NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ
HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ
PHẠM
NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA
TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
TS Huỳnh Văn Sơn (Chủ b iên)
Đinh Quỳnh Châu - Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu
LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là
một chuyên ngành của Tâm lý học. Chuyên ngành này
cung cấp cho người học những kiến thức chuyên sâu
về sự phát triển tâm lý theo độ tuổi và các đặc điểm
tâm lý cụ thể ở từng độ tuổi cũng như những cơ sở
tâm lý của việc dạy học và giáo dục con người nói
chung và học sinh nói riêng.
Đối với sinh viên sư phạm hoặc những
chuyên ngành có liên quan đến việc giáo dục và đào
tạo thì bộ môn Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư
phạm trở thành một môn học hay những tín chỉ bắt
buộc phải tích lũy. Những kiến thức của bộ môn này
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những
định hướng ban đầu về sự hiểu biết nghề nghiệp,
những kỹ năng cơ bản cũng như những nền tảng nhất
định cho việc tiếp thu những tri thức về Lý luận dạy học
bộ môn. Có thể nói cùng với Tâm lý học đại cương thì
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm đóng vai
trò hết sức quan trọng nhằm hình thành kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ cho người học chuyên ngành
sư phạm
Ngày nay, việc giảng dạy đòi hỏi người giáo
viên phải liên tục cập nhật những kiến thức khoa học.
Tuy nhiên, những kiến thức cơ bản của Tâm lý học lứa
tuổi và Tâm lý học sư phạm vẫn thể hiện được tính
thiết yếu của nó. Từ việc tìm hiểu những đặc điểm cơ
bản về nhận thức và học tập của từng lứa tuổi để
người giáo viên biết lựa chọn nội dung dạy học,
phương pháp dạy học đến việc nắm vững cấu trúc tâm
lý của việc hình thành khái niệm hay rèn luyện kỹ năng
đều đòi hỏi phải nắm vững những kiến thức cơ bản
trong Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm.
Ngay cả thực trạng công tác học đường đang có nhiều
vấn đề như: bạo lực học đường, văn hóa học đường
xuống cấp... thì việc giáo dục hành vi đạo đức, hình
thành những phẩm chất của một người học sinh trong
thời đại mới cũng đòi hỏi sinh viên sư phạm và cả
những thầy cô giáo - nhà quản lý giáo dục phải thực
sự quan tâm đến những cơ sở tâm lý trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh, hình thành những phẩm
chất đạo đức dựa trên cơ sở tâm lý hay cấu trúc tâm lý
của hành vi đạo đức...
Tập tài liệu này ra đời nhằm hỗ trợ sinh viên
sư phạm và những người có liên quan đến chuyên
ngành sẽ xác lập được những kiến thức trọng tâm của
môn học, trên cơ sở nghiên cứu có định hướng hoặc
sẽ nắm vững những kiến thức cơ bản nhất qua quá
trình học tập - nghiên cứu. Nội dung của tài liệu tập
trung vào những kiến thức chung của Tâm lý học lứa
tuổi và sự phát triển tâm lý của học sinh Trung học
(bao gồm học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông). Ngoài ra, những kiến thức cơ bản về Tâm lý
học dạy học, Tâm lý học giáo dục và Tâm lý học nhân
cách người giáo viên cũng được tiếp cận tr6en bình
diện khái quát. Tài liệu được trình bày dưới dạng hỏi
đáp những nội dung khoa học cơ bản trong môn học
cũng như định hướng phân tích - giải quyết những tình
huống thực tiễn được sử dụng làm chất liệu giảng dạy
hay sử dụng làm câu hỏi mở rộng hay câu hỏi tình
huống trong đánh giá. Các câu hỏi được sắp xếp theo
từng phần - từng chương dưới dạng câu hỏi luận đề
và câu hỏi tình huống để người đọc sẽ dễ dàng tham
khảo và nghiên cứu. Hy vọng rằng quyển tài liệu đã
đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu của những đối
tượng có quan tâm đến bộ môn Tâm lý học lứa tuổi và
Tâm lý học sư phạm.
Chắc chắn rằng quyển tài liệu không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Hy vọng sẽ nhận được quan tâm
và ủng hộ của quý bạn đọc. Mong rằng quyển tài liệu
này sẽ trở thành tư liệu học tập và nghiên cứu hữu ích
cho quý bạn đọc để việc tìm hiểu - nghiên cứu Tâm lý
học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm sẽ có định hướng
và đạt hiệu quả cao. Mong nhận được những chia sẻ
và đóng góp của quý bạn đọc.
Phần 1: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI
Phần 2: TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Created by AM Word2CHM
Phần 1: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI
NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC
LỨA TUỔI
Chương 2 - TÂM LÝ HỌC HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ
SỞ
Chương 3 - TÂM LÝ HỌC HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG
Created by AM Word2CHM
Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA
TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI
NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
à Phần 1: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI
TỔNG QUAN
* Với mục tiêu giúp sinh viên nêu được quan
điểm đúng đắn và tích cực về trẻ em và sự phát triển
tâm lý trẻ em, biết nhận diện cac quy luật phát triển
tâm lý và biết phân tích vai trò của các yếu tố bẩm sinh
di truyền, môi trường sống, giáo dục và hoạt động và
giao tiếp đối với sự phát triển tâm lý cá nhân cũng như
nắm vững các giai đoạn phát triển tâm lý của một đời
người; chương 1 sẽ là các câu hỏi để ôn tập những
nội dung cơ bản sau:
1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ
em
2. Các quy luật phát triển tâm lý trẻ em
3. Các yếu tố tác động đến sự phát triển tâm
lý trẻ em
4. Phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý
trẻ em
* Song song với tài liệu này, sinh viên có thể
tham khảo thêm các tài liệu sau:
1. TLH Lứa tuổi và TLH Sư phạm (1995), Vụ
Đại học, NXB Hà Nội.
2. TLH Lứa tuổi và TLH Sư phạm (1998), PGS
Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan – Nguyễn Văn Thàng, NXB
Giáo Dục.
3. Tâm lý học trẻ em (1998), Nguyễn Ánh
Tuyết, NXB Giáo Dục.
Câu hỏi:
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
được ra đời để nghiên cứu đối tượng gì và thực hiện
những nhiệm vụ nào? Từ đó nêu lên ý nghĩa lý luận và
thực tiễn của môn học này?
Trả lời:
Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu và ý nghĩa
nghiên cứu Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư
phạm:
a. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng của Tâm lý học lứa tuổi là động
lực phát triển tâm lý theo lứa tuổi của con người; sự
phát triển cá thể của các quá trình tâm lý và các phẩm
chất tâm lý trong nhân cách của con người đang được
phát triển (quá trình con người trở thành nhân cách
như thế nào);
- Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm
của các quá trình và các phẩm chất tâm lý riêng lẻ của
cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của
chúng ở mỗi cá nhân trong phạm vi một lứa tuổi,
nghiên cứu những khả năng lứa tuổi của việc lĩnh hội
tri thức, phương thức hành động ;
- Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các dạng
hoạt động khác nhau của các cá nhân đang được phát
triển (vui chơi, lao động…)
- Do yêu cầu của thực tiễn và thành tựu của
khoa học, ngày nay Tâm lý học lứa tuổi có nhiều phân
ngành: Tâm lý học trẻ em trước tuổi học, Tâm lý học
tuổi nhi đồng, Tâm lý học tuổi thiếu niên, Tâm lý học
tuổi thanh niên…
- Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư
phạm là những quy luật tâm lý của việc dạy học và
giáo dục.
- Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn
đề Tâm lý học của việc điều khiển quá trình dạy học,
nghiên cứu sự hình thành quá trình nhận thức, tìm tòi
những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ
và xác định những điều kiện để đảm bảo phát triển trí
tuệ có hiệu quả trong quá trình dạy học, xem xét những
vấn đề và mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học
sinh cũng như giữa học sinh với học sinh.
Những phân ngành của Tâm lý học sư phạm:
Tâm lý học dạy học, Tâm lý học giáo dục và Tâm lý
học về người giáo viên.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ những gợi mở về đối tượng nghiên cứu thì
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có nhiệm
vụ nghiên cứu như sau:
- Rút ra những quy luật chung của sự phát
triển nhân cách theo lứa tuổi, những nhân tố chỉ đạo
sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi;
- Rút ra những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ
năng kỹ xảo trong quá trình giáo dục và dạy học, những
biến đổi tâm lý của học sinh do ảnh hưởng của giáo
dục và dạy học… từ đó cung cấp những kết quả
nghiên cứu để tổ chức hợp lý quá trình sư phạm, góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và
dạy học.
c. Ý nghĩa nghiên cứu:
Những thành tựu của Tâm lý học lứa tuổi và
Tâm lý học sư phạm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn
lao.
- Về mặt lý luận, các nghiên cứu của Tâm lý
học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm sử dụng các tài
liệu của một số khoa học khác, nhưng đến lượt mình
nó lại cung cấp tài liệu có ý nghĩa quan trọng cho các
khoa học khác.
- Về mặt thực tiễn có thể khẳng định sự hiểu
biết về Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là
điều kiện cần thiết để tổ chức có hiệu quả và đúng đắn
quá trình học tập và giáo dục.
Câu hỏi:
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
có mối liên hệ gì với nhau?
Trả lời:
- Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chúng quan hệ
chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác, đặc biệt là
Tâm lý học đại cương, giáo dục học, phương pháp
giảng dạy bộ môn…
- Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
là những chuyên ngành của Tâm lý học, đều dựa trên
cơ sở Tâm lý học đại cương. Tâm lý học lứa tuổi và
Tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ với nhau, thống
nhất với nhau, vì chúng có chung khách thể nghiên
cứu.
- Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy học và giáo
dục.
- Sự phân chia ranh giới giữa hai ngành Tâm
lý học này chỉ có tính chất tương đối. Những thành tựu
của Tâm lý học lứa tuổi sẽ là những cơ sở quan trọng
để Tâm lý học sư phạm vận dụng nhằm định hướng
những cơ sở tâm trong việc điều khiển họat động sư
phạm. Ngược lại, Tâm lý học sư phạm sẽ làm cho
những kiến thức của Tâm lý học lứa tuổi sẽ cụ thể hơn
khi xem xét nó trong hoạt động dạy học và giáo dục
theo từng độ tuổi.
Câu hỏi:
Dưới góc độ Tâm lý học lứa tuổi, hãy cho biết
trẻ em là gì. Trình bày sự hiểu biết về khái niệm trẻ em
trong Tâm lý học lứa tuổi?
Trả lời:
Dựa trên những quan điểm triết học rất khác
nhau, người ta đã hiểu về trẻ em rất khác nhau:
- Có quan niệm cho rằng trẻ em là “người lớn
thu nhỏ lại”, sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn
khác nhau về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình cảm...)
chỉ ở tầm cở, kích thước chứ không khác nhau về chất.
- Theo J.J. Rútxô (1712 - 1778) : Trẻ em
không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn cũng
không phải lúc nào cũng có thể hiểu được trí
tuệ,nguyện vọng và tình cảm độc đáo của trẻ thơ…vì
“Trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm
nhận riêng của nó”.
- Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định:
Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ lại. Sự khác
nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về
chất. Trẻ em là trẻ em, nó vận động, phát triển theo quy
luật của trẻ em. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời,
đứa trẻ đã là một con người, một thành viên của xã
hội, có nhu cầu giao tiếp với người lớn. Việc nuôi
nấng, dạy dỗ trẻ phải theo kiểu người. Mỗi thời đại
khác nhau có trẻ em riêng của mình.
Tóm lại: Trẻ em là trẻ em mà không phải là
người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là những thực thể đang
phát triển. Giới hạn của khái niệm trẻ em là từ lúc mới
sinh ra cho đến trước tuổi trưởng thành (trước 18 tuổi).
Không nên lấy chuẩn người lớn để so sánh với trẻ em
mà lấy trẻ em làm chuẩn so với chính nó trên bình
diện rộng. Trẻ em là con đẻ của thời đại và thể hiện
“sự thu gọn” sự phát triển lịch sử từ trước đến nay.
Câu hỏi:
Phân tích ngắn các quan niệm sai lầm về sự
phát triển tâm lý trẻ em?
Trả lời:
- Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý
trẻ em chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về số lượng của
các hiện tượng đang được phát triển, mà không có sự
chuyển biến về chất lượng.
- Quan điểm này xem sự phát triển của mỗi
hiện tượng như là một quá trình diễn ra một cách tự
phát mà người ta không thể điều khiển được, không
thể nghiên cứu được, không nhận thức được.
- Quan điểm sai lầm này được biểu hiện ở
các thuyết sau:
1. Thuyết tiền định:
+ Thuyết này coi sự phát triển tâm lý là do các
tiềm năng sinh vật gây ra, con người có tiềm năng này
từ khi mới sinh ra và sự phát triển chỉ là sự trưởng
thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay
từ đầu và được quyết định trước bằng con đường di
truyền này.
+ Các nhà Tâm lý học tư sản cho rằng: những
thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng đã được mã
hóa, chương trình hóa trong các trang bị gen.
+ Tuy nhiên, có những người theo thuyết này
có đề cập đến yếu tố môi trường. Nhưng theo họ,
mmôi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh“, “yếu tố thể
hiện“ một nhân tố bất niến nào đó ở trẻ.
Nhà Tâm lý học Mỹ E. Tóocđai cho rằng: “Tự
nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất nhất định, giáo
dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử
dụng nó bằng phương tiện tốt nhất“ và “vốn tự nhiên“
đó đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên một bộ
phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó
“dù giảng dạy tốt”, số khác lại tỏ ra lại có thành tích “dù
giảng dạy tồi”...)
+ Từ quan điểm này làm cho con người mất
lòng tin vào giáo dục, vào sự tu dưỡng và cải tạo bản
thân, họ cho rằng vai trò của giáo dục là thứ yếu, trẻ tốt
hay xấu, học giỏi hay kém không phải do giáo dục mà
do gien tốt hay xấu. Từ đó, họ đi đến kết luận: Trẻ em
khó bảo, năng lực trí tuệ kém phát triển là do bẩm sinh
chứ không phải do giáo dục,do môi trường.
Như vậy, vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp.
Giáo dục chỉ là yếu tố bên ngoài có khả năng làm tăng
nhanh hay kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất
tự nhiên, bị chế ước bởi tính di truyền. Và họ đã rút ra
kết luận sai sư phạm lầm: mọi sự can thiệp vào quá
trình phát triển tự nhiên của trẻ đều là sự tùy tiện,
không thể tha thứ.
2. Thuyết duy cảm:
Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm
giải thích sự phát triển của trẻ chỉ bằng những tác
động của môi trường xung quanh. Theo các tác giả
thuộc trường phái này thì:
+ Môi trường là nhân tố quyết định sự phát
triển của trẻ em. Vì thế, họ cho rằng, muốn nghiên cứu
con người chỉ cần nghiên cứu, phân tích môi trường
mà con người sống.
+ Quan điểm này cho rằng: môi trường xã hội
là cái bất biến, quyết định trước sự phát triển tâm lý cá
nhân, còn con người được xem như là đối tượng thụ
động trước ảnh hưởng của môi trường.
+ Mọi người sinh ra đều có sẵn những đặc
điểm bẩm sinh như nhau để phát triển trí tuệ và đạo
đức. Sự khác nhau giữa các cá nhân về điểm này hay
khác là do ảnh hưởng của môi trường, ảnh hưởng của
những tác động khác nhau.
Với quan niệm như vậy, chúng ta không thể
giải thích được vì sao trong một môi trường sống như
nhau lại có những nhân cách khác nhau.
3. Thuyết hội tụ hai yếu tố:
Những người theo quan điểm này cho rằng:
Sự tác động qua lại giữa hai yếu tố di truyền và môi
trường quyết định trực tiếp quá trình phát triển, trong
đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều
kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn
thành hiện thực.
Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của
những năng lực, những nét tính cách, những hứng
thú… mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc
điểm tính cách do cha mẹ truyền lại cho trẻ dưới dạng
có sẵn, bất biến…
Một số người theo thuyết này có đề cập đến
vai trò của môi trường đối với tốc độ chín muồi của
năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ em.
Nhưng theo họ, môi trường không phải là toàn bộ
những điều kiện và hoàn cảnh mà trẻ em sống mà chỉ
là gia đình của trẻ…
* Nhận định các thuyết trên:
Mặc dù quan niệm của những người đại diện
cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng
thực chất đều có những sai lầm giống nhau:
+ Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con
người là bất biến hoặc tiền định hoặc do tiềm năng
sinh vật di truyền hoặc ảnh hưởng của môi trường bất
biến. Những quan điểm này nhầm phục vụ cho giai
cấp bốc lột. (Có nghĩa là sự bất bình đẳng trong xã hội
là tất nhiên, là hợp lý).
+ Họ đánh giá không đúng vai trò của giáo
dục, từ đó thiếu biện pháp giáo dục, bi quan trước sản
phẩm xấu của giáo dục. Họ xem xét sự phát triển của
trẻ một cách tách rời và không phụ thuộc và những
điều kiện cụ thể mà trong đó quá trình phát triển của
trẻ diễn ra.
+ Họ đều cho rằng trẻ em là đối tượng thụ
động, cam chịu ảnh hưởng có tính chất quyết định của
yếu tố sinh vật hoặc môi trường… Họ phủ nhận tính
tích cực riêng của cá nhân, coi thường những mâu
thuẫn biện chứng được hình thành trong quá trình phát
triển tâm lý của cá nhân, mà không thấy được con
người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể
có ý thức sáng tạo nên hoàn cảnh.
Câu hỏi:
Trình bày nội dung cơ bản của thuyết tiền
định. Đưa ra những nhận xét cơ bản về thuyết này trên
phương diện sự phát triển tâm lý.
Trả lời:
Nội dung cơ bản của thuyết tiền định:
- Quan điểm của thuyết này cho rằng di
truyền, những đặc điểm bẩm sinh hay chính gen là yếu
tố đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển tâm lý
trẻ em. Sự phát triển tâm lý do các tiềm năng sinh vật
gây ra và con người có tiềm năng đó ngay từ khi ra đời.
- Sự phát triển chỉ là một quá trình trưởng
thành, chín muồi của những thuộc tính có sẵn ngay từ
đầu và được quyết định trước bằng con đường di
truyền này cụ thể đó là sự mã hóa, chương trình hóa
được trang bị trong gen.
- Cũng theo luận điểm rằng di truyền là yếu tố
quyết định sự phát triển tâm lý. Sự phát triển tâm lý các
khả năng của con người là cái có sẵn. Quan điểm này
cho thấy di truyền là yếu tố quyết định sự phát triển tâm
lý còn môi trường là yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của
tính di truyền mà thôi. Chính di truyền mà không phải
yếu tố khác sẽ quy định mức tối đa của sự phát triển đường hướng và mức độ của nó.
- Bẩm sinh di truyền là nguồn gốc, là động lực
của sự phát triển tâm lý cá thể mang vai trò quyết định
nhưng môi trường là yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của
tính di truyền.
Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên
phương diện sự phát triển tâm lý
- Trên bình diện văn hóa cũng khó có thể chối
cãi hay loại bỏ vai trò của di truyền tuy nhiên không thể
nói rằng di truyền quyết định văn hóa. Bản thân văn
hóa luôn luôn phát triển biến động thì di truyền đến
một lúc nào đó sẽ rất có thể theo kịp sự phát triển này.
Hơn nữa, vì tính chất di truyền nên các cá thể đã khác
nhau từ lúc đầu (khi con người được sinh ra) và liên
tục vì văn hóa khác nhau con người lại liên tục khác
nhau và vì thế không thể cho rằng di truyền quy định
văn hóa.
- Ở góc độ khác, sẽ dễ dàng nhận thấy di
truyền không thể quyết định sự phát triển của mỗi cá
nhân. Sự lĩnh hội và sự tiếp thu hay sự phát triển đích
thực của con người ở nhiều bình diện khác nhau như:
tình cảm - ước mơ - ý chí... không thể do yếu tố gen
hay di truyền quyết định. Tất cả những yếu tố ấy phụ
thuộc khá nhiều vào sự lĩnh hội văn hóa xã hội mà nó
trực tiếp phụ thuộc vào “phông” văn hóa - những hành
trang văn hóa đích thực mà cá nhân “sở hữu” như bản
lĩnh của chính mình trong cuộc sống.
Câu hỏi:
Trình bày nội dung cơ bản của thuyết duy
cảm. Đưa ra những nhận xét cơ bản về thuyết này trên
phương diện sự phát triển tâm lý
Trả lời:
Nội dung cơ bản của thuyết duy cảm:
- Môi trường văn hóa xã hội là nhân tố quyết
định sự phát triển trẻ em. Những tác giả theo thuyết
này cho rằng giữa môi trường và sự phát triển của con
người có một mối liên hệ đặc biệt mà cụ thể rằng nó
chính là yếu tố quy định tâm lý và sự phát triển của con
người diễn ra một cách tương ứng.
- Nhân tố xã hội là nguồn gốc của sự phát
triển tâm lý do đó để nghiên cứu tâm lý con người thì
chỉ cần phân tích cấu trúc của môi trường. Môi trường
như thế nào thì tâm lý của con người như thế ấy. Cơ
chế hành vi của con người và những con đường phát
triển của nó được ban cho một lần trong môi trường và
vẫn mãi mãi như thế. Nếu trẻ em sinh ra là tờ giấy
trắng thì ảnh hưởng của hoàn cảnh, điều kiện, môi
trường, xã hội mà những phẩm chất - thuộc tính được
vẽ lên đó.
- Mọi sự thành công hay thất bại của trẻ đều là
do môi trường hay đều được giải thích bởi môi trường
bên ngoài. Muốn nghiên cứu con người chỉ cần phân
tích cấu trúc môi trường của họ như thế nào thì con
đường phát triển hành vi, nhân cách và tâm lý... sẽ như
thế.
Nhờ vào tác động của môi trường sự phát
triển mới hiện hữu. Ngay cả những thuộc tính của đặc
điểm tự nhiên cũng không phải tự nhiên có mà là sự
tác động qua lại giữa các cá nhân trong xã hội và thế
giới tự nhiên là sản phẩm thực sự của xã hội.
Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên
phương diện sự phát triển tâm lý
- Môi trường là nơi để văn hóa thực thi những
chức năng khá đặc biệt của mình nhưng không thể
quá đề cao vai trò của môi trường vì thực tiễn cho thấy
trong cùng những điều kiện, hoàn cảnh xã hội như
nhau lại hình thành những nhân cách hoàn toàn khác
nhau, trái ngược nhau và trái lại trong những điều kiện
- môi trường xã hội khác nhau lại hình thành những
nhân cách có nhiều nét tương đồng nhau.
Sự phát triển được hình thành nhờ vào sự
tương tác tích cực với môi trường. Thế nhưng sự phát
triển thì không hẳn là sự tích lũy hay sự lĩnh hội một
cách thụ động những tác động của môi trường với tư
cách con người là “sản phẩm” hay “bản sao” của môi
trường.
- Những ảnh hưởng tiêu cực sẽ bị “gạn lọc”
hoặc thậm chí là bị gạt bỏ để hướng đến sự phát triển
có định hướng và thích ứng.
Câu hỏi:
Trình bày nội dung cơ bản của thuyết hội tụ
hai yếu tố. Đưa ra những nhận xét cơ bản về thuyết này
trên phương diện sự phát triển tâm lý.
Trả lời:
Nội dung cơ bản của thuyết hội tụ hai yếu tố:
- Sự tác động qua lại giữa môi trường và di
truyền quyết định sự phát triển tâm lý trẻ em. Trong hai
yếu tố trên, di truyền giữ vai trò quyết định còn môi
trường là điều kiện để biến những yếu tố có sẵn của di
truyền trở thành hiện thực.
- Trong sự phát triển tâm lý của trẻ, nhịp độ và
giới hạn của sự phát triển là tiền định còn môi trường
sẽ ảnh hưởng đến tốc độ chín muồi của năng lực và
tính cách được truyền lại sẵn.
- Sự phát triển là sự chín muồi những năng
lực, tính cách mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và
những đặc điểm tính cách được thế hệ trước truyền lại
một cách bất biến trong đó nhịp độ và giới hạn của sự
phát triển là tiền định.
- Ảnh hưởng của môi trường đối với tốc độ
chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền
lại cho trẻ. Môi trường ở đây không phải là tất cả các
điều kiện và hoàn cảnh xung quanh - xã hội mà chỉ là
môi trường gia đình là chủ yếu. Môi trường này mang
tính riêng biệt và gần như tách rời với đời sống xã hội
hay yếu tố này không hề được quan tâm.
Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên
phương diện sự phát triển tâm lý
- Sự tác động của hai yếu tố này được hiểu
quá máy móc, dường như sự tác động qua lại giữa
chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển là
một điều hết sức gượng ép.
- Yếu tố con người hay yếu tố hoạt động chưa
thể hiện gì cả trong khi phân tích các mối quan hệ
tương tác đã nói đối với sự phát triển tâm lý
- Nếu cho rằng gen và di truyền trở thành yếu
tố quyết định giới hạn của sự phát triển thì dù có tác
động như thế nào đi nữa thì sự phát triển vẫn diễn ra
theo tiến độ riêng và đạt đến mức độ vốn có của nó.
Bên cạnh đó, nếu như cho rằng môi trường chỉ ảnh
hưởng một cách “có chừng mực” đến sự phát triển vậy
thì vô tình đã làm giới hạn sức ảnh hưởng của văn
hóa, sức ảnh hưởng của kinh nghiệm.