoả đáng đó thể hiện trước hết ở thái độ coi thường vai trò của triết
học. Những người giữ thái độ này cho rằng, vì triết học nghiên c ứu và gi ải quyết nh ững
vấn đề quá chung, nên những kết quả nghiên cứu của nó chẳng có tác d ụng thi ết th ực
gì hết?
Ý kiến trên đây, trong chừng mực nhất định, có căn cứ c ủa nó, vì trong nhi ều tr ường
hợp, khi giải quyết những vấn đề cụ thể, những người làm công tác thực tiễn không th ể
tìm thấy ở những người làm công tác triết học một câu tr ả l ời c ụ th ể. Trong khi đó, trong
hoạt động thực tiễn, con người lại bắt gặp và buộc phải giải quy ết trước h ết chính
những vấn đề hết sức cụ thể này. Vậy, phải chăng ở đây, tri thức triết học là vô ích?
Không! Mặc dầu những vấn đề bức bách do cuộc sống, do hoạt động th ực tiễn đặt ra
bao giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ thể, nhưng để giải quyết những v ấn đề cụ thể
ấy một cách có hiệu quả, không một ai có thể lảng tránh việc gi ải quyết những v ấn đề
chung hay xuất phát từ lời giải đáp đã có về những vấn đề chung liên quan với các v ấn
đề cụ thể đó. A.Anhxtanh đã từng nhận xét vào năm 1954: "Những khó khăn mà nhà vật
lý hiện nay đang vấp phải trong lĩnh vực của mình đã buộc ông ta phải đề cập đến
những vấn đề triết học nhiều hơn nhiều so với nhà vật lý của các thế hệ tr ước". M.Plank
cũng có nhận xét tương tự: "Một tập hợp những sự kiện mới càng rối rắm bao nhiêu,
các tư tưởng mới càng nhiều hình nhiều vẻ bao nhiêu thì nhu c ầu ph ải có m ột th ế gi ới
quan liên kết lại càng cảm thấy trở nên bức thi ết b ấy nhiêu. Xu h ướng tìm đến th ế gi ới
quan liên kết này có ý nghĩa lớn lao không ch ỉ đối với v ật lý h ọc, mà còn đối v ới toàn b ộ


khoa học tự nhiên". Như vậy, khi đi vào giải quy ết nh ững v ấn đề cụ th ể c ủa ho ạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, người nghiên cứu sớm muộn sẽ vấp phải
những vấn đề chung, trong đó có những vấn đề triết học mà việc giải quyết chúng, là c ơ
sở cho việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Những lời giải đáp tìm được ở đây, trong lĩnh
vực triết học, là sự đóng góp rất thiết thực vào việc giải quyết những vấn đề hết sức cụ
thể ấy chứ không phải nằm bên lề của việc giải quyết những vấn đề đó.

Tuy nhiên, không nên hiểu sự đóng góp này một cách gi ản đơn. Không nên hi ểu hi ệu
quả của nghiên cứu triết học như hiệu quả nghiên c ứu c ủa các bộ môn khoa h ọc k ỹ
thuật, càng không nên hiểu nó như hiệu quả của hoạt động s ản xu ất tr ực ti ếp. Các k ết
luận mà nghiên cứu triết học đạt tới không phải là lời giải đáp trực ti ếp, c ụ th ể cho t ừng
vấn đề cụ thể vô cùng đa dạng của cuộc sống, mà, như đã nói trên, nó là cơ sở cho việc
tìm kiếm những lời giải đáp trực tiếp, cụ thể ấy. Chẳng hạn, k ết lu ận m ới c ủa Đại h ội VI
Đảng Cộng sản Việt Nam: "Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường h ợp
quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng b ộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,, chính là cơ sở
cho việc xác định hàng loạt chính sách mới, đúng đắn hơn trong nhi ệm v ụ c ải t ạo xã h ội
và phát triển kinh tế trong suất quá trình đổi mới. Trên đây ch ỉ là m ột trong r ất nhi ều thí
dụ cho thấy hiệu quả của nghiên cứu triết học chính là ở giá trị đinh h ướng cho ho ạt
động thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết lu ận chung, có tính khái
quát cao mà nó đạt tới chứ không phải là những lời giải đáp cụ thể cho từng trường hợp
cụ thể.
Một lý do nữa đã góp phần làm xuất hiện thái độ coi thường vai trò của triết học đó là sự
nghi ngờ về tính chân lý của các khẳng định triết học. Người ta đặt câu hỏi: tri th ức tri ết
học có đáng tin cậy không khi nó đóng vai trò là cái định h ướng cho con ng ười trong
hoạt động thực tiễn? Vấn đề là ở chỗ, trong thời kỳ cổ đại, khi các khoa học chuyên
ngành chưa phát triển, thậm chí chưa xuất hiện, con người có thể b ằng lòng v ới l ời gi ải
đáp của triết học đối với các vấn đề mà con người quan tâm về th ế gi ới xung quanh
mình. Nhưng, với sự xuất hiện và phát triển, thậm chí phát triển m ạnh mẽ c ủa các khoa
học chuyên ngành, thì con người không còn thoả mãn với nh ững câu tr ả l ời c ủa tri ết
học được nữa. Tại sao vậy?
Trước hết, vì các khẳng định của khoa học phải được kiểm tra bằng các tài li ệu th ực
nghiệm. và về nguyên tắc, có thể bị thực nghiệm bác bỏ. Trong khi đó, các kh ẳng định
của triết học không thể kiểm tra được bằng thực nghiệm và cũng không bác b ỏ được
bằng thực nghiệm (chẳng hạn, không thể làm được như thế với các lu ận điểm nh ư v ật
chất có trước, ý thức có sau, với quan điểm c ủa Hêghen nói r ằng c ơ s ở phát tri ển c ủa
giới tự nhiên là sự phát triển của ý niệm tuyệt đối…).

Thứ hai, triết học không có phương pháp nghiên cứu riêng của mình, trong khi đó các
khoa học tự nhiên đùng các phương pháp nghiên cứu khoa h ọc hi ện đại v ới s ự tr ợ giúp


của các phương tiện hiện đại nên tính chân lý của các k ết qu ả nghiên c ứu đạt được
được bảo đảm.
Những ý kiến nhận xét trên đây, trong chừng mực nhất định, cũng có căn cứ c ủa nó, vì
đúng là triết học không có trong tay mình một phương ti ện kỹ thu ật nào, m ột thi ết b ị
quan sát, thí nghiệm nào để tiến hành thu thập tài liệu, nghiên cứu và trên cơ sở đó, tiến
tới khám phá những bí ẩn của sự vật, hiện tượng mà mình nghiên c ứu. Vậy, tri ết h ọc
dựa vào đâu và làm cách nào để đi tới chân lý?
Trên cơ sở phân tích và khái quát hoá đặc điểm nhận thức c ủa triết h ọc trong su ốt quá
trình phát triển lịch sử của nó, nhiều tác giả rút ra kết lu ận r ằng, tri ết h ọc t ự b ản thân nó
không trực tiếp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể, nh ưng nó sử d ụng
các kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn đã được ghi l ại
trong các khái niệm, lý thuyết của các bộ môn khoa h ọc chuyên ngành khác, được th ể
hiện trong các tác phẩm vặn học, nghệ thuật, các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ... Tất
cả những cái đó tạo nên "nền tài liệu thực nghiệm" mà xuất phát t ừ đấy, tri ết h ọc đi t ới
các phát hiện của mình.
Triết học đi tới các phát hiện đó bằng cách nào? 'Có tác gi ả cho r ằng b ằng t ư duy lý
luận, tác giả khác lại cho rằng bằng khái quát hoá lý lu ận, số thứ ba cho r ằng b ằng lu ận
giải (interprêtaxia)... Chính bằng cách đó, các kết luận tri ết h ọc được rút ra và l ại quay
trở lại .phục vụ cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn.
Từ kinh nghiệm nghiên cứu vật lý học của mình, M.Bom cho r ằng, v ật lý h ọc c ủa th ực
tiễn không? Đó là những vấn đề đặt ra rất cần được nghiên cứu, giải quy ết. Song, dù
thế nào chăng nữa, chúng tôi vẫn nghĩ rằng, có lẽ cùng v ới vi ệc sử d ụng các phương
pháp tư duy lý luận hay khái quát hoá lý luận… nh ư đã kể trên, nên ch ặng, vi ệc nghiên
cứu triết học cần được kết hợp với các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, s ử đụng
phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành ấy để đưa khách th ể nghiên c ứu vào
tình huống nghiên cứu đã được lựa chọn một cách có chủ đích, để buộc khách th ể ph ải

trả lời câu hỏi của người nghiên cứu. Hy vọng rằng bằng cách làm ấy, chúng ta có th ể
làm cho các kết quả nghiên cứu của chúng ta có c ơ s ở hơn, đáng tin c ậy h ơn, thuy ết
phục hơn chăng! Điều này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên toàn cầu, k ỷ
nguyên của những vấn đề liên quan đến toàn cầu mà việc gi ải quy ết chúng đòi h ỏi con
người phải vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp, cục bộ, địa ph ương, qu ốc gia để ti ến t ới
tầm nhìn toàn cầu, một tầm nhìn không thể không đòi hỏi phải có s ự tham gia c ủa tri ết
học.
Bên cạnh thái độ coi thường vai trò của triết học - một thái độ rất tiếc r ằng, hi ện nay v ẫn
hiện diện ở nơi này, nơi kia, trong lĩnh vực hoạt động này hay khác - lai có m ột thái độ
khác: thái độ tuyệt đối hoá vai trò của triết học, nghĩ rằng chỉ cần nắm được triết h ọc thì
lập tức sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của thực tiễn. Có nơi, có lúc, vì quá
nhấn mạnh vai trò của triết học nên đã gây ra ở một số người ảo tưởng rằng, triết học là


cái chìa khoá vạn năng, chỉ cần nắm được nó là tự khắc sẽ gi ải quyết được m ọi v ấn đề.
Có nơi, có lúc, với lòng nôn nóng muốn đưa triết học vào phục v ụ ho ạt động th ực ti ễn,
các cán bộ triết học đã hăng hái lao vào nghiên c ứu, gi ải quy ết nh ững v ấn đề th ực ti ễn
quá cụ thể chỉ với những tri thức triết học chung mà quên mất r ằng, để có th ể tìm ra l ời
giải đáp đúng đắn cho những vấn đề hết sức cụ thể, bên cạnh những tri th ức lý lu ận
chung, trong đó có tri thức triết học, còn cần có hàng lo ạt tri th ức khác n ữa, nh ư s ự am
hiểu tường tận về tình hình thực tế liên quan đến vấn đề cụ th ể đang được xét trong
một bối cảnh không gian - thời gian nhất định, sự hiểu biết sâu s ắc về ngh ề nghi ệp, đặc
biệt là sự nhạy cảm thực tiễn, một sự nhạy cảm chỉ có được qua quá trình đào luy ện,
lăn lộn lâu năm trong nghề. Thiếu những cái vừa nói, không một nhà tri ết h ọc uyên bác
nào có thể tìm ra được một lời giải đáp đúng đắn nào cho bất cứ m ột vấn đề c ụ th ể nào
của cuộc sống, cho dù đó là một vấn đề đơn giản nhất đi nữa.
Như vậy, để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết s ức ph ức
tạp và vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh c ả hai thái c ực sai l ầm: ho ặc
là xem thường triết học và do đó sẽ sa vào tình tr ạng mò m ẫm, tu ỳ ti ện, d ễ b ằng lòng
với những biện pháp cụ thể, nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thi ếu nhìn xa

trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công việc; hoặc là tuyệt đối hoá vai trò c ủa
triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng áp dụng m ột cách máy móc nh ững nguyên lý,
những quy luật, những tri thức triết học chung mà không tính đến tình hình c ụ th ể đó
không nắm được tình hình cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể, hậu quả là sẽ khó
tránh khỏi bị thất bại.
Kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức trên đây tri thức chung (trong đó có tri th ức tri ết h ọc
và tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có s ự hi ểu bi ết tình
hình thực tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực ti ễn) - đó là
tiền đề cần thiết đảm bảo thành công của chúng ta trong hoạt động cụ thể của mình.
Nguồn:Tạp chí Triết học
Số lượt xem:22.818-Cập nhật lần cuối:09/09/2006 09:46' SA
Bản in Về đầu trang
Bình luận(7)
Một số ý kiến..
Thứ bảy, 23/09/2006 10:47' SA
Đọc bài 'Triết học có thể đóng vai trò gì trong cuộc s ống?" thật ý nghĩa. Tôi rút ra được
rất nhiều điều. Xin cám ơn tác giả.
Tôi đồng cảm với bài viết này!
Thứ tư, 25/10/2006 09:39' CH
Tôi đồng ý với bài viết trên. Qua thực tiễn cuộc s ống c ủa mình, tôi th ấy n ếu nh ư m ột
người có nhân sinh quan sâu sắc hay là có s ự suy ng ẫm nhi ều v ề th ế gi ới xung quanh


thì họ sẽ sáng tạo hơn và can đảm hơn, dám nghĩ dám làm hơn trong nh ững quy ết định
của mình về cuộc đời hay sự nghiệp...
Thực chất vai trò của triết học trong cuộc sống
Thứ ba, 21/11/2006 12:22' CH
Trước hết tôi xin khẳng định rằng: triết học có vai trò to lớn đối v ới quá trình phát tri ển
của xã hội.
Lịch sử loài người minh chứng rằng những quốc gia có nền triết h ọc phát tri ển r ực r ở

đều là những nền văn minh của nhân loại, ví dụ nh ưng trung hoa, ấn độ, hy l ạp....và
thiết nghĩ công việc cần giải quyết bây giờ là lý giải vì sao như th ế và triết h ọc tác động
trong xã hội ấy như thế nào, sau đó dựa vào hi ện th ực theo quan đi ểm l ịch s ử c ụ th ể,
trong hoàn cảnh cụ thể mà phân tích vai trò của triết h ọc trong cu ộc s ống. N ếu theo
hướng nào chúng ta mới giải quyết được vấn đề.
Theo tôi như thế này:
Theo quan điểm duy vật biện chứng thì ý thức là sự phàn ảnh của hi ện th ực vào b ộ óc
con người một cách sáng tạo, triết học là 1 môn khoa học do v ậy nó c ũng là m ột ph ần
của ý thức, cái đặc thù của triết học so với các môn khoa h ọc khác là ở ch ổ nó là khoa
học chung nhất về thế giới mà chủ yếu là dựa vào các thành tựu c ủa khoa h ọc t ự nhiên,
khoa học xã hội để ngày càng hoàn thiện mình cho " khoa học". Do v ậy tri ết h ọc c ũng
tác động trở lại hiện thực theo hai hướng lớn sau:
1. Vai trò thế giới quan:
Nêu lên những nội dung về nhận thức của con người trước thế gi ới: th ế gi ới này là gì?
vô hạn hay hữu hạn... Những câu hỏi này và cách lý gi ải chúng nhìn b ề ngoài ng ười ta
nghĩ rằng : nó chẳng ăn thua gì với mình ! nhưng nó chính là n ền t ảng cho vi ệc nghiên
cứu các khoa học khác : vật lý, hóa học, lượng tử, vũ trụ...
- Từ đó con người sẽ trả lời được cho quan điểm " khả tri" hay bất khả tri của con ng ười
nếu trả lời được thế giới này là vô hạn hay hữu hạn.
...
2. Vai trò nhận thức luận triết học:
Từ việc giài quyết các vấn đề phổ quát của triết học, duy vật hay day tâm, bi ện ch ứng
hay siêu hình... người ta rút ra được phương pháp luận cho nh ận th ức và t ừ đó c ải t ạo
thực tiễn.
Như vậy ta thấy rằng triết học là môn khoa học chung nh ất v ề th ế gi ới. Đối t ượng
nghiên cứu của nó cả tự nhiên, xã hội và tư duy c ủa con ng ười. Mà nói đối t ượng
nghiên cứu của nó như vậy thì ta thấy là triết h ọc có vai trò trên t ất c ả các m ặt c ủa th ế


giới, lý giải cả những vấn đề chung nhất ( định hướng) mà còn lý gi ải được nh ững v ấn

đề cụ thể nhất củ hiện thực( nhận thức luận).
Nếu có giải quyết như vậy mới thấy hết vai trò của triết học. Cần nói thêm rằng muốn
tìm vai trò của một môn khoa học thì cần giải quyết nó là gì? đối t ượng nghiên c ứu nó là
gì ? cái đã.
Do điều kiện thời gian và ngôn từ có hạn nên không th ể diễn đạt h ết, nh ưng do tôi là
người say mê triết học nên trao đổi cùng các bạn.
Nếu có gì cần trao đổi hay tranh luận 1 vấn đề nào đó của triết học hãy gời mail cho tôi :

Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Thứ tư, 03/10/2007 02:30' SA
Bài viết trên cần chia vai trò của tri ết học rõ thành 2 v ấn đề l ớn: Ch ức n ăng th ế gi ới
quan và chức năng phương pháp luận.
Cần chỉ rõ vai trò của triết học trong đời sống thể hiện qua 2 chức năng trên.
vai tro
Thứ hai, 17/12/2007 12:54' CH
Trong bài này, tác giả đề cập đến hai thái cực trái ngược nhau khi đánh giá vai trò c ủa
triết học trong cuộc sống.
Thái cực thứ nhất coi thường vai trò của triết học vì cho rằng:
1) Triết học nghiên cứu và giải quyết những vấn đề quá chung nên nh ững k ết qu ả
nghiên cửu của nó không có tác dụng thiết thực gì hết,
2) Triết học không có phương pháp và trang thi ết bị nghiên cứu riêng c ủa mình nh ư c ủa
khoa học tự nhiên nên tính chân lý của các k ết qu ả nghiên c ứu tri ết h ọc không được
bảo đảm. Thái cực thứ hai, ngược lại, lại tuyệt đối hoá vai trò c ủa tri ết h ọc, cho r ằng ch ỉ
cần nắm được triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của cuộc sống.
Tác giả đã luận chứng cho quan điểm, theo đó, cả hai thái cực trên đều sai lầm vì để
giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể của cuộc sông, c ần k ết h ợp ch ặt
chẽ cả hai loại tri thức: Tri thức chung (trong đó có tri th ức triết h ọc và tri th ức khoa h ọc
chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết tình hình th ức ti ễn và trình
độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn).
Chủ đề Hội thảo của chúng ta là ( Nhận thức lại vai trò c ủa triết h ọc trong k ỷ nguyên

toàn cầu. Nói "nhận thức lại", trong trường hợp này, có nghĩa là nh ận th ức tr ước đây là
phù hợp với thời kỳ trước đây, nhưng ngày nay, trong kỷ nguyên toàn c ầu, nh ận th ức
đó cần được bổ sung, hoàn thiện thêm cho phù hợp với bối cảnh mới.


Muốn vậy, có lẽ cần xem lại xem vai trò của triết học đã được đánh giá như thế nào?
Triết học, như chúng ta biết, đã có lịch sử tồn tại suốt mấy ngàn n ăm với r ất nhi ều h ệ
thống, trào lưu, trường phái khác nhau. Mặc đầu vậy, theo nhận xét của Viện s ĩ
T.I.Ôiderman - nhà nghiên cứu lịch sử triếthọc nổi tiếng của Liên Xô trước đây và C ộng
hoà Liên bang Nga ngày nay - thì cho đến nay, h ầu nh ư không có m ột định ngh ĩa nào
về triết học được mọi người thừa nhận. Sự thống nhất ý kiến giữa các nhà tri ết h ọc v ĩ
đại về một định nghĩa triết học nào đó là hết sức hiếm hoi, gần nh ư là m ột ngo ại l ệ.
Song, cũng giống như trong lĩnh vực văn hoá, với trên 300 định nghĩa khác nhau, nhưng
không vì vậy mà văn hoá không phát triển. Triết học cũng th ế. Tuy hi ện ch ưa có định
nghĩa nào được mọi người thừa nhận, nhưng triết học cũng không vì vậy mà không ti ếp
tục tồn tại và phát triển, không tiếp tục xuất hiện thêm các hệ th ống, trào l ưu, tr ường
phái mới.
Triết học, ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến mãi tận nay, dù t ồn tại ở ph ương Đông
hay phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu, trường phái rất khác nhau,
nhưng nội.đung cất lõi của triết học bao giờ cũng bao g ồm nh ững quan đi ểm lý lu ận
chung nhất, những lời giải đáp có luận chứng (dù được tán thành hay không được tán
thành) cho những câu hỏi của con người về thế giới xung quanh mình, v ề v ị trí c ủa con
người trong thế giới đó, về quan hệ giữa con người với thiên nhiên và v ới bản thân con
người. Trong triết học, người ta luôn tìm thấy nh ững bi ện lu ận, phán xét suy t ư, nh ững
băn khoăn, trăn trở cùng những lời giải đáp cho các câu hỏi về s ố ph ận c ủa cá nhân
con người trước thiên nhiên bao la, về nguồn gốc cùng những bí ẩn c ủa thiên nhiên bao
la ấy, những sức mạnh, những lực lượng chi phối nó và chi ph ối cu ộc s ống c ủa chính
bản thân con người, về cuộc sống và cái chết của họ... Những l ời giải đáp ấy, dù là
khác nhau trong các hệ thống, trào lưu, trường phái triết học khác nhau nh ưng đều là
những cách lý giải nhất định về thế giới mà trong đó con người đang s ống theo quan

điểm của các hệ thống, trào lưu, trường phái triết học đó.
Song, bất cứ hệ thống lý luận nào cũng không bao giờ chỉ làm một nhiệm v ụ là lý gi ải v ề
thế giới. Triết học cũng vậy. Trên cơ sở của sự lý gi ải ấy, triết học tr ở thành cái đinh
hướng cho con người trong hành động. Khi trở thành cái định hướng cho con ng ười
trong hành động, triết học thực hiện một chức năng khác - ch ức n ăng ph ương pháp
luận.
Về nguyên tắc, giá trị định hướng này của triết học không khác với giá tr ị định h ướng
của các nguyên lý, quy luật, hệ thống lý luận c ủa các b ộ môn khoa h ọc chuyên ngành
nào đấy về một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện thực, chẳng hạn, không khác v ới giá
trị định hướng của định luật bảo toàn và chuyền hoá năng lượng, c ủa quy lu ật giá tr ị...
Cái khác chỉ là ở chỗ, vì các nguyên lý, các khẳng định c ủa tri ết h ọc là k ết qu ả nh ận
thức những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung nhất của c ả tự nhiên, xã
hội lẫn tư duy, cho nên chúng có tác dụng định hướng không phải chỉ trong m ột ph ạm vi


nhất định nào đấy như trong trường hợp các nguyên lý, quy luật do các khoa h ọc
chuyên ngành nêu lên, mà ở tất cả mọi lĩnh vực các nguyên lý, các kh ẳng định tri ết h ọc
ấy giúp cho con người khi bắt tay vào nghiên c ứu và ho ạt động c ải bi ến s ự v ật bao gi ờ
cũng có được một lập trường xuất phát nhất định. Lập trường xuất phát ấy giúp cho chủ
thể hành động thấy trước được phương hướng vận động chung của đối tượng, xác định
được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động c ải biến sự vật ph ải tr ải
qua, nghĩa là nó giúp cho con người xác định được về đại th ể con đường c ần đi, có
được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh được những mò
mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt hết sức phức tạp mà không có t ư
tưởng dẫn đường. Xuất phát từ một lập trường triết học nhất định, con người s ẽ đi đến
chỗ lựa chọn một phương hướng giải quyết vấn đề theo một cách th ức nh ất định, và
xuất phát từ những lập trường triết học khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ l ựa ch ọn
những phương hướng và cách thức giải quyết vấn đề một cách khác nhau. Đi ều đó có
nghĩa là, việc chấp nhận hay không chấp nhận một l ập trường triết h ọc nào đấy s ẽ
không chi đơn thuần là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định,

một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là s ự ch ấp nh ận hay không ch ấp nh ận
một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động.
Khẳng định trên đây cho thấy triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, vi ển vông,
ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát từ một lập
trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách gi ải quy ết đúng đắn
các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập tr ường triết h ọc sai
lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây th ể hi ện giá tr ị
đinh hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp lu ận c ủa tri ết
học. Tiếc rằng, giá trị định hướng này hiện nay chưa được khai thác triệt để. Có lẽ chính
vì vậy mà còn có những sự đánh giá chưa thoả đáng v ề vai trò c ủa tri ết h ọc trong vi ệc
giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
Sự đánh giá chưa thoả đáng đó thể hiện trước hết ở thái độ coi thường vai trò của triết
học. Những người giữ thái độ này cho rằng, vì triết học nghiên c ứu và gi ải quyết nh ững
vấn đề quá chung, nên những kết quả nghiên cứu của nó chẳng có tác d ụng thi ết th ực
gì hết?
Ý kiến trên đây, trong chừng mực nhất định, có căn cứ c ủa nó, vì trong nhi ều tr ường
hợp, khi giải quyết những vấn đề cụ thể, những người làm công tác thực tiễn không th ể
tìm thấy ở những người làm công tác triết học một câu tr ả l ời c ụ th ể. Trong khi đó, trong
hoạt động thực tiễn, con người lại bắt gặp và buộc phải giải quy ết trước h ết chính
những vấn đề hết sức cụ thể này. Vậy, phải chăng ở đây, tri thức triết học là vô ích?
Không! Mặc dầu những vấn đề bức bách do cuộc sống, do hoạt động th ực tiễn đặt ra
bao giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ thể, nhưng để giải quyết những v ấn đề cụ thể
ấy một cách có hiệu quả, không một ai có thể lảng tránh việc gi ải quyết những v ấn đề
chung hay xuất phát từ lời giải đáp đã có về những vấn đề chung liên quan với các v ấn


đề cụ thể đó. A.Anhxtanh đã từng nhận xét vào năm 1954: "Những khó khăn mà nhà vật
lý hiện nay đang vấp phải trong lĩnh vực của mình đã buộc ông ta phải đề cập đến
những vấn đề triết học nhiều hơn nhiều so với nhà vật lý của các thế hệ tr ước". M.Plank
cũng có nhận xét tương tự: "Một tập hợp những sự kiện mới càng rối rắm bao nhiêu,

các tư tưởng mới càng nhiều hình nhiều vẻ bao nhiêu thì nhu c ầu ph ải có m ột th ế gi ới
quan liên kết lại càng cảm thấy trở nên bức thi ết b ấy nhiêu. Xu h ướng tìm đến th ế gi ới
quan liên kết này có ý nghĩa lớn lao không ch ỉ đối với v ật lý h ọc, mà còn đối v ới toàn b ộ
khoa học tự nhiên". Như vậy, khi đi vào giải quy ết nh ững v ấn đề cụ th ể c ủa ho ạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, người nghiên cứu sớm muộn sẽ vấp phải
những vấn đề chung, trong đó có những vấn đề triết học mà việc giải quyết chúng, là c ơ
sở cho việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Những lời giải đáp tìm được ở đây, trong lĩnh
vực triết học, là sự đóng góp rất thiết thực vào việc giải quyết những vấn đề hết sức cụ
thể ấy chứ không phải nằm bên lề của việc giải quyết những vấn đề đó.
Tuy nhiên, không nên hiểu sự đóng góp này một cách gi ản đơn. Không nên hi ểu hi ệu
quả của nghiên cứu triết học như hiệu quả nghiên c ứu c ủa các bộ môn khoa h ọc k ỹ
thuật, càng không nên hiểu nó như hiệu quả của hoạt động s ản xu ất tr ực ti ếp. Các k ết
luận mà nghiên cứu triết học đạt tới không phải là lời giải đáp trực ti ếp, c ụ th ể cho t ừng
vấn đề cụ thể vô cùng đa dạng của cuộc sống, mà, như đã nói trên, nó là cơ sở cho việc
tìm kiếm những lời giải đáp trực tiếp, cụ thể ấy. Chẳng hạn, k ết lu ận m ới c ủa Đại h ội VI
Đảng Cộng sản Việt Nam: "Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường h ợp
quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng b ộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,, chính là cơ sở
cho việc xác định hàng loạt chính sách mới, đúng đắn hơn trong nhi ệm v ụ c ải t ạo xã h ội
và phát triển kinh tế trong suất quá trình đổi mới. Trên đây ch ỉ là m ột trong r ất nhi ều thí
dụ cho thấy hiệu quả của nghiên cứu triết học chính là ở giá trị đinh h ướng cho ho ạt
động thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết lu ận chung, có tính khái
quát cao mà nó đạt tới chứ không phải là những lời giải đáp cụ thể cho từng trường hợp
cụ thể.
Một lý do nữa đã góp phần làm xuất hiện thái độ coi thường vai trò của triết học đó là sự
nghi ngờ về tính chân lý của các khẳng định triết học. Người ta đặt câu hỏi: tri th ức tri ết
học có đáng tin cậy không khi nó đóng vai trò là cái định h ướng cho con ng ười trong
hoạt động thực tiễn? Vấn đề là ở chỗ, trong thời kỳ cổ đại, khi các khoa học chuyên
ngành chưa phát triển, thậm chí chưa xuất hiện, con người có thể b ằng lòng v ới l ời gi ải
đáp của triết học đối với các vấn đề mà con người quan tâm về th ế gi ới xung quanh

mình. Nhưng, với sự xuất hiện và phát triển, thậm chí phát triển m ạnh mẽ c ủa các khoa
học chuyên ngành, thì con người không còn thoả mãn với nh ững câu tr ả l ời c ủa tri ết
học được nữa. Tại sao vậy?
Trước hết, vì các khẳng định của khoa học phải được kiểm tra bằng các tài li ệu th ực
nghiệm. và về nguyên tắc, có thể bị thực nghiệm bác bỏ. Trong khi đó, các kh ẳng định
của triết học không thể kiểm tra được bằng thực nghiệm và cũng không bác b ỏ được


bằng thực nghiệm (chẳng hạn, không thể làm được như thế với các lu ận điểm nh ư v ật
chất có trước, ý thức có sau, với quan điểm c ủa Hêghen nói r ằng c ơ s ở phát tri ển c ủa
giới tự nhiên là sự phát triển của ý niệm tuyệt đối…).
Thứ hai, triết học không có phương pháp nghiên cứu riêng của mình, trong khi đó các
khoa học tự nhiên đùng các phương pháp nghiên cứu khoa h ọc hi ện đại v ới s ự tr ợ giúp
của các phương tiện hiện đại nên tính chân lý của các k ết qu ả nghiên c ứu đạt được
được bảo đảm.
Những ý kiến nhận xét trên đây, trong chừng mực nhất định, cũng có căn cứ c ủa nó, vì
đúng là triết học không có trong tay mình một phương ti ện kỹ thu ật nào, m ột thi ết b ị
quan sát, thí nghiệm nào để tiến hành thu thập tài liệu, nghiên cứu và trên cơ sở đó, tiến
tới khám phá những bí ẩn của sự vật, hiện tượng mà mình nghiên c ứu. Vậy, tri ết h ọc
dựa vào đâu và làm cách nào để đi tới chân lý?
Trên cơ sở phân tích và khái quát hoá đặc điểm nhận thức c ủa triết h ọc trong su ốt quá
trình phát triển lịch sử của nó, nhiều tác giả rút ra kết lu ận r ằng, tri ết h ọc t ự b ản thân nó
không trực tiếp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể, nh ưng nó sử d ụng
các kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn đã được ghi l ại
trong các khái niệm, lý thuyết của các bộ môn khoa h ọc chuyên ngành khác, được th ể
hiện trong các tác phẩm vặn học, nghệ thuật, các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ... Tất
cả những cái đó tạo nên "nền tài liệu thực nghiệm" mà xuất phát t ừ đấy, tri ết h ọc đi t ới
các phát hiện của mình.
Triết học đi tới các phát hiện đó bằng cách nào? 'Có tác gi ả cho r ằng b ằng t ư duy lý
luận, tác giả khác lại cho rằng bằng khái quát hoá lý lu ận, số thứ ba cho r ằng b ằng lu ận

giải (interprêtaxia)... Chính bằng cách đó, các kết luận tri ết h ọc được rút ra và l ại quay
trở lại .phục vụ cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn.
Từ kinh nghiệm nghiên cứu vật lý học của mình, M.Bom cho r ằng, v ật lý h ọc c ủa th ực
tiễn không? Đó là những vấn đề đặt ra rất cần được nghiên cứu, giải quy ết. Song, dù
thế nào chăng nữa, chúng tôi vẫn nghĩ rằng, có lẽ cùng v ới vi ệc sử d ụng các phương
pháp tư duy lý luận hay khái quát hoá lý luận… nh ư đã kể trên, nên ch ặng, vi ệc nghiên
cứu triết học cần được kết hợp với các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, s ử đụng
phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành ấy để đưa khách th ể nghiên c ứu vào
tình huống nghiên cứu đã được lựa chọn một cách có chủ đích, để buộc khách th ể ph ải
trả lời câu hỏi của người nghiên cứu. Hy vọng rằng bằng cách làm ấy, chúng ta có th ể
làm cho các kết quả nghiên cứu của chúng ta có c ơ s ở hơn, đáng tin c ậy h ơn, thuy ết
phục hơn chăng! Điều này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên toàn cầu, k ỷ
nguyên của những vấn đề liên quan đến toàn cầu mà việc gi ải quy ết chúng đòi h ỏi con
người phải vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp, cục bộ, địa ph ương, qu ốc gia để ti ến t ới
tầm nhìn toàn cầu, một tầm nhìn không thể không đòi hỏi phải có s ự tham gia c ủa tri ết
học.


Bên cạnh thái độ coi thường vai trò của triết học - một thái độ rất tiếc r ằng, hi ện nay v ẫn
hiện diện ở nơi này, nơi kia, trong lĩnh vực hoạt động này hay khác - lai có m ột thái độ
khác: thái độ tuyệt đối hoá vai trò của triết học, nghĩ rằng chỉ cần nắm được triết h ọc thì
lập tức sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của thực tiễn. Có nơi, có lúc, vì quá
nhấn mạnh vai trò của triết học nên đã gây ra ở một số người ảo tưởng rằng, triết học là
cái chìa khoá vạn năng, chỉ cần nắm được nó là tự khắc sẽ gi ải quyết được m ọi v ấn đề.
Có nơi, có lúc, với lòng nôn nóng muốn đưa triết học vào phục v ụ ho ạt động th ực ti ễn,
các cán bộ triết học đã hăng hái lao vào nghiên c ứu, gi ải quy ết nh ững v ấn đề th ực ti ễn
quá cụ thể chỉ với những tri thức triết học chung mà quên mất r ằng, để có th ể tìm ra l ời
giải đáp đúng đắn cho những vấn đề hết sức cụ thể, bên cạnh những tri th ức lý lu ận
chung, trong đó có tri thức triết học, còn cần có hàng lo ạt tri th ức khác n ữa, nh ư s ự am
hiểu tường tận về tình hình thực tế liên quan đến vấn đề cụ th ể đang được xét trong

một bối cảnh không gian - thời gian nhất định, sự hiểu biết sâu s ắc về ngh ề nghi ệp, đặc
biệt là sự nhạy cảm thực tiễn, một sự nhạy cảm chỉ có được qua quá trình đào luy ện,
lăn lộn lâu năm trong nghề. Thiếu những cái vừa nói, không một nhà tri ết h ọc uyên bác
nào có thể tìm ra được một lời giải đáp đúng đắn nào cho bất cứ m ột vấn đề c ụ th ể nào
của cuộc sống, cho dù đó là một vấn đề đơn giản nhất đi nữa.
Như vậy, để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết s ức ph ức
tạp và vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh c ả hai thái c ực sai l ầm: ho ặc
là xem thường triết học và do đó sẽ sa vào tình tr ạng mò m ẫm, tu ỳ ti ện, d ễ b ằng lòng
với những biện pháp cụ thể, nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thi ếu nhìn xa
trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công việc; hoặc là tuyệt đối hoá vai trò c ủa
triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng áp dụng m ột cách máy móc nh ững nguyên lý,
những quy luật, những tri thức triết học chung mà không tính đến tình hình c ụ th ể đó
không nắm được tình hình cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể, hậu quả là sẽ khó
tránh khỏi bị thất bại.
Kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức trên đây tri thức chung (trong đó có tri th ức tri ết h ọc
và tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có s ự hi ểu bi ết tình
hình thực tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực ti ễn) - đó là
tiền đề cần thiết đảm bảo thành công của chúng ta trong hoạt động cụ thể của mình.



×