I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài:
Trung Quốc là một trung tâm văn minh lớn của nhân loại cũng là cái nôi
đầu tiên của lịch sử loài người. Việc nghiên cứu tư tưởng triết học của quốc
gia này nói chung và tư tưởng pháp trị của phái Pháp gia nói riêng
vừa mang ý nghĩa lý luận vừa mang ý nghĩa thực tiễn to lớn. Trong công cuộc
đổi mới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, chúng ta cần phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
một trình độ tư duy lý luận cao đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Do
đó, cần phải chú trọng hơn nữa đến việc khai thác , tiếp thu một cách chọn lọc
văn hóa nhân loại. Thực vậy, chúng ta phải khẳng định rằng: Bất cứ một xã
hội nào từ cổ đại cho đến hiện đại muốn tồn tại và phát triển được đều phải
dựa vào sự ổn định và các quy tắc chặt chẽ. Trong lịch sử tư tưởng triết học
Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có
một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội
cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là
đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước.
Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có
giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
2. Nội dung và yêu cầu đề tài:
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều
thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại,
Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Để hiểu một cách tương
đối có hệ thống về đường lối trị nước của phái Pháp gia ta cần phải tìm hiểu
tư tưởng cơ bản của các nhà pháp trị mà tiêu biểu hơn cả là Hàn Phi Tử cũng
như những những luận chứng khá thuyết phục về sự cần thiết của đường lối
Pháp trị: then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào
pháp luật, có pháp luật được thi hành một cách phổ biến và đúng đắn thì xã
1
hội mới được ổn định là một tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu
mạnh cho dân chúng được yên bình hạnh phúc.
3. Loại hình nghiên cứu đề tài:
Đề tài nghiên cứu nội dung thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử. Đây là một
học thuyết chính trị - xã hội nổi bật trong xã hội Trung Quốc thời kỳ cổ đại vì
vậy đề tài thuộc loại hình nghiên cứu cơ bản thuần tuý. Bên cạnh đó, đề tài
còn nghiên cứu ý nghĩa của thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử đối với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay do đó đề tài
thuộc loại hình nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn lịch sử.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận là hệ thống những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về vấn đề nhà nước. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phân tích tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, lôgic - lịch sử... trong quá trình giải quyết các
vấn đề nêu ra.
5. Kết cấu tiểu luận:
- Ph n I: Ph n m u
- Phần II: Nội dung
Chương 1: Hàn Phi Tử và học thuyết pháp trị.
Chương 2: Ý nghĩa của học thuyết pháp trị trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Phần III: Kết luận.
2
II. Nội dung:
Chương 1: Hàn Phi Tử và học thuyết pháp trị
1.1. Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử
Đặc trưng của xã hội phương Đông cổ đại trong đó có Trung Quốc đó
là chế độ công xã nông thôn - một trong những đặc trưng của phương thức
sản xuất châu Á. Nền sản xuất xã hội chủ yếu là sản xuất nông nghiệp phụ
thuộc
vào
công
tác
thủy
lợi.
Yêu cầu của công tác thuỷ lợi trong đời sống kinh tế tất yếu làm nảy sinh chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Chỉ khi đó, các triều đại mới có thể dễ dàng huy động đất đai, sức người
và dàng huy động đất đai, sức người và vì vậy, nhà nước xuất hiện sớm. Sự
xuất hiện công cụ bằng sắt đã tạo ra bước phát triển mới của lực lượng sản
xuất kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp, thủ công nghiệp và
thương nghiệp. Những đô thị xuất hiện dẫn đến sự ra đời của tầng lớp quý tộc
mới. Quan hệ sản xuất thời kì này mang nặng tính nô lệ gia trưởng.
Phương Đông nói chung và Trung Quốc nói riêng không có chế độ chiếm hữu
nô lệ điển hình như phương Tây. Thực chất, chế độ xã hội Trung Quốc cổ trung đại là chế độ nông nô. Đây là một chế độ pha trộn giữa chế độ chiếm
hữu nô lệ và chế độ phong kiến hà khắc. Trung Hoa cổ đại được từ thế kỉ VIII
đến thế kỉ III trước công nguyên và được phân chia thành hai thời kỳ lớn:
Xuân Thu và Chiến Quốc. Thời Xuân Thu là thời kỳ duy tân của nhà
Chu nhằm khôi phục lại những lễ nghĩa và địa vị của nhà Chu. Thời Chiến
Quốc là thời kì xuất hiện sự tranh giành quyền lực giữa các chư hầu để xưng
bá. Thời kỳ này bắt đầu từ Khang Hi đến nhà Trần.
1.2. Thân thế và sự nghiệp của Hàn Phi Tử
Hàn Phi sống cuối thời Chiến Quốc trong giai đoạn Tần Thủy
Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Hàn Phi là công tử nước Hàn từ nhỏ
thông minh học giỏi. Vì là con thứ không được kế vị nên ông nhận thức khá
sâu sắc quan hệ vua tôi, vấn đề trị nước. Ông say mê nghiên cứu Nho gia,
3
Đạo gia nhưng ham thích các học thuyết Pháp trị hơn cả. Cùng với Lý Tư
theo học Tuân Tử, tiếp thu tư tưởng duy vật và bản tính ác. Ông ghét bọn quý
tộc bảo thủ, trọng kẻ sĩ giỏi hình danh pháp luật, luôn có tinh thần cách mạng.
Thấy nước Hàn suy nhược, người nhà vua nuôi không phải là người dùng,
người cần dùng không được nhà vua nuôi. Ông thương xót người tài giỏi
chính trực bị bọn gian nịnh làm hại. Vì sự tồn vong của nước Hàn, ông viết
sách dâng vua bảy cách cai trị, nhưng không được dùng. Nước Tần đánh Hàn,
trong lúc lâm nguy vua Hàn cử ông đi sứ sang Tần. Vua Tần Doanh Chính
xem sách của Hàn Phi rất ngưỡng mộ, muốn trọng dụng. Lý Tư là Tể tướng
nước Tần vốn đã ghen tị vì tài của ông gièm pha vua Tần bắt bỏ ngục. Vua
Tần hối tiếc ban lệnh tha thì đã muộn.
Hàn Phi tuy có tật nói ngọng nhưng bù lại ông lại giỏi viết sách. Ông đã
tiếp thu tư tưởng ba phái trước đây, phát triển và hoàn thành đường lối trị
nước: hành pháp – chấp thuật – thị thế, viết thành sách 55 thiên gọi là “Hàn
Phi Tử”. Pháp gia được xác lập với tư cách là học thuyết chính trị quan trọng
nhất của chính trị học Trung Quốc. Ông là người tập đại hành của Pháp gia.
1.3. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử
Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị đã phân tích những ưu điểm, hạn
chế của Quản Trọng, Ngô Khởi, Bạch Lý Hề, Thận Đáo và tổng kết, hoàn
thiện thành học thuyết pháp trị của mình. Học thuyết đó dựa trên ba nội dung
cơ bản “pháp, thuật, thế”.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi
ông có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh
mượn đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để
đo hiện tại, Hàn Phi cho rằng mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải
đều được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây
trên gió bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể
đem lại hiệu quả thực tế. Ông đồng tình với Tuân Tử cho rằng con người ta có
tính ác, nhưng lý giải về vấn đề lợi ích. Việc cai trị phải căn cứ vào lợi ích để
4
thưởng hay phạt. Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường
như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua
của nước đó ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Ông quan
niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công
bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực
chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày
ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái
họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông
không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được
trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con
giữ gìn cho nhau”.
Hai thiên Giải Lão và Dụ Lão trong tác phẩm “Hàn Phi Tử”, đã chứng tỏ
Hàn Phi rất am hiểu Đạo gia. Nhìn chung, cả Đạo gia và Pháp gia đều yêu cầu
mọi việc phải luôn biến đổi. Đạo gia nhấn mạnh đến tính tương đối của tri
thức con người cũng như của chế độ, còn Pháp gia đi đến kết luận rằng, cần
phải lấy yêu cầu trước mắt làm phương hướng cho việc giải quyết các vấn đề
chính sự. Nó đòi hỏi người đứng đầu bộ máy quyền lực phải luôn theo sát tình
hình thực tế: “Bậc thánh nhân không cốt trau dồi chuyện xưa, không noi theo
những nguyên tắc bất biến, khi bàn việc làm ở đời thì dựa theo tình hình của
thời mình mà đặt ra những biện pháp”. Hàn Phi phê phán một cách gay gắt
những người hủ Nho, coi đó là “bọn học giả dốt nát ở đời không biết bản chất
của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm nhí và dẫn những sách của người xưa
để làm rối việc cai trị ở đời này... Nếu nghe lời họ thì nguy, nếu dùng kế họ
thì loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối lo hết sức lớn”.
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp
luật. Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì
xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất
nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho
rằng, “Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn
5
luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ
những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu”, Hàn Phi đã đề xuất tư
tưởng “trị nước bằng luật pháp”, chủ trương “luật pháp không phân biệt sang
hèn”, “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ
thất phu”. Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây
dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết
hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.
“Pháp”: Luật do vua ban ra, trăm quan giám sát, nhân dân thực hiện.
Luật phải đúng đắn phù hợp, công khai trên dưới đều biết. tất cả cứ đúng mực
thước,, đúng pháp luật mà làm thì xã hội sẽ ổn định.
“Thuật”: Là nghệ thuật, thủ thuật trị nước vua phải luôn cảnh giác với
người xung quanh, biết sử dụng người đúng lúc, đúng khả năng. Vua phải
sáng suốt, không để lộ sự yêu ghét để quần thần lợi dụng. Dùng thuật để biết
rõ người ngay kẻ gian, để điều khiển bề tôi. Thực chất đó là thủ đoạn của
người làm vua để điều khiển các quan lại, phải giữ gìn pháp luật và tuân theo
mệnh lệnh.
“Thế”: Là uy thế quyền lực của người làm vua. Vua phải triệt để sử dụng
quyền của mình để trị nước. Quyền lực phải tập trung tuyệt đối vào tay nhà
vua, không được trao quyền cho bất cứ ai, phải dùng pháp luật để củng cố
quyền lực. Nếu chỉ có pháp luật mà thiếu quyền lực để cưỡng bức thì cũng
không thể cai trị được.
“Pháp”, “thuật” và “thế” có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau
trong đó “pháp” là trung tâm, “thuật” và “thế” là điều kiện để thực hành pháp
luật. Thưởng, phạt là công cụ để thi hành pháp luật. Phạt nặng để răn đe kẻ
xấu, thưởng hậu để khuyến khích, động viên mọi người làm việc. Thưởng
phạt nghiêm minh, thỏa đáng mới bảo vệ được pháp luật. Sử dụng “pháp”,
“thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền quân chủ, tạo
nên bối cảnh chính trị từ đó góp phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây
dựng một nhà nước trung ương tập quyền phong kiến thống nhất.
6
Bên cạnh những giá trị tích cực thì tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử vẫn
còn những hạn chế nhất định. Thứ nhất pháp trị chỉ chú trọng đến hành chính,
pháp luật và làm thế nào để quốc gia phú cường chứ không giáo dục dân, bất
chấp nguyện vọng của dân, ông bảo vệ quyền lợi của vua, người giàu có và
giai cấp quý tộc không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Thứ
hai ông chỉ nhìn thấy con người ở góc độ vụ lợi, cho đến nhà nước theo ông
cũng chỉ quy về chủ nghĩa thực dụng, không thấy được lý tưởng cao đẹp và
sẵn sàng quên mình cho lý tưởng ấy của những con người có tâm có đức. Thứ
ba ông tuyệt đối hóa pháp luật ở những khía cạnh biểu hiện cụ thể của nó mà
không thấy được còn có những công cụ khác kết hợp để trị nước, nói như
người phương Đông là “thấu tình, đạt lý”. Cuối cùng lý thuyết của ông không
thể thực hiện được nguyên nghĩa của nó khi mà xã hội còn tổ chức theo kiểu
quân chủ chuyên chế vì theo Hàn Phi hình phạt không áp dụng đối với vua và
thiên tử. Vì vậy, Hàn Phi cũng không thể tìm ra được cơ chế bắt buộc nhà vua
đề phòng cái họa mà ông thấy từ trước.
1.4. Tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi
Thời Chiến Quốc chính là thời kì lịch sử phát triển rực rỡ về tư tưởng
“trăm hoa đua nở”, “bách gia chư tử”. Ở thời kì này cò ba dòng tư tưởng lớn
nhất cùng tồn tại đó là:
Phái thứ nhất có Nho gia và Mặc Tử, Khổng Tử muốn khôi phục nhà
Chu. Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử thấy nhà Chu suy yếu không cứu được lại
mong có vị minh quân thay Chu thống nhất Trung Hoa bằng chính sách đức
trị có sửa đổi ít nhiều.
Phái thứ hai là Đạo gia muốn giảm thiểu thậm chí giải tán chính quyền,
sống tự nhiên như thuở sơ khai, từ bỏ xã hội phong kiến để trở về xã hội Cộng
Sản Nguyên Thủy.
Phái thứ ba là phái Pháp gia muốn dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến
phân tác và lập ra chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, thay “vương đạo”
của Khổng Mạnh bằng chính sách “bá đạo”.
7
Tư tưởng của Hàn Phi Tử là dùng pháp trị nhưng lại trọng dân. Trước
khi đặt ra luật lệ mới, ông để cho dân tự phê bình. Còn luật pháp thuộc về
vua, quy tắc luật pháp phải lấy tính người và phép trời làm chuẩn. Hành pháp
thì phải công bố luật cho rõ ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh, tránh thay đổi
nhiều. Ưu điểm là chú trọng quá trình giản dị, cụ thể hóa thành thao tác và
quy trình trong việc thực hiện các công tác quản lý nhân lực. Coi trọng thực
tiễn có xem xét đến sự ảnh hưởng của hoàn cảnh khách quan đối với việc ra
quyết định. Pháp tri quản lý tính chiến thuật, có hiệu quả trong thời gian ngắn.
Khi xảy ra mâu thuẫn trong nội bộ, pháp luật sẽ là công cụ tiết chế các mối
quan hệ vào không gây ra tình trạng hỗn loạn. Pháp trị giúp nhà nước quản lý
phát hiện và đào tạo nhân tài dựa trên nguyên tắc thưởng phạt công bằng, tìm
ra được những cá nhân có ích cho sự phát triển của tổ chức và xã hội.
Nhược điểm của pháp gia chính là đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp
luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt nghiêm khắc. Quan niệm về pháp
luật của pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy móc và cứng nhắc,
hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật: coi các điều
khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp luật, hoàn
toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán, giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng
đến phương diện vật chất. Thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một
cách bình đằng các lợi ích khác nhau. Ở họ có lòng nhiệt huyết cải cách một
cách mùa quáng song lại quá thiếu ý thức lịch sử, dường như là muốn sáng
tạo lại lịch sử. Hơn nữa phái Pháp gia có quan điểm về con người quá cực
đoan, độc đoán, tập trung quyền lực vào một cá nhân có thể gây ra ức chế tâm
lý cho người bị quản lý; chỉ nhìn thấy khía cạnh vụ lợi mà không thấy lý
tưởng cao đẹp và sẵn sàng hy sinh vì ý tưởng của người có tâm, có đức, phủ
nhận đức trị. Thêm nữa họ đề cao, coi trọng vị thế nhà quản lý và chủ yếu sử
dụng các chế tài để cưỡng ép, răn đe. Hàn Phi còn có tư tưởng vị lợi, ông đã
mở rộng bản chất này đến mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Chẳng hạn
trong mối quan hệ cha con, chữ “hiếu” của Nho gia đã bị thay thế bằng sự
8
tính toán lợi hại tàn nhẫn. Chúng ta có thể cho rằng Hàn Phi là một người duy
lý, duy lợi theo chủ nghĩa thực dụng song cũng phải thừa nhận ông có một trí
tuệ rất sâu sắc. Và chính ông đã vì sự tồn vong của đất nước mình mà chịu
chết thảm, tuy rằng ông biết trước đó là số phận chung của các pháp gia có tài
và có tâm, nhiệt thành yêu nước. Hơn thế nữa, Hàn Phi đã vượt rất xa thời đại
mình khi ông nêu lên tư tưởng đấu tranh sinh tồn và giải thích nguyên nhân
của sự nghèo khổ là do dân số tăng lên quá nhanh, vượt xa sự gia tăng của sản
xuất. Hàn Phi cho rằng các vị vua phải cứng rắn, nghiêm khắc trong việc trị
nước, đồng thời ông cũng mong muốn họ thực hiện chí công vô tư, từ bỏ tư
lợi, tà tâm cứ theo phép công mà làm thì nước sẽ thịnh.
Hàn Phi phát triển học thuyết của mình trên cơ sở kế thừa của các pháp
gia trước ông, nhưng phải đến Hàn Phi thì nó mới trở nên sâu sắc, phổ biến
với nhiều nội dung mới. Hàn Phi ví pháp luật với dây mực, cái quy, cái cũ…
tức là những đồ dùng làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai, phải trái. Pháp
không tách khỏi thhế và thuật mà cùng tạo nên một cái kiềng ba chân. Luật
pháp phải kịp thời. Đối với ông, pháp luật là thứ “phép công” điều khiển hành
vi của mọi người. Trong các phạm trù cơ bản của pháp học thì thi pháp là
quan trọng nhất, sau mới đến thế và thuật. Hàn Phi đã kế thừa tư tưởng “vô
vi” của Nho và Đạo biến nó thành thuật cai trị của vua chúa.
Trong cai trị - quản lý “tiên phú, hậu giáo” trước hết làm làm cho dân
giàu sau đó thì giáo dục họ. Trong giáo dục thì “tiên học lễ - hậu học văn”.
Nho gia chủ trương cai trị bằng đạo đức, bằng văn và đã phát triển học thuyết
và phương pháp cai trị mới – pháp trị “pháp bất vị thân”, pháp phải hợp thời,
pháp luật phải soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành, pháp luật phải công
bằng, bênh vực kẻ yếu; phải thưởng trọng hậu, phạt phải nặng… Đó là tư
tưởng về chính trị quản ý xã hội còn ý nghĩa đối với hiện nay.
Vậy thành công lớn nhất của giai đoạn này mặc dù còn bị hạn chế dưới
góc độ tư tưởng quản lý đã tạo lập nhiều quan điểm quản lý quan trọng thuộc
phạm vi quản lý vĩ mô, đã vạch ra được logic của quá trình quản lý xã hội bao
9
gồm các mức từ thấp đến cao: “chính tâm, tu thần, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”, đã đưa ra được trình tự tiến hành các hoạt động quản lý: “trị đạo, trị học,
trị thể, trị tài, trị phong, trị thuật” mà ngày hôm nay trong quản lý nói chung
và quản lý kinh tế nói riêng vẫn còn khai thác và sử dụng tốt.
Chương 2: Ý nghĩa của học thuyết pháp trị trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá
trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Sự xác
định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong Báo cáo
chính trị của Đại hội IX không chỉ là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng
ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế, mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển
mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới - một Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang
đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Để hoàn thành được mục
tiêu chiến lược đó chúng ta không thể không theo đuổi tư tưởng pháp trị phù
hợp với bối cảnh kinh tế chính trị xã hội Việt Nam hiện nay.
Từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và qua tư
tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử, chúng ta có thể thấy có khá nhiều tiến bộ có
thể áp dụng được, đặc biệt là vấn về dùng pháp luật một cách nghiêm minh
đúng đắn. Rồi các yêu cầu như pháp luật phải khách quan, pháp luật phải đặt
nơi công đường để trăm họ được biết, pháp luật không bênh người sang,
không phân biệt kẻ nghèo khó…đều là những điểm vận dụng được. Đồng thời
cũng nên lưu ý rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền chúng ra đã xác định
pháp luật là tối thượng những pháp luật nhà nước ta là do nhân dân đề xuất
soạn ra chứ không phải do ông vua chuyên chế tạo ra. Nhà nước pháp quyền
10
hiện nay ở Việt Nam là quyền lực thuộc về nhân dân, còn thời phong kiến
quyền lực thuộc về vua.
Hàn Phi Tử có quan điểm rất đúng: “những người thi hành pháp luật mà
mạnh thì nước mạnh, còn những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu”.
Thật vậy lịch sử đã chứng minh không có nước nào mạnh hoàn toàn, cũng
không có nước nào yếu hoàn toàn. Nước chỉ mạnh khi những người thi hành
pháp luật tạo ra một sự công bằng, nghiêm túc theo pháp luật. Nếu như người
cán bộ làm mất lòng tin của nhân dân thì tất yếu sẽ thiếu đi sự đoàn kết thống
nhất. Đã là người cán bộ thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; là
người cầm cán cân pháp luật phải xác định hai chữ “công bằng” trong đó chú
ý đến tính nhân văn của con người, phái nắm rõ pháp luật để xử lý sao cho
công bằng khách quan. Phải có những đội ngũ đó, chúng ta mới thực hiện
nghiêm pháp luật được. Còn trong thực tế, Đảng ta cũng đánh giá có một bộ
phận không nhỏ đã tha hóa, biến chất mới dẫn đến nhiều vụ án oan sai, nhiều
vụ xử rồi mà vẫn không thi hành được. Để có đất nước vững mạnh, chúng ra
cần chuyên sâu hơn nữa, chú ý đến vấn đề xây dựng một đội ngũ lãnh đạo đủ
sức, đủ tài có thể đảm đương gánh vác trách nhiệm mà nhân dân giao phó.
Khi bàn đến đạo đức, vai trò của người lãnh đạo, Hàn Phi Tử đã đặt ra
tiêu chuẩn: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực
chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra
hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong
thiên hạ”. Ông quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao
người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước
đó ra sao mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Ông cũng lưu ý những
nhà lãnh đạo, phải dựa vào pháp trị để làm cho đất nước giàu mạnh, song nếu
“không có cái thuật để biết kẻ gian chỉ lấy cái giàu mạnh của nước mà làm giàu
có cho các quan đại thần mà thôi”. Xét một khía cạnh khác, cái thuật ở đây Hàn
Phi Tử muốn nói các phương pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thưởng phạt
của người lãnh đạo. Nó thuộc vào nghệ thuật dùng người, khâu đánh giá, điều
11
chỉnh cán bộ, nếu không có nghệ thuật thì không đánh giá hết người tài, lại còn
thiên kiến quan hệ với nhau. Giả định anh làm công tác giỏi nhưng không có
thuật chọn người thay thế, kế nhiệm thì đó cũng chưa phải là tốt. Vậy nên
chúng ta hoàn toàn có thể vận dụng “thuật” của Hàn Phi Tử vào việc sử dụng
cán bộ. Ví dụ như tấm gương Hồ Chí Minh cũng đã nói đến thuật dùng người:
sau khi có đường lối đúng đắn thì chúng ta phải có cái thuật dùng người, người
đó phải có tâm trong sáng gạt qua lợi ích cá nhân để phụng sự cộng đồng. Còn
nhiều vấn đề về một bộ phận không nhỏ biến chất đi lên bằng con đường luồn
lách, chạy chức. Đó là con đường đối lập với văn hóa chính trị, Khi lên theo
con đường như vậy họ không phải rèn luyện về đạo đức, họ lên như vậy và sau
này họ cũng tuyển dụng như vậy thì quả là nguy hiểm. Muốn có xã hội ổn định
thì yếu tố con người mới là quan trọng, Cần phải có các tổ chức giám sát, dựa
vào nhân dân, cần phải mạnh, tăng cường hơn nữa trong công tác giáo dục,
quản lý, tuyển dụng cán bộ vào bộ máy nhà nước.
Hàn Phi Tử cũng cho rằng “pháp luật không phân biệt sang hèn”, “hình
phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ kẻ thất phu…
thưởng cho những kẻ giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Ở
đây, phạt và thưởng rất rõ ràng vậy nên trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta nên áp dụng quan điểm này.
Cho đến bây giờ, thưởng phạt là rất cần thiết, để làm được điều này chúng ta
cần chú ý đến các vấn đề như coi trọng hình thức, xét thi đua cũng mang
trọng hình thức, lại có những thực trạng chạy chọt để được danh hiệu thi
đua… Việc thưởng gần như là một phong trào mà phong trào này thì chưa tạo
ra sự công bằng mà theo kiểu háo danh. Còn một thực tế nữa là phạt chưa đủ
sức răn đe, khi bị phạt thì người bị phạt lại tìm mối quan hệ thân thiết để chạy
án. Nếu như chúng ta áp dụng được những tư tưởng tích cực của Hàn Phi Tử
thì rất hữu ích, tuy nhiên cũng phải lưu ý đến những thực trạng háo danh, chạt
chọt từ đó xác định rõ mục đích và tính chất của việc thưởng phạt.
12
Trong tư tưởng pháp trị luôn dựa vào pháp luật để đòi hỏi một sự công
bằng và ngày nay chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền cũng không nằm
ngoài mục đích đó. Nhà nước pháp quyền luôn đảm bảo được tính tối cao của
hiến pháp và pháp luật, pháp luật phải phản ánh đúng nguyện vọng của nhân
dân. Nhà nước đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, chịu trách
nhiệm trước công dân về hoạt động của mình… Ngược lại, công dân phải
thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước, chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm
pháp luật của mình. Để đảm bảo các yêu cầu trên thì nhà nước pháp quyền nói
chung phải có một thể chế thích hợp, để đảm bảo pháp luật được thực thi và
đảm bảo được vai trò của các cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp. Còn ở
nước ta, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một kiểu tiến bộ dân chủ và
có các đặc trưng như: Là nhà nước của dân do dân vì dân, dân ở đây là nhân
dân lao động trong đó là liên minh công - nông - trí thức trên cơ sở khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật,
đồng thời không ngừng nâng cao coi trọng giáo dục đạo đức và pháp luật,
pháp chế xã hội chủ nghĩa, Quyền lực thống nhất có sự phân công kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp, nhà nước hoạt động, theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà
nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử có nhiều tiến bộ mà chúng ta có thể áp
dụng được, song tư tưởng đó cũng có mặt hạn chế của nó. Từ truyền thống
đến ngày nay, vẫn có nhiều người có lý tưởng cao đẹp, phục vụ người khác
mà không vụ lợi. Nhưng theo quan điểm của Hàn Phi Tử thì hành động của
họ chẳng qua vì cái lợi. Thực sự ông đã bỏ qua cái giá trị nhân văn của con
người và độc tôn pháp luật. Chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là dựa vào dân, chủ quyền tối thượng thuộc về nhân dân. Phải hiểu
được rằng pháp luật không sinh ra quyền con người mà pháp luật chỉ là công
cụ để đảm bảo quyền của con người. Nếu làm khắt khe độc tôn pháp luật thì
chúng ta sẽ làm thui chột các giá trị sáng tạo trong thời đại và tất yếu sẽ gây
nên nền chính trị bất ổn trong đời sống nhân dân.
13
III. Kết luận
Như vậy, có thể nói, đường lối pháp trị của Pháp gia, mặc dù còn có
những hạn chế lịch sử nhưng vẫn có những giá trị có ý nghĩa quan trọng đối
với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Việt Nam. Trong những năm
qua, cùng với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng và nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện nhà nước Pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế liên
quan tới pháp luật và áp dụng pháp luật vào thực tế cần được giải quyết.
Về cơ cấu tổ chức, Quốc hội có chức năng lập pháp nhưng một phần
đáng kể chức năng lập pháp của Quốc hội lại do cơ quan hành pháp thực hiện.
Từ đó dẫn tới tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Trong lập pháp, đó là
tình trạng pháp luật hay thay đổi; hệ thống luật pháp không đầy đủ và đôi khi
không rõ ràng; tình trạng “luật khung” dẫn tới luật chậm đi vào cuộc sống;
các văn bản pháp luật thì chồng chéo; nguồn pháp luật thì chỉ có các văn bản
pháp luật do nhà nước ban hành dẫn tới sự cứng nhắc, không theo kịp thực tế;
luật thì quy định chung chung còn nghi định thông tư được qui định chi tiết
nhưng nhiều khi trái luật lại là công cụ thể điều chỉnh hành vi của công dân…
Trong hành pháp thì: thiếu nguồn nhân lực có trình độ, thiếu luật sư;
nhiều quan chức nhà nước không nắm vững luật dẫn tới sai phạm; nhiều
nguời có trách nhiệm thi hành pháp luật thì đạo đức kém dẫn tới ăn hối lộ, nể
nang, làm sai luật…. Trong giám sát thì kém hiệu quả dẫn đến những vụ như
PMU 18, vụ tham ô của Lã Thị Kim Oanh… xảy ra nhiều năm mới phát hiện
được, làm thiệt hại của nhà nước hàng tỉ đồng. Nhìn chung, những vấn đề
này, nếu thực hiện nghiêm chỉnh đường lối pháp trị của Pháp gia, kết hợp lý
luận pháp trị với thực tiễn ở Việt Nam, thì hoàn toàn có thể khắc phục được.
Tuy nhiên, cần tránh tính hình thức trong việc thực thi pháp luật và cần phải
kết hợp giữa pháp trị với đức trị. Sự sụp đổ của nhà Tần không phải do đường
lối pháp trị kém mà là do không biết vận dụng pháp trị linh hoạt và tuyệt đối
hóa pháp trị.
14
Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Pháp luật là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó
nhằm biến nó thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu,
càng rộng, thậm chí trừu tượng, khó định lượng bao nhiêu thì vai trò của pháp
luật càng quan trọng bấy nhiêu. Nhưng đạo đức cũng có vai trò quan trọng
của nó: Có những vi phạm đạo đức mà pháp luật không thể xét xử nhưng con
người vẫn không thoát khỏi sự trừng phạt của lương tâm, dư luận. Vì vậy, có
thể nói, pháp luật được coi là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức được coi là pháp
luật tối đa.
Pháp luật rất quan trọng trong quản lý nhưng quản lý xã hội không thể
chỉ bằng pháp luật. Trong lịch sử Việt Nam, thời Lê thịnh trị vì biết tôn nho
trọng pháp. Trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh, Người cũng chủ
trương kết hợp nhuần nhuyễn Pháp trị và Đức trị: “Luật pháp phải dựa vào
đạo đức” nhưng “luật pháp phải bảo vệ đạo đức”. “Đức trị” nhằm khuyên
người ta làm những việc nên làm, “pháp trị” bắt buộc người ta phải tránh
những việc nên tránh. “Đức trị” là trị nước bằng tình, bằng thuyết phục; “pháp
trị” là trị nước bằng các đạo luật, bằng cưỡng chế . “Đức trị” và “pháp trị”
trong tư tưởng Hồ Chí Minh không loại trừ nhau mà thống nhất, bổ sung cho
nhau. Người chủ truơng dùng “đức” để cảm hoá ngăn chặn những thói hư tật
xấu, hạn chế thấp nhất “cái ác” nảy sinh ở mỗi con người. Nhưng nếu ai đó
phạm tội thì phải nghiêm trị theo pháp luật. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, trước
khi yêu cầu người dân làm theo pháp luật cần làm họ hiểu được ý nghĩa mục
tiêu của pháp luật; trước khi sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính cần
sử dụng giáo dục thuyết phục.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi nhà nước pháp quyền Việt Nam
đang đặt trọng tâm vào việc phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ đối ngoại,
tham gia sâu rộng vào sân chơi kinh tế quốc tế được xây dựng trên nền tảng
các hợp đồng, các luật chơi đã được thừa nhận, thì Pháp trị phải được chú
trọng hơn Đức trị. Trước mắt, cho đến khi chúng ta xây dựng được một xã hội
15
được quy định từ A đến Z bằng pháp luật, một nhà nước pháp quyền mà trong
đó ý thức của nguời dân tôn trọng pháp luật của nguời dân như một sự tất
nhiên. Đức trị chỉ được coi là biện pháp hỗ trợ cho Pháp trị. Vì thế việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam phải dựa trên cơ sở kết hợp đường
lối Pháp trị và Đức trị của phương Đông, với mô hình nhà nước pháp quyền
của Châu Âu và quan điểm pháp trị của Anh - Mỹ. Việc này đòi hỏi một thời
gian không ngắn nhưng chúng ta nhất quyết phải thực hiện nếu muốn tiến tới
một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, dân giàu, nước mạnh.
Trên đây là toàn văn tiểu luận của tôi. Mặc dù đã rất có gắng song vẫn
không tránh khỏi sai sót do nhiều yếu tố thời gian, tài liệu tham khảo chưa
được đầy đủ. Rất mong những đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn ./.
16
Tài liệu tham khảo
Giáo trình “Lịch sử triết học Trung Quốc thời kì cổ - trung đại” –
NXB Chính trị - Hành chính.
“Tư tưởng pháp trị của Pháp gia với sự nghiệp xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam” - PGS, TS. Doãn Chính, TS. Nguyễn Văn Trịnh
(2007).
“Bản sắc văn hóa Việt Nam” - Phan Ngọc (2004), NXB Văn hóa thông tin.
“ Hàn Phi Tử” - Phan Ngọc (2005), NXB Văn học.
“Hàn Phi Tử- tư tưởng và sách lược” - Trí Tuệ (2003), NXB Mũi Cà
Mau.
17
MỤC LỤC
18