Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa...............................................................................................................i
Lời cam đoan..............................................................................................................ii
Nhận xét của GVHD.................................................................................................iii
Mục lục.......................................................................................................................1
Danh mục các cụm từ viết tắt.....................................................................................2
PHẦN 1 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………..3
2. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………....4
2.1. Mục tiêu chung……………………………………………………………....4
2.2. Mục tiêu cụ thể……………………………………………………………....4
3. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………….4
3.1. Phạm vi về không gian…………………………………………………….....4
3.2. Phạm vi về thời gian………………………………………………………....4
3.3. Phạm vi về nội dung………………………………………………………....4
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………….....4
4.1. Phương pháp thu thập số liệu…………………………………………….….4
4.2. Phương pháp phân tích số liệu……………………………………………....4
PHẦN 2 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Đôi nét về thực trạng…………………………………………………..…...…5
1.2. Một vài khái niệm…………………………………………………..…...……5
1.3. Phân loại thất nghiệp………………………………………………….….…...7
1.4. Tỷ lệ thất nghiệp và chính sách BHTN tại Việt Nam………….…….……......8
CHƯƠNG 2
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 1
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP VÀ BHTN TẠI TP. HCM
2.1. Mô tả thực trạng……………………………………………….………...11
2.1.1. Thất nghiệp tại TP.HCM ………………………………….………...11
2.2.2. Tình trạng đăng ký BHTN tại TP.HCM……………………,………12
2.3.3. Tác động của thất nghiệp ……………………….………….……….13
a. Đối với cá nhân……………………………………………….……….13
b. Đối với xã hội……………………………………………….………...14
c. Đối với chính trị xã hội……………………………………….……….15
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP
3.1. Những hạn chế……………………………………………….……………….17
3.2. Giải pháp ……………………………………………………….…………….18
3.2.1. Đối với tình trạng thất nghiệp…………………………….….…………...19
3.2.2. Đối với BHTN……………………………………………….……………21
PHẦN 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận………………………………………………………….………….23
3.2. Kiến nghị……………………………………………………........................24
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
DN: Doanh nghiệp
LĐ: Lao động
NLĐ: Người lao động
BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp
BHXH: Bảo hiểm xã hội
TTGTVL: Trung tâm giới thiệu việc làm
DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
PHẦN 1 MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 2
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Đất nước ta đang trong quá trình chuyển mình sang kinh tế phát triển, đang
từng bước đổi mới, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm ở nước ta
đã từng bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật khách quan của kinh tế
hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt
đưọc những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, thực trạng vấn đề việc
làm ở nước ta hiện nay vẫn còn có nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát
triển của nền kinh tế, đặc biệt là từ sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại
quốc tế (WTO), đây là vấn đề nóng bỏng “và không kém phần bức bách” đang được
toàn xã hội đặc biệt quan tâm, có tác động không chỉ đối với sự phát triển kinh tế
mà còn đối với đời sống xã hội của quốc gia.
Cùng với sự thất nghiệp “khủng” như hiện nay là những cuộc đăng ký
BHTN đông đảo khắp nơi, nhất là khu vực TPHCM và các tỉnh miền Đông với số
người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tăng đột biến. Trong khi đó các doanh
nghiệp dùng đủ mọi cách lại không tuyển đủ lao động (LĐ)... Đây là một nghịch lý
mà nước ta đang phải hứng chịu và cần có những biện pháp giải quyết một cách
triệt để. Nếu cứ kéo dài thực trạng này sẽ làm giảm sút to lớn về mặt sản lượng và
đôi khi còn kéo theo nạn lạm phát cao. Đồng thời nó còn liên quan đến nhiều vấn đề
xã hội.
Nhận thức được sự nóng bỏng của vấn đề trên, tôi quyết định chọn đề tài tiêu
biểu: “Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố
Hồ Chí Minh” làm chuyên đề nghiên cứu, tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng
đến tình trạng thất nghiệp từ đó đưa ra những phương pháp giảm thất nghiệp hoặc
duy trì nó ở mức nhất định , đảm bảo cho phát triển kinh tế, xã hội, góp một phần
nhỏ công sức cũng như tinh thần vào những vấn đề của đất nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.
Mục tiêu chung
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 3
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Nêu ra thực trạng về vấn đề thất nghiệp và BHTN tại thành phố Hồ Chí
Minh cũng như một số giải pháp kiến nghị giải quyết vấn đề trên.
2.2.
Mục tiêu cụ thể
• Mô tả được thực trạng thất nghiệp và BHTN và những tác động của nó.
• Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên.
• Đề ra giải pháp để giải quyết vấn đề.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1.
Phạm vi về không gian
Đề tài được thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
3.2.
Phạm vi về thời gian
Số liệu sử dụng trong đề tài là số liệu thực tế năm 2009_2012
3.3.
Phạm vi về nội dung
Tìm hiểu tình hình thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp tại địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh và một số giải pháp kiến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1.
Thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp: sách kinh tế và tạp chí kinh tế.
4.2.
Phân tích số liệu
• Sử dụng phương pháp thống kê mô tả
• Sử dụng phương pháp so sánh
• Sử dụng phương pháp diễn dịch
• Sử dụng phương pháp quy nạp
• Sử dụng phương pháp chi tiết
PHẦN 2 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 4
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
1.1.
Đôi nét về thực trạng
Theo ILO, khủng hoảng việc làm thanh niên toàn cầu đang diễn ra trên quy
mô chưa từng có. Trên thế giới, tỉ lệ thanh niên không có việc làm cao hơn gấp 3
lần so với lao động lớn tuổi, và cứ 10 người thất nghiệp thì 4 trong số đó là thanh
niên. Tại Việt Nam, thanh niên độ tuổi từ 15 đến 24 là nhóm đông nhất, chiếm
50,4% trong tổng số người thất nghiệp. Nữ thanh niên gặp khó khăn nhiều hơn khi
tìm việc làm so với nam thanh niên. Năm 2010, tỉ lệ thất nghiệp của nữ thanh niên ở
Việt Nam là 8,3%, so với 5,9% ở nam thanh niên. Nhưng thất nghiệp trong thanh
niên chỉ là phần nổi của tảng băng vì những người có việc làm thì chất lượng việc
làm còn là vấn đề. Một số lượng đáng kể thanh niên phải thực hiện các công việc có
năng suất thấp, dễ bị tổn thương và những công việc phi chính thức được trả công
thấp.
Có một nghịch lý tại Việt Nam, để tìm việc làm chủ doanh nghiệp (DN) luôn
yêu cầu người lao động (NLĐ) phải có kinh nghiệm, trong khi sinh viên mới tốt
nghiệp ra trường thường lại thiếu kinh nghiệm. Do vậy, họ phải “nhảy việc” làm
tạm bợ những công việc trái ngành, trái nghề. Sau vài năm, dần dần khi tích lũy
được kinh nghiệm họ mới tìm được công việc ổn định. Chỉ ra những khó khăn của
thanh niên trên con đường xin việc, bà Bùi Phương Chi - Tổng liên đoàn Lao động
Việt Nam chia sẻ: “Sinh viên mới ra trường, rất khó đáp ứng hết các tiêu chí DN đề
ra. Có DN vẫn còn phân biệt bất bình đẳng giới, chỉ ưu tiên tuyển dụng nam giới,
thậm chí còn có sự phân biệt đối xử, gây mất công bằng giữa tấm bằng tốt nghiệp.
Thông thường sinh viên tốt nghiệp trường dân lập khó xin việc hơn những sinh viên
trường công lập”.
1.2. Một vài khái niệm
Có nhiều quan điểm khác nhau về thất nghiệp:
- Tại Điều 20 Công ước số 102 (1952) của tổ chức lao động Quốc tế (gọi tắt
là ILO) về Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội định nghĩa: “Thất nghiệp là sự
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 5
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được một việc làm thích hợp trong
trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc, theo định nghĩa
này để xác định tình trạng thất nghiệp cần hai điều kiện “có khả năng làm việc” và
“sẵn sàng làm việc”; sau đó Công ước số 168 (1988) bổ sung thêm vào định nghĩa
này khái niệm “tích cực tìm kiếm việc làm”.
- Một số nhà nghiên cứu khoa học Việt Nam đã đưa ra những khái niệm về
thất nghiệp như: “Thất nghiệp là hiện tượng mà người có sức lao động, có nghề,
muốn đi làm việc, không có việc làm và đã đăng ký ở cơ quan có thẩm quyền” (Kỷ
yếu hội thảo khoa học 1988 Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội). Hay “Thất
nghiệp là tình trạng trong đó người có sức lao động trong độ tuổi lao động không
có việc làm và đang cần tìm một việc làm có trả công” (Đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội) năm 1996).
- Lực lượng lao động bao gồm tất cả những người đang ở trong độ tuổi lao
động, thường là lớn hơn một độ tuổi nhất định (trong khoảng từ 14 đến 16 tuổi) và
chưa đến tuổi nghỉ hưu (thường trong khoảng 65 tuổi) đang tham gia lao động.
Những người không được tính vào lực lượng lao động là những sinh viên, người
nghỉ hưu, những cha mẹ ở nhà, những người trong tù, những người không có ý định
tìm kiếm việc làm, (giai đoạn 2010-2015: Lực lượng lao động của Việt Nam dự
kiến sẽ gia tăng khoảng 1,5%/năm).
- Tỷ lệ thất nghiệp là chỉ tiêu phản ánh khái quát tình hình thất nghiệp của
một quốc gia.
Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x
Số người không có việc làm
Tổng số lao động xã hội
Tử số: Không tính những người không cố gắng tìm việc.
Mẫu số: Tổng số lao động xã hội = Số người có việc làm + số người không
có việc làm nhưng tích cực tìm việc.
Tỷ lệ thất nghiệp được tính toán cho toàn bộ dân số là những người trưởng
thành sống ở khu vực thành thị và cho các nhóm hẹp hơn trong độ tuổi lao động,
phân theo nhóm tuổi , giới tính và theo khu vực địa lý, ở khu vực nông thôn, sản
xuất có tính thời vụ, việc tính tỉ lệ thất nghiệp rất ít ý nghĩa. Vì thế có một chỉ tiêu
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 6
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
thay thế khác là tỷ lệ thời gian lao động thường được sử dụng.
Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng = (tổng số ngày làm việc thực tế /
tổng số ngày công có nhu cầu làm việc)*100%
- Ngoài ra còn có chỉ tiêu tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Chỉ tiêu thống
kê này cho biết phần dân số quyết định tham gia vào thị trường lao động.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động = (lực lượng lao động/ dân số trưởng
thành)*100%
1.3.
Phân loại thất nghiệp
- Thất nghiệp cổ điển: là dạng thất nghiệp liên quan tới loại việc làm mà
tiền công thực tế trả cho người làm công việc đó cao hơn mức tiền công thực tế bình
quân của thị trường lao động chung, khiến cho lượng cung về lao động đối với công
việc này cao hơn lượng cầu. Dạng thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp tiền
công thực tế.
- Thất nghiệp cơ cấu: là dạng thất nghiệp do người lao động và người thuê
mướn lao động không tìm được nhau vì những lý do như khác biệt về địa lý, thiếu
thông tin, v.v...
- Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp liên quan đến chu kỳ kinh tế tại pha
mà tổng cầu thấp hơn tổng cung dẫn tới doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất và phải
giảm thuê mướn lao động. Dạng thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp
Keynes vì Keynes là người đề xướng thuyết về tổng cầu-tổng cung.
- Thất nghiệp ma sát: là loại thất nghiệp tạm thời do người lao động đang
chờ để tìm được việc làm mà họ kỳ vọng chứ không phải không thể tìm được việc
làm nào.
- Thất nghiệp trá hình: là dạng thất nghiệp của những người lao động không
được sử dụng đúng hoặc không được sử dụng hết kỹ năng. Thuộc loại này bao gồm
cả những người làm nghề nông trong thời điểm nông nhàn (đôi khi những người
này được tách riêng thành những người thất nghiệp theo thời vụ).
- Thất nghiệp ẩn: là dạng thất nghiệp không được báo cáo.
- Thất nghiệp do chuyển nghề: xảy ra khi một công nhân chuyển từ một
công việc này sang một công việc khác. Khoảng thời gian giữa lúc chuyển việc
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 7
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
được coi như thất nghiệp do chuyển nghề. Thất nghiệp do chuyển nghề luôn luôn
xuất hiện trong một nền kinh tế, vừa tăng phúc lợi trong dài hạn của công nhân vừa
tăng hiệu quả kinh tế, và cũng là một loại thất nghiệp tự nguyện.
- Thất nghiệp thời vụ: xuất hiện do sự dao động về việc làm diễn ra nhiều
hay ít theo quy luật trong quá trình sản xuất của một số lĩnh vực, một số ngành nhất
định. Nguyên nhân là do sự gián đoạn tự nhiên của quá trình sản xuất (thời tiết xấu
trong ngành xây dựng, do thời kỳ mùa vụ đánh bắt cá, gieo trồng trong nông
nghiệp, lâm nghiệp, hải sản) và ảnh hưởng của nó trong công nghiệp chế biến nông,
thuỷ sản hoặc việc tiêu thụ hàng hoá mang tính mùa vụ (dịp lễ, tết).
1.4.
•
Tỷ lệ thất nghiệp và chính sách BHTN tại Việt Nam
Tỷ lệ thất nghiệp năm 2011 đã giảm xuống 2,27%, từ mức 2,88% năm
2010, thấp nhất trong 4 năm gần đây.
Theo Tổng cục Thống kê, dân số trung bình cả nước năm 2011 ước
tính 87,84 triệu người, tăng 1,04% so với năm 2010.
Trong đó, dân số nam là 43,47 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số
cả nước, tăng 1,1% so với năm 2010. Dân số nữ 44,37 triệu người, chiếm 50,5%,
tăng 0,99%.
Dân số khu vực thành thị là 26,88 triệu người, chiếm 30,6% tổng dân
số cả nước, tăng 2,5% so với năm 2010. Dân số khu vực nông thôn 60,96 triệu
người, chiếm 69,4%, tăng 0,41%.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2011 là 51,39 triệu người,
tăng 1,97% so với năm 2010. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 46,48
triệu người, tăng 0,12%.
Tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ
48,7% năm 2010 xuống 48% năm 2011. Tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng từ 21,7% lên 22,4%, khu vực dịch vụ duy trì ở mức 29,6%.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 2,27%.
Trong đó khu vực thành thị là 3,6%, khu vực nông thôn là 1,71% (năm 2010 các tỷ
lệ tương ứng là: 2,88%, 4,29%, 2,30%).
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 8
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 3,34%,
trong đó khu vực thành thị là 1,82%, khu vực nông thôn là 3,96% (Năm 2010 các tỷ
lệ tương ứng là: 3,57%; 1,82%; 4,26%).
( Theo tổng cục thống kê)
•
Chính sách BHTN tại Việt Nam: Bước sang năm thứ hai thực hiện chính
sách BHTN nhưng trên thực tế triển khai, bên cạnh những ưu việt mà chính sách
này mang lại, đã và đang tồn tại một số bất cập khiến NLĐ chịu nhiều thiệt thòi.
Mặc dù đã mở rộng các điểm tiếp nhận hồ sơ và giải quyết thủ tục BHTN lên 8
điểm nhưng hiện quy trình để NLĐ nhận được các quyền lợi của mình còn rườm rà,
nhiều thủ tục, thời gian giải quyết kéo dài do phải qua nhiều khâu, nhiều cơ quan
nên mất thời gian đi lại của NLĐ. Ngoài ra, còn nhiều doanh nghiệp trốn đóng hoặc
nợ đóng BHTN đã gây khó khăn cho NLĐ trong quá trình hoàn thiện hồ sơ để giải
quyết trợ cấp thất nghiệp (do NLĐ bị kéo dài thời gian chốt sổ BHXH hoặc không
chốt được sổ BHXH).
Theo quy định về đối tượng tham gia BHTN hiện nay, NLĐ chỉ được hưởng
chính sách BHTN nếu làm việc tại các DN có từ 10 LĐ trở lên và có hợp đồng LĐ,
hợp đồng làm việc có thời hạn từ đủ 12-36 tháng; hợp đồng không xác định thời
hạn. Với quy định này thì những DN sử dụng dưới 10 LĐ, người LĐ giao kết hợp
đồng LĐ, hợp đồng làm việc có thời hạn dưới 12 tháng sẽ không thuộc đối tượng
tham gia BHTN.
Trên thực tế, những LĐ làm việc tại những DN này lại là những đối tượng có
khả năng mất việc cao, họ cần được quan tâm hỗ trợ thì lại không được tham gia
hưởng BHTN vì vậy quy định này còn tạo ra tình trạng thiếu bình đẳng trong việc
tham gia BHTN.
Bên cạnh đó, quy định về thời gian học nghề và mức hỗ trợ kinh phí học
nghề cho LĐ thất nghiệp hiện nay là chưa phù hợp với thực tế vì thời gian học nghề
và mức hỗ trợ 300.000 đồng/tháng là không đủ thời gian học và chi phí để NLĐ học
được một nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường LĐ.
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 9
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Quy định này sẽ khó thực hiện được mục tiêu đưa LĐ thất nghiệp sớm trở
lại với thị trường LĐ. Trên thực tế, số LĐ được hỗ trợ học nghề còn thấp hơn nhiều
so với LĐ đăng ký thất nghiệp năm 2011 với 351 người trên tổng số 18.431 LĐ có
quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP VÀ BHTN TẠI TP. HCM
2.1.
Mô tả thực trạng
2.1.1. Thất nghiệp tại TP.HCM
Thông tin tỉ lệ thất nghiệp gia tăng từng ngày đã thực sự là mối quan tâm của
xã hội. Từ đầu năm đến nay, tại TPHCM, Lao Động (LĐ) mất việc lên đến hàng
chục ngàn người, nhưng tình hình xem ra còn xấu hơn. Doanh nghiệp cắt giảm lao
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 10
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
động và giải thể trong thời buổi kinh doanh khó khăn được cho là nguyên nhân
khiến thất nghiệp gia tăng.
Theo Trung tâm Dự báo nguồn nhân lực và thông tin thị trường lao động
thành phố, nhu cầu tuyển dụng LĐ trong tháng 7 giảm 40%, có những ngành giảm
60%. Chưa hết, trong tháng 8, dự báo sẽ giảm 20% so với tháng 7.
Thị trường LĐ âm u như vậy nên nhiều người học nghề ở các trường, cơ sở
đào tạo ra trường trong lúc này rất khó xin được việc làm. Nhiều DN đã hứa hẹn
trước, thậm chí cam kết với trường nghề về việc tuyển dụng LĐ, nhưng do gặp khó
khăn trong sản xuất nên tạm ngừng tuyển người.
Sáu điểm tiếp nhận đăng ký thất nghiệp tại TP.HCM gần như ngày nào cũng
có hàng trăm lao động ghé qua. Tại phòng bảo hiểm thất nghiệp của Trung tâm giới
thiệu việc làm TP.HCM chỉ trong buổi sáng đã có hơn 300 người đến làm hồ sơ
đăng ký thất nghiệp. Họ đến với nhiều lý do để nghỉ việc, chủ yếu do mức lương cơ
bản quá thấp, không đủ trang trải cuộc sống.
“So với năm trước, những tháng gần đây số người đến đăng ký thất nghiệp
tăng lên. Mỗi ngày nơi đây giải quyết không dưới 500 trường hợp đăng ký thất
nghiệp”- một cán bộ tiếp nhận đăng ký thất nghiệp ở Trung tâm giới thiệu việc làm
TPHCM cho biết.
Điều đó cho thấy tình trạng thất nghiệp hiện nay đang ở mức báo động.
2.2.2. Tình trạng đăng ký BHTN tại TP.HCM
- Thống kê mới nhất cho thấy, bình quân mỗi tháng, TP.HCM có gần 10.000
người thất nghiệp, tăng hơn 150% so với năm ngoái. Bình quân mỗi ngày có
khoảng 400 người đến đăng ký hưởng BHTN, nhất là ngày đầu tuần có thể lên trên
500 người/ngày…hàng trăm người đứng ngoài cổng chờ mặc dù chưa tới giờ mở
cửa làm việc. Tính trong ba tháng đầu năm 2012, Bảo hiểm xã hội TP.HCM đã giải
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 11
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
quyết chi trả trợ cấp thất nghiệp cho 15.852 người. Hiện nay TP.HCM có khoảng
1,6 triệu người tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp.
- Trong báo cáo mới đây của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam với Thủ
tướng Chính phủ về những biến động trong việc làm của công nhân, lao động, nhất
là lao động phổ thông và tại các KCN-KCX cho thấy: Vấn đề tiền lương, thu nhập
và đời sống của người lao động hiện nay vẫn hết sức khó khăn. Vấn đề nhà ở cho
công nhân, lao động vẫn là yêu cầu bức xúc. Tình trạng Doanh nghiệp vi phạm
pháp luật, chiếm dụng tiền BHXH, BHYT, BHTN của người lao động tiếp tục xảy
ra ở rất nhiều Doanh nghiệp... Điều này cho thấy vì sao qua tổng hợp từ các hồ sơ
đăng ký thất nghiệp trên địa bàn cả nước thì có tới 90% số lao động có thu nhập
thấp, 10% còn lại có thu nhập trung bình trở lên. Trong đó người có mức hưởng trợ
cấp thất nghiệp từ 4 triệu đến gần 10 triệu đồng/tháng chiếm khoảng 7% tổng số
người đăng ký thất nghiệp trong năm 2011.
Không chỉ có tình trạng thất nghiệp “ảo” như một lãnh đạo của BHXH TP
vừa cho biết, một "lỗ hổng" khác hiện nay là có tình trạng doanh nghiệp tạo điều
kiện để người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Một số doanh nghiệp nảy ra
"sáng kiến" bố trí cho người lao động nghỉ từng đợt, khi người lao động đã đóng
BHTN đủ 12 tháng để được nhận BHTN, ngay sau đó lại tái ký hợp đồng. Người
lao động vẫn được nhận đủ 3 tháng trợ cấp thất nghiệp mặc dù họ đã đi làm trở lại ở
nơi khác hoặc ngay tại đơn vị cũ.
- Dự báo sắp tới đây, số người làm hồ sơ để nhận trợ cấp thất nghiệp tiếp
tục gia tăng. Điều đó cho thấy BHTN sau hơn 2 năm triển khai đã thực sự đi vào
đời sống. Thế nhưng, để BHTN đi “đúng đường” và “đúng hướng” thì lại không dễ
dàng gì. Dù Cục Việc làm - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan quản lý
BHTN khẳng định không có khả năng vỡ quỹ nhưng với các hành vi trục lợi như
hiện nay thì BHTN vốn là chỗ dựa khi rủi ro của người lao động liệu có trở thành
nơi để một số kẻ trục lợi kiếm chác? Nếu không kiểm soát được tình trạng trục lợi
BHTN như hiện nay số tiền thất thoát là rất lớn và gây thiệt thòi cho những người
lao động bị rủi ro thực sự.
2.3.3. Tác động của thất nghiệp
a. Đối với cá nhân
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 12
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
- Không có việc làm người lao động hạn chế giao tiếp với những người khác,
tiêu tốn thời gian vô nghĩa, không có khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết yếu
cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Yếu tố sau là vô cùng trầm trọng cho người gánh
vác nghĩa vụ gia đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên cứu cụ thể chỉ ra
rằng, gia tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, và suy giảm
chất lượng sức khỏe như suy dinh dưỡng, ốm, bệnh tật.
- Theo một số quan điểm, rằng người lao động nhiều khi phải chọn công
việc thu nhập thấp (trong khi tìm công việc phù hợp) bởi các lợi ích của bảo
hiểm xã hội chỉ cung cấp cho những ai có quá trình làm việc trước đó. Về phía
người sử dụng lao động thì sử dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép với những
người làm công cho mình (như không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng
suất cao, trả lương thấp, hạn chế cơ hội thăng tiến, v.v..).
- Khi thiếu các nguồn tài chính và phúc lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm
những công việc không phù hợp với trình độ, năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra
tình trạng làm việc dưới khả năng. Với ý nghĩa này, thì trợ cấp thất nghiệp là cần
thiết.
- Những thiệt thòi khi mất việc dẫn đến trầm uất, suy yếu ảnh hưởng
của công đoàn, công nhân lao động vất vả hơn, chấp nhận thù lao ít ỏi hơn và sau
cùng là chủ nghĩa bảo hộ việc làm. Chủ nghĩa này đặt ra những rào cản với người
muốn gia nhập công việc, hạn chế di dân, và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng,
tình trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về giới
chủ, tăng chi phí khi rời công việc và giảm các lợi ích của việc tìm cơ hội thu nhập
khác.
- Người thất nghiệp dễ ở trong tình trạng mình là người thừa tuy nhiên sự tác
động là khác nhau giữa hai giới. Ở phụ nữ nếu không có việc làm ngoài thì việc nội
trợ và chăm sóc con cái vẫn có thể được chấp nhận là sự thay thế thỏa đáng, ngược
lại ở người nam, đem thu nhập cho gia đình gắn chặt đến giá trị cá nhân, lòng tự
trọng. Nam giới khi mất việc làm thường tự ti, rất nhạy cảm và dễ cáu bẳn, họ có
thể tìm đến rượu, thuốc lá để quên đi buồn phiền, tình trạng này kéo dài ngoài khả
năng gây nghiện ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe còn có thể khởi tạo một vấn đề
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 13
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
mới đó là bạo hành gia đình. Họ cũng dễ bị rối loạn tâm lý như buồn phiền, mất
ngủ, trầm cảm và như đã nói ở trên đôi khi còn dẫn đến hành vi tự sát.
b. Đối với xã hội
- Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp
– các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản
phẩm và dịch vụ.Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả
của sản xuất theo quy mô.
- Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có
người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm.
Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều
việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
• Chưa kể, sinh viên ra trường và rủi ro thất nghiệp. Hàng năm chúng ta có
thêm hơn một triệu thí sinh thi tốt nghiệp trung học phổ thông, nếu chỉ có khoảng
một nửa số này vào được đại học và trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề thì
số người trẻ 18-20 tuổi còn lại sẽ tham gia vào lực lượng lao động phổ thông gia
tăng thêm hàng năm. Rồi còn lực lượng lao động do gia tăng dân số cơ học hàng
năm (tỉ lệ sinh khoảng 1,87 trẻ em/1 phụ nữ) ngoài lực lượng lao động phổ thông từ
các em tốt nghiệp trung học nhưng không vào đại học, cao đẳng và trường nghề).
• Nếu hơn nửa triệu người trẻ tuổi này có được việc làm phù hợp thì tốt biết
mấy, ngược lại, nếu họ không tìm thấy việc làm thì có thể gây ra nhiều hệ lụy
nghiêm trọng cho xã hội. Các chi phí cơ hội của quốc gia phải trả giá cho việc lãng
phí sức lao động có thể tính bằng tiền tỷ USD cho mỗi năm thất nghiệp của lực
lượng lao động hùng hậu này.
• Ai cũng biết tỉ lệ tội phạm các loại, các tệ nạn xã hội, thường gia tăng nhanh
chóng cùng với tỉ lệ thất nghiệp gia tăng tại các quốc gia. Rủi ro này luôn là gánh
nặng cho toàn thể xã hội, hơn 50% sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm so
với con số 73% sinh viên ra trường kiếm được việc làm ngay vào cuối năm 2011.
• Trong một góc nhìn khác dành cho các nhà quản trị giáo dục đại học thì nếu
chương trình giáo dục đại học hay cao đẳng được tinh gọn, hoàn thiện và rút ngắn
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 14
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
còn 2-3 năm như các nước tiên tiến và các nước trong vùng, thay cho 4 năm hoặc
4,5 năm như ở Việt Nam hiện nay thì sẽ tiết kiệm cho xã hội hàng tỉ USD mỗi năm.
• Mặt khác, một nền kinh tế có tỉ lệ thất nghiệp cao sẽ không sử dụng tất cả
các nguồn lực mà nó sẵn có, chẳng hạn lao động. Bởi vì nó đang hoạt động dưới
đường giới hạn khả năng sản xuất, nó có thể có sản lượng cao hơn nếu tất cả nguồn
lực được sử dụng hiệu quả. Tuy nhiên, có một sự cân bằng giữa hiệu quả kinh tế và
thất nghiệp: nếu người thất nghiệp do chuyển nghề chấp nhận công việc đầu tiên mà
họ có được thì họ có thể sẽ hoạt động dưới năng lực của họ, làm giảm hiệu quả kinh
tế.
• Trong suốt cuộc đại suy thoái, người ta ước tính rằng thất nghiệp do chính
sách lương cứng nhắc làm cho nền kinh tế Mỹ bị mất khoảng 4 nghìn tỷ USD. Nó
lón hon nhiều lần so với mất do độc quyền, trao đổi tù binh và thuế quan.
• Trong giai đoạn thất nghiệp kéo dài, công nhân có thể làm mất kỹ năng của
họ, dẫn đến mất vốn con người. Bị thất nghiệp cũng có thể làm giảm thời gian sống
của công nhân xuống 7 năm.
Tuy nhiên, thất nghiệp cũng có một số mặt tích cực.
•
Tình trạng thất nghiệp gia tăng tương quan với áp lực giảm lạm phát. Điều
này được minh họa bằng đường cong Phillips trong kinh tế học.
•
Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sẽ giúp cả người lao động và chủ sử dụng lao
động. Người lao động có thể tìm những cơ hội việc khác phù hợp với khả năng,
mong muốn và điều kiện cư trú, xem thời gian thất nghiệp là thời gian nghỉ ngơi
cho bản thân và có cơ hội nhìn nhận những gì đã qua và chiêm nghiệm cuộc sống,
có cái nhìn thoáng hơn. Về phía giới chủ, tình trạng thất nghiệp giúp họ tìm được
người lao động phù hợp, tăng sự trung thành của người lao động. Do đó, ở một
chừng mực nào đó, thất nghiệp đưa đến tăng năng suất lao động và tăng lợi nhuận.
•
Cuối cùng, tỷ lệ thất nghiệp cao có thể khuyến khích tính bài ngoại và chủ
nghĩa bảo hộ vì công nhân sợ rằng những người nước ngoài sẽ lấy mất việc làm của
họ. Họ sẽ nỗ lực để giữ lại những công việc trong nước đang có và những công
nhân trong nước sẽ sử dụng các rào cản pháp lý để chống lại “ những người ngoài
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 15
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
cuộc” những người muốn có việc làm, cản trở việc nhập cư, hoặc sử dụng các rào
cản thương mại tương tự để chống lại các đối thủ nước ngoài.
c. Đối với chính trị xã hội
Tỷ lệ thất nghiệp cao có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng náo động
trong dân chúng, trong một số trường hợp có thể dẫn tới cuộc cách mạng, và đặc
biệt là chế độ độc tài. Như sự sụp đổ của Cộng hòa Weimar năm 1993 và sự gia
tăng quyền lực của Alolf Hitler, lên đến tột đỉnh trong Chiến tranh thế giới thứ II và
cái chết của hang chục triệu người và sự phá hủy nhiều thủ đô của Châu Âu là do
điều kiện kinh tế nghèo nàn của Đức lúc bấy giờ, một tỷ lệ thất nghiệp cao đáng kể
trên 20%. (Cuộc đại suy thoái ở Trung Âu)
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP
3.1. Những hạn chế
- Trong xã hội tư bản, giới chủ chạy theo mục đích tối thượng là lợi nhuận,
mặt khác họ không phải chịu trách nhiệm cho việc sa thải người lao động, do đó họ
vui lòng chấp nhận tình trạng thất nghiệp, thậm chí kiếm lợi từ tình trạng thất
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 16
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
nghiệp. Người lao động không có các nguồn lực sản xuất trong tay để tự lao động
phải chấp nhận đi làm thuê hoặc thất nghiệp.
- Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các cách khác
nhau. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản
xuất và sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn đề về
cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao động (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế học cổ điển và
tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị trường đến từ bên ngoài, như mức lương
tối thiểu, thuế, các quy định hạn chế thuê mướn người lao động (thất nghiệp thông
thường). Có ý kiến lại cho rằng thất nghiệp chủ yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ
nghĩa Mác giải thích theo hướng thất nghiệp là thực tế giúp duy trì lợi nhuận doanh
nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo những cách
khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp.
- Việc áp dụng nguyên lý cung - cầu vào thị trường lao động giúp lý giải tỷ lệ
thất nghiệp cũng như giá cả của lao động.
- Sự cần thiết phải có một lực lượng lao động dự trữ. Cũng như ta cần có kho
gạo dự trữ, kho xăng dự trữ, thì xã hội cũng cần có một lực lượng lao động dự trữ,
vì nếu ai cũng đi làm hết công suất cả rồi, thì các công ty sẽ rất khó tuyển việc, khó
phát triển, khó tạo ra ngành nghề mới, v.v.
- Người ta ước lượng rằng khi kinh tế đang phát triển ở mức tối ưu thì tỷ lệ
không có việc làm cũng khoảng 4-5%, và con số 4-5% cũng gần như là tối ưu, vì
tạo nguồn dự trữ và phục vụ cho việc “quay vòng” từ ngành này sang ngành khác,
và ngoài ra còn phải tính đến một lượng dân số vì lý những do sức khỏe, tâm lý, gia
đình, v.v
- Sự phát triển công nghệ và thay đổi cấu trúc ngành nghề kinh tế theo thời
gian. Có những ngành mới mọc ra, ngành cũ co lại, v.v. Ví dụ như ngành phần mềm
máy tính cách đây một thế kỷ chưa hề có. Trong khi đó ngành luyện kim cách đây
một thế kỷ dùng rất nhiều lao động phổ thông thì bây giờ chỉ cần ít thôi. Quá trình
chuyển đổi đó ắt dẫn đến việc đóng cửa các đơn vị sản xuất hay kinh doanh không
còn cần thiết nữa, và những người làm những ngành đang co lại có thể bị thôi việc
một thời gian trước khi tìm được công việc khác.
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 17
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Máy móc làm thay người, khiến cho nhu cầu về giờ làm việc (đặc biệt là
những công việc “chân tay” trong công nghiệp) giảm đi.
- Thừa người/giờ lao động so với với nhu cầu trong các lĩnh vực nào đó.
• Cung trong lao động tăng vượt quá cầu. Ví dụ như là chỉ có 60 suất tuyển
giáo viên phổ thông mà đạo tạo mới ra 100 giáo viên, thì thừa 40 người không có
chỗ làm việc giáo viên.
• Có cung về lao động hấp dẫn hơn từ chỗ khác. (Tương tự như là đối với
hàng hóa: có các mặt hàng thay thế cạnh tranh). Ví dụ điển hình là lao động Trung
Quốc rẻ đã chiếm các việc xản suất của phương Tây, dẫn đến nhiều triệu người
phương Tây mất việc.
- Giá lao động quá đắt. Nhu cầu về lao động không phải là không có, nhưng
giá thành của lao động quá đắt khiến cho người có thể thuê lao động tìm giải pháp
khác hoặc bỏ đấy mà không thuê nữa.
- Làm việc không hiệu quả, chất lượng thấp mà tốn thời gian.
- Khủng hoảng kinh tế tài chính. Khi gặp khủng hoảng, người ta có thể bị
buộc phải sa thải hàng loạt lao động vì không có tiền trả lương, và hạn chế tuyển lao
động mới.
- Cơ chế quan liêu, quản lý yếu kém v.v. Thất nghiệp cũng có thể là hệ quả
trực tiếp của việc quản lý yếu kém, sự quan liêu, vô trách nhiệm, v.v., khiến cho có
những nơi vừa có tiền vừa có nhu cầu sử dụng lao động nhưng vẫn không thuê được
lao động.
- Mất công cụ lao động. Những người lao động bị tước đoạt công cụ hay một
trường thích hợp để có thể lao động, thì không lao động đúng nghề được nữa, và trở
nên thất nghiệp. Ví dụ như nông dân bị mất đất làm ruộng, nhà máy bị phá hủy, v.v.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Đối với tình trạng thất nghiệp
Gắn với từng loại thất nghiệp có những giải pháp riêng dùng để tham khảo
tùy thuộc vào xã hội từng quốc gia cụ thể.
Thất
Nguyên nhân thất nghiệp
Thất
nghiệp tạmnghiệp cơ nghiệp
thời
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Thất
Trang 18
cấu
nhu cầu
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
1. Những công cụ thuộc chính sách việc làm và
chính sách thị trường lao động
* Định hướng nghề nghiệp.
* Tư vấn nghề nghiệp.
* Giới thiệu việc làm, tổ chức sàn giao dịch việc làm
* Phát triển thông tin thị trường lao động.
* Kéo dài thời gian học nghề và nâng cao trình độ
++
++
+++
++
+
++
++
+++
+++
đào tạo trung bình.
* Đào tạo và đào tạo lại.
* Đào tạo và nâng cao năng lực hệ thống quản lý lao
++
+++
+++
++
động - việc làm.
* Hỗ trợ DN trong việc tạo điều kiện cho người lao
+
+++
+
động học tập suốt đời.
* Sử dụng Quỹ Giải quyết việc làm hỗ trợ các DN
tuyển dụng lao động là người yếu thế.
* Cho vay đối với những lao động phải nghỉ việc do
+++
+
những nguyên nhân từ phía DN.
* Cho những người thất nghiệp, người thiếu việc làm
vay vốn để tự tạo việc làm.
* Cho DN vay ưu đãi để mở rộng sản xuất.
* Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
* Lồng ghép các chương trình mục tiêu về việc làm
với các chương trình, dự án khác.
* Tổ chức việc làm can thiệp.
* Tổ chức việc làm công cộng.
* Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về lao
động - việc làm.
2. Những công cụ và giải pháp khác
* Quy hoạch phát triển vùng kinh tế, ngành kinh tế.
* Cải cách doanh nghiệp nhà nước.
* Ưu tiên khu vực DN vừa và nhỏ.
* Chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng
++
++
+++
++
++
+
+
+++
+++
+++
+
+
+
+++
+++
+++
+++
+++
++
+++
+++
+++
+++
+
++
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng nông thôn nghèo.
* Chế độ nghỉ hưu linh hoạt.
* Nghĩa vụ phục vụ quân đội, công an.
+++
* Chính sách tài chính và tiền tệ.
* Chính sách tiền lương tối thiểu.
+++
* Hội nhập kinh tế quốc tế.
+++
(+ : ảnh hưởng ít ; ++ : ảnh hưởng vừa; +++ : ảnh hưởng nhiều)
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 19
++
+++
+++
+++
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Ngoài ra còn có các biện pháp chung như:
Cần có các nghiên cứu khẩn trương về thực trạng hoạt động và khó khăn của
các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN đồng thời đưa ra các giải pháp khẩn cấp
giải quyết nhanh các tồn tại hiện nay. Các kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp như giảm
lãi suất cho vay, miễn giảm các sắc thuế cho doanh nghiệp gặp khó khăn, có các gói
cho vay ưu đãi doanh nghiệp thực sự đến tay đối tượng cần giúp đỡ.
Tránh tình trạng hô khẩu hiệu, thiếu thực tiễn, không khả thi.
Kế đến, cần đồng thời có các nghiên cứu về thực trạng đời sống lao động,
tình hình lao động thất nghiệp mới nhất, với các con số thực sát với tình hình thực
tế. Cần tìm hiểu đâu là nguyên nhân thực sự của tình hình hiện tại. Từ đó, có các kế
hoạch cứu trợ nhanh chóng cho người lao động bên cạnh các chính sách an sinh xã
hội, chính sách trợ cấp thất nghiệp đang từng bước hoàn thiện.
Nhân rộng trung tâm hỗ trợ thanh niên, khuyến khích sử dụng lao động nữ,
người tàn tật, hỗ trợ các cơ sở sản xuất của thương binh và người tàn tật.
Sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả của hệ thống dịch vụ việc làm
Xã hội hoá và nâng cao chất lượng đào tạo hệ thống đào tạo dạy nghề
Xem xét điều chỉnh tiền lương tối thiểu,đảm bảo tính cân đối giữa khu vực có
đầu tư nước ngoài và trong nước nhằm mục đích mở rộng thu hút lao động xã hội
Thêm vào đó, các mục tiêu tạo thêm số lượng công ăn việc làm mới cho người
dân, cần được xem như một tiêu chí hàng đầu để thẩm định năng lực làm việc của
các quan chức do "dân cử, dân bầu" hoặc "Đảng cử, dân bầu". Ví dụ, khi một ứng
cử viên cho một chức vụ nào đó ở cấp chính quyền địa phương hoặc trung ương,
hay hội đồng nhân dân các cấp, thiết nghĩ cũng nên gắn với một tiêu chí quan trọng
bậc nhất là người đó có thể có khả năng tạo ra được bao nhiêu công ăn việc làm cho
địa phương mình ứng cử trong nhiệm kỳ công tác, bên cạnh các tiêu chí quan trọng
khác.
Một góc nhìn bổ sung khác là làm sao giảm được số người thất nghiệp phải
đi bán vé số dạo, không kể số người già, tàn tật và trẻ em nghèo, hoàn cảnh đặc biệt
phải bán vé số và ăn xin, họ không có khả năng lao động và cần sự trợ giúp của
chính sách an sinh xã hội quốc gia; vì có lẽ không có quốc gia nào có đội ngũ bán
vé số dạo đông như nước ta hiện nay!
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 20
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho lao động thuộc diện chính sách ưu đãi,
lao động thuộc đối tượng yếu thế.
Sau cùng, việc gì cũng phải có ai đó, cơ quan nào đó, có nghĩa vụ và quyền
lợi, có địa chỉ cụ thể và chấp nhận chịu trách nhiệm cá nhân, từ việc ra các chính
sách công đúng hay sai gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp, cho tới chịu trách nhiệm
về tỉ lệ thất nghiệp tăng giảm hàng năm, chúng ta mới có các quyết sách phù hợp
cho tình hình khẩn cấp như hiện nay.
3.2.2. Đối với BHTN
Nhà nước cần phải sớm có phương pháp để ngăn chặn tình trạng LĐ lợi dụng
kẽ hở từ chính sách BHTN để trục lợi, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của những LĐ
bị thất nghiệp thực sự. Phải làm sao để việc chi trả trợ cấp thất nghiệp đúng đối
tượng được thụ hưởng. Vì các quy định hiện hành của Nhà nước mới chỉ nói chung
chung rằng ngăn cấm các hành vi gian lận trong BHTN (như kê khai không đúng sự
thật) chứ chưa có những quy định cụ thể các mức gian lận, vi phạm để có những
hình thức xử lý tương thích, kể cả truy tố trước pháp luật. Trong khi đó, các
TTGTVL, một mặt không đủ sức để kiểm ra phát hiện những vụ gian lận; mặt khác
không có công cụ gì để ngăn chặn việc này.
Bên cạnh đó cần có sự phối hợp của bên giám sát LĐ khai BHTN là cơ quan
việc làm vì cơ quan này là đơn vị trực tiếp xét duyệt hồ sơ cho LĐ, còn phía BHXH
chỉ là cơ quan chi trả.
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 21
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
PHẦN 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.
Kết luận
Như vậy, từ những lý do phân tích ở trên cũng như tình hình thực tế
hiện nay ở Việt Nam ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc quản lý
Nhà nước đối với các chính sách như ngày nay.
Trong các vấn đề quan trọng hàng đầu, nổi cộm nhất là việc sử dụng
lao động và thất nghiệp – một trong năm đỉnh của “ ngũ giác mục tiêu”
( tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, tỉ lệ nghèo thấp, cán
cân thanh toán có số dư). Thất nghiệp không chỉ là sự lãng phí mà còn làm
cho thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của dân cư thấp, ảnh hưởng
tới sự tăng trưởng kinh tế trong nước, cũng như việc “gọi” các nhà đầu tư
nước ngoài. Thất nghiệp làm cho tỉ lệ nghèo cao và sự phân hóa giàu nghèo
tiếp tục gia tăng.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, vấn đề đầu tiên cũng là
cuối cùng quyết định sức sống của một nền kinh tế, quyết định mức độ giàu
nghèo của xã hội vẫn là con người. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã trở
nên giàu mạnh nhờ có chiến lược đào tạo nghề, bồi đắp nguồn nhân lực một
cách bài bản, lâu dài. Từ đó, họ chuyển dịch nền kinh tế theo cơ cấu hiện đại,
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 22
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
lấy dịch vụ làm động lực để tăng nhanh thu nhập, đặc biệt là từ đó tạo điều
kiện cho sức lao động có thêm giá trị gia tăng.
Nước ta còn nghèo, vốn đầu tư còn phải đi vay, kỹ thuật - công nghệ
còn phải mua. Nhưng ta lại có nguồn lao động khá dồi giàu, giá rẻ. Đây là
những vấn đề cần được phân tích, trên cơ sở khắc phục những mặt tồn tại,
phát huy thế mạnh, để lực lượng mang lại hiệu quả kinh tế lớn nhất, đồng
thời góp phần bình ổn xã hội.
Sau đây là một số kiến nghị.
3.2.
Kiến nghị
Trong tình hình chung là nền kinh tế còn nhiều khó khăn thì Nhà nước cần
có biện pháp giúp đỡ các DN vượt qua khó khăn, đặc biệt là các DN vừa và nhỏ như
ưu đãi lãi suất…Ưu tiên sử dụng các LĐ nữ, người khuyết tật, yếu thế.
Bên cạnh đó cần có chế tài đủ mạnh đối với các DN cố tình tránh nghĩa vụ
đóng thuế, hay cố tình giúp NLĐ lách luật về BHTN.
Nhân rộng các mô hình hỗ trợ thanh niên như trung tâm của các tổ chức đoàn
thể hoàn toàn không thu phí tư vấn, giới thiệu, rất thuận lợi cho thanh niên. Nên để
các trung tâm được tự thu, tự chi, thả nổi theo cơ chế thị trường, có sự cạnh tranh và
giảm được các trung tâm lừa đảo.
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 23
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Niên giám thống kê 2009
Tạp chí công nghiệp
Diễn đàn kinh tế Việt Nam
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 24
GVHD: Đặng Ngọc Thanh
Phân tích tình trạng thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Cẩm Giang_QTKD09B
Trang 25
GVHD: Đặng Ngọc Thanh