Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố tuy hòa, tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.85 KB, 109 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế tư nhân là lực lượng nòng cốt, có vai trò chiến lược trong phát triển
kinh tế của nước ta hiện nay. Những năm qua, kinh tế tư nhân đã có những đóng
góp tích cực vào phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân, góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hội đất nước, tạo thêm nhiều việc làm và nhiều của cải

Ế

cho xã hội. Nhìn chung, khu vực kinh tế tư nhân có nhiều ưu thế nổi trội, là khu vực

U

có tốc độ tăng trưởng khá ổn định, nhiều năm tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ

́H

tăng trưởng chung của nền kinh tế, huy động được nhiều nguồn nội lực còn đang ở
dạng tiềm năng, đặc biệt là sử dụng nhiều lao động.



KTTN trên địa bàn thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên, trong những năm qua
có bước phát triển vượt bậc, hiện nay có hơn 10000 đơn vị KTTN, với các loại hình

H

chủ yếu là DNTN, CTTNHH, CTCP và hộ kinh tế cá thể tiểu chủ. Trong đó, có

IN


khoảng 9500 hộ kinh tế cá thể tiểu chủ và 600 loại hình DN. Sự ra đời của các

K

DNTN ở thành phố Tuy Hoà tiêu biểu như: doanh nghiệp Thuận Thảo, doanh
nghiệp vận tải Cúc Tư, doanh nghiệp Phương Tuấn, xây dựng Hiệp Hoà … đã góp

̣C

phần giải quyết việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại,

O

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Cụ thể như CTCP

̣I H

Thuận Thảo giải quyết cho 2000 lao động có việc làm với mức thu nhập trung bình

Đ
A

2 triệu đồng/người/tháng, doanh nghiệp xây dựng Hiệp Hoà giải quyết cho hơn 100
lao động có việc làm, với mức thu nhập 2,5 triệu đồng/người/tháng.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hoà hiện còn nhiều yếu kém: quy

mô nhỏ, ít vốn bình quân 10,61 tỷ/DN, công nghệ còn lạc hậu, trình độ quản lý yếu,
tính cạnh tranh chưa cao. Nhiều đơn vị kinh tế tư nhân còn trốn thuế, gian lận thương
mại, buôn lậu hoặc không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về bảo hộ lao
động, không đóng bảo hiểm xã hội…Với những hạn chế như vậy, kinh tế tư nhân ở

thành phố Tuy Hòa nói riêng và tỉnh Phú Yên nói chung cần được nghiên cứu, tìm
kiếm giải pháp khắc phục những hạn chế và phát triển mạnh hơn nữa.

1


Bàn về phát triển kinh tế tư nhân đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu,
hội thảo, các bài viết đăng tải trên trên nhiều tạp chí khác nhau như:
- Nguyễn Minh Phong (2004), Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
- Trần Xuân Châu (2008), Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Huế - Thực
trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Đại học Huế.
- Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư
nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

U

Ế

- Nguyễn Kế Tuấn (2010), Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định

́H

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội…
Riêng tỉnh Phú Yên, chưa có công trình nghiên cứu nào về phát triển kinh tế tư



nhân ở thành phố Tuy Hoà. Vì vậy nên, tôi chọn đề tài: “Phát triển kinh tế tư nhân ở
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn của mình.


H

Khi chọn đề tài nghiên cứu này tôi hi vọng rằng, có thể tìm kiếm các giải pháp

IN

thúc đẩy kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hòa phát triển trong những năm tới.
2. Câu hỏi nghiên cứu

K

- Các cách tiếp cận mới về kinh tế tư nhân?

̣C

- Đặc thù phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hòa (những vấn đề cấp

O

bách đặt ra) như thế nào?

̣I H

- Những phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy
Hòa là gì?

Đ
A


3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Mục đích chung
Thông qua việc nghiên cứu kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hòa mà khẳng

định thêm vai trò của kinh tế tư nhân và tìm giải pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân
phát triển.
3.2. Mục đích cụ thể
Một là, hệ thống hóa những cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư
nhân. Bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân nhằm vận dụng
vào trong phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hòa.

2


Hai là, phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hòa.
Ba là, đề xuất những giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế tư nhân trên địa
bàn thành phố Tuy Hòa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chủ yếu nghiên cứu tổng thể quá trình phát triển KTTN, xác định xu hướng và
giải pháp phát triển ở thành phố Tuy Hoà.

Ế

4.2. Phạm vi nghiên cứu

U

4.2.1 Về không gian


́H

Không gian nghiên cứu là thành phố Tuy Hoà của tỉnh Phú Yên.
4.2.2 Về thời gian



Thời gian là từ năm 2000 đến nay.
4.2.3. Về nội dung

H

Không đi sâu xem xét mặt kinh tế - kỹ thuậtvà quản trị kinh doanh mà chủ yếu

IN

tập trung mặt kinh tế - xã hội (tức là các quan hệ kinh tế chủ yếu, xác định các quá

K

trình, động thái, xu hướng, thể chế chính sách), góp phần đề xuất các giải pháp làm

phố Tuy Hoà.

̣C

cơ sở cho các chính sách thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, trọng tâm là ở thành

̣I H


O

4.2.4 Về chủ thể nghiên cứu

Chủ yếu tập trung nghiên cứu doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm

Đ
A

hữu hạn, công ty cổ phần.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp chung là duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ

nghĩa Mác-Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân, tổ thống kê.
- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp phỏng vấn, chuyên gia.
- Phương pháp chọn mẫu.

3


6. Kết quả nghiên cứu dự kiến và những đóng góp mới của luận văn
6.1. Kết quả dự kiến
- Hệ thống hóa vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân.
- Khảo sát thực trạng, đánh giá sự phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hòa.
- Tìm kíêm các giải pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hòa phát
triển trong những năm tới.
6.2. Những đóng góp của luận văn


Ế

- Làm cơ sở nghiên cứu cho những người nghiên cứu, hoạch định chính sách

U

và các doanh nhân ở thành phố Tuy Hòa.

́H

- Làm tài liệu tham khảo giảng dạy và học tập cho cán bộ, giáo viên trường
THPT chuyên Lương Văn Chánh ở thành phố Tuy Hòa.



7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài được kết

H

cấu gồm 3 chương:

IN

- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân.

K


- Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân của thành phố Tuy Hoà.

Đ
A

̣I H

O

Tuy Hoà.

̣C

- Chương 3: Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1 Quan niệm, phân loại và những quan hệ kinh tế chủ yếu của kinh tế tư nhân
1.1.1 Quan niệm về kinh tế tư nhân
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định sự tồn tại của kinh tế tư

Ế

nhân (KTTN) là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

U


(CNXH) và việc phát triển thành phần kinh tế này là một trong những nhiệm vụ

́H

kinh tế lâu dài, cơ bản của cả thời kỳ quá độ. Vấn đề KTTN ở Việt Nam có nhiều
biến động. Trước khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, với nhận thức



cứng nhắc về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN), KTTN được đem đối lập
với kinh tế XHCN và là đối tượng của cải tạo XHCN. Nhận thức sai lầm đó đã được

H

thẳng thắn chỉ ra trong Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986). Đồng thời, Đại hội đề

IN

ra chủ trương chiến lược về phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản

K

lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đến Nghị quyết 16 BCT – BCHTW khoá
VI (3/1989), Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra quan niệm về KTTN: KTTN là đơn

̣C

vị kinh tế do những người có vốn, có tài sản lập ra sản xuất và kinh doanh theo pháp


O

luật; KTTN bao gồm các hình thức: hộ cá thể; hộ tiểu chủ; hộ tiểu thương, các

̣I H

doanh nghiệp tư nhân (DNTN) dưới nhiều hình thức: xí nghiệp tư doanh; công ty tư
doanh; công ty cổ phần (CTCP),…[3]

Đ
A

Tuy vậy, những năm đầu của công cuộc đổi mới, ảnh hưởng của tư duy cũ về

kinh tế XHCN vẫn chưa hoàn toàn bị xoá bỏ. Tư tưởng về phát triển KTTN còn rất e
dè, chưa được thông thoáng, nhưng đã có bước cải thiện về nhận thức rất đáng kể.
Như xác định: KTTN được phát triển, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước. Hay
xác định: kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài; Giúp đỡ kinh tế cá thể,
tiểu chủ giải quyết khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ
sản phẩm; Khuyến khích tư bản tư nhân (TBTN) đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn
lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi và tăng
cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh.[9]
5


Tư duy về KTTN ngày càng thông thoáng và cởi mở hơn, từ Đại hội IX trở
đi, vai trò của KTTN được khẳng định tầm quan trọng của mình trong sự nghiệp
phát triển chung của đất nước và được khuyến khích phát triển, mở rộng theo quy
định của pháp luật. Trong các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW (khoá IX),
Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 3 năm 2002 (trang 24) lần đầu tiên KTTN được

đặt vấn đề rõ ràng, mạch lạc, cởi mở hơn, và đặc biệt là “không hạn chế về quy mô”
và được tự do phát triển trong các ngành, nghề, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật
không cấm. Đồng thời nhận định, “KTTN là một

bộ phận cấu thành quan trọng

U

Ế

của nền kinh tế quốc dân, phát triển KTTN là vấn đề chiến lược, lâu dài trong chiến

́H

lược phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan
trọng nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”.



Lần đầu tiên KTTN được xác định có vai trò quan trọng, là một trong những
động lực của nền kinh tế trong Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006). Từ đó chỉ rõ

H

chủ trương “Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp

IN

(DN) của tư nhân. Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh
doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ;


K

có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh

̣C

doanh, thông tin và nhận thông tin. Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi

O

trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình DN của tư nhân phát triển không hạn

̣I H

chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả lĩnh vực kinh doanh quan trọng
của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”[10, tr. 86].

Đ
A

Ở Đại hội Đảng lần thứ XI, một lần nữa khẳng định tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN; đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh,
bền vững. Trong đó, chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN, tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều
là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. KTTN một lần nữa được xác định như là
một trong những động lực của nền kinh tế và được Đảng và Nhà nước khuyến khích
phát triển mạnh.[11]


6


Như vậy, hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, quan điểm của
Đảng về KTTN đã từng bước hoàn thiện hơn. Kể từ Đại hội lần thứ IX của Đảng
cho đến nay, KTTN bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế TBTN. Và trên cơ
sở của những trình bày được nêu ở trên, có thể xác định KTTN là thành phần kinh
tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, với lao động của các chủ thể
kinh tế và lao động làm thuê, bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp
thuộc tư nhân.

U

Ế

Hiện nay, vẫn còn hai nhóm quan niệm khi tiếp cận về KTTN: KTTN là

́H

thành phần kinh tế và KTTN là một khu vực kinh tế. Tuy nhiên, điều quan trọng
nhất nằm ở chỗ đây là lực lượng kinh tế có vai trò quan trọng đặc biệt, là động lực



cho sự phát triển của đất nước.

1.1.2 Những quan hệ kinh tế chủ yếu của KTTN:


H

Nghiên cứu KTTN một cách đầy đủ cần tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau,

IN

tuy nhiên với chuyên ngành kinh tế chính trị học, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
1.1.2.1 Quan hệ sở hữu

K

KTTN chủ yếu trên 3 quan hệ kinh tế cơ bản:

̣C

“Sở hữu là hình thức chiếm hữu của cải vật chất do lịch sử quy định, trong

O

đó thể hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội.

̣I H

Sự phát triển các hình thức sở hữu do sự phát triển của lực lượng sản xuất quy
định”[19, tr. 22]. Trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người cho đến

Đ
A

nay nhìn chung chỉ có 2 loại hình sở hữu cơ bản là: công hữu và tư hữu. Và mỗi

bước tiến của lịch sử, mỗi loại hình nói trên được biểu hiện dưới các hình thức khác
nhau. Về mặt kinh tế, trong KTTT nói chung có 3 loại hình sở hữu cơ bản gồm: sở
hữu tư nhân, sở hữu nhà nước và sở hữu hỗn hợp.
Sở hữu tư nhân (SHTN) là một phạm trù được sử dụng rộng rãi ở cả các
nước XHCN và các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN). Đó là sở hữu của cá nhân
được đầu tư và sử dụng trong các lĩnh vực của đời kinh tế. Về đối tượng sở hữu,
các học giả Trung Quốc phân định ra SHTN về tư liệu sản xuất, về sức lao động
và về kết quả sản xuất[28, tr. 54]. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự

7


nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã đưa ra những quy định cụ thể về SHTN. Điều
211 đưa ra định nghĩa: “SHTN là sở hữu cá nhân về những tài sản hợp pháp của
mình. SHTN bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu TBTN”[28, tr. 245].
Điều 212 xác định: tài sản thuộc hình thức SHTN bao gồm: “Thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và
các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân.
Tài sản hợp pháp thuộc hình thức SHTN không bị hạn chế về số lượng, giá
trị”[28, tr. 245]. Trong đó, quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử

U

Ế

dụng và quyền định đoạt.

́H

Ở nước ta hiện nay, tuy không chính thức xác định các tiêu chí cụ thể phân

định các hình thức cấu thành SHTN, nhưng sự phân chia được mặc định dựa vào



quy mô đối tượng sở hữu của mỗi chủ sở hữu và cách thức thực hiện quyền sở hữu
gắn với loại hình tổ chức kinh doanh. Theo đó, SHTN có thể có các hình thức sở

H

hữu chủ yếu sau đây:

IN

- Hình thức SHTN gắn với loại hình tổ chức “hộ cá thể”. Loại này thường có
quy mô nhỏ, chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sở hữu, đồng thời cũng trực tiếp

K

tham gia với các thành viên trong gia đình, thực hiện tất cả các khâu của quá trình

̣C

sản xuất kinh doanh (SXKD). Hình thức này tồn tại phổ biến trong lĩnh vực sản

O

xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thương và các dịch vụ nhỏ, phân tán. Ưu

̣I H


điểm cơ bản của hình thức sở hữu này là tính cơ động trong thực hiện hoạt động
kinh doanh và khả năng huy động các thành viên trong gia đình tham gia hoạt động

Đ
A

ấy. Nhưng sở hữu này cũng là nét đặc trưng của nền sản xuất hàng hoá nhỏ, phân
tán, kém năng lực cạnh tranh và tính tự phát cao.
- Hình thức SHTN gắn với loại hình tổ chức “hộ tiểu chủ”. Loại hình này có

quy mô vừa và nhỏ, chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sở hữu. Khác với SHTN
quy mô nhỏ kinh doanh theo kiểu gia đình, trong hình thức sở hữu này, ngoài các
thành viên trong gia đình, chủ sở hữu còn thuê mướn số lượng lao động nhất định
thực hiện quá trình SXKD. Với quy mô sở hữu lớn hơn, nghĩa là khả năng đảm bảo
các nguồn lực sản xuất lớn hơn so với cá thể, hình thức sở hữu này có năng lực thị
trường cao hơn, bắt đầu hoạt động theo hướng kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận.

8


Loại hình tổ chức này có ưu thế trên các thị trường “ngách” hoặc trở thành những
“vệ tinh” tham gia một số công việc của quá trình sản xuất ở những DN lớn. Ở mức
độ nhất định, chúng có ưu thế trong tạo việc làm cho người lao động với chi phí nhỏ
và thời gian đào tạo ngắn. Tuy nhiên, ưu thế này chỉ có được khi chủ sở hữu có
năng lực quản lý điều hành và thiết lập các quan hệ ổn định với các chủ thể khác
trên thị trường.
- Hình thức SHTN gắn với loại hình “doanh nghiệp tư nhân”. Loại này có thể
tồn tại với những quy mô khác nhau, bao gồm cả quy mô nhỏ, vừa và quy mô lớn.

U


Ế

Quy mô kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực của chủ sở hữu: quy mô sở

́H

hữu của bản thân họ và khả năng huy động các nguồn lực từ bên ngoài. Chủ sở hữu
có thể trực tiếp thực hiện quyền sở hữu và điều hành quá trình SXKD hoặc uỷ



quyền cho người khác thực hiện các công việc này dưới hình thức hợp đồng thuê
quản lý điều hành. Quá trình SXKD chủ yếu do những người lao động làm thuê

H

thực hiện

IN

Ở Việt Nam hiện nay, hình thức sở hữu này được ngầm hiểu tương đồng với
hình thức SHTN tư bản chủ nghĩa (hình thức sở hữu TBTN). Và đến nay vẫn còn

K

những vướng mắc về hình thức sở hữu này. Nhưng không thể phủ nhận, thực tế

̣C


trong thời gian qua, các chủ sở hữu này có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp

O

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nước ta hiện nay, đa số các DNTN là loại

̣I H

vừa và nhỏ, phản ánh trung thực hình ảnh nền kinh tế của một quốc gia đang phát
triển. Các DN loại vừa và nhỏ cho phép khai thác tối đa nguồn lực của đất nước,

Đ
A

góp phần tăng trưởng GDP, giải quyết việc làm cho người lao động, làm tăng hiệu
quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế…
Phù hợp với tính chất của chế độ SHTN, trong tất cả các hình thức SHTN,

chủ sở hữu phải tự chịu trách nhiệm về kết quả SXKD và hưởng lợi từ kết quả ấy
tương ứng với quyền sở hữu sau khi hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước. Trên thực
tế, các hoạt động kinh tế có sự đang xen, kết hợp các loại hình sở hữu ngay trong
SHTN. Chẳng hạn, hoạt động liên kết giữa cá thể và tiểu chủ với loại hình TBTN ở
các mức độ khác nhau, nhất là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc
hợp tác với nhau trong các chuỗi sản xuất – cung ứng – tiêu thụ sản phẩm.

9


1.1.2.2


Quan hệ về tổ chức- quản lý
Thứ nhất, quan hệ quản lý của các hình thức KTTN gắn với loại hình tổ

chức “hộ cá thể”, “hộ tiểu chủ”. Quan hệ này dựa trên quyền lực tuyệt đối của
người chủ trong gia đình. Các thành viên có nghĩa vụ phải phục tùng sự phân công,
điều khiển của người chủ trong gia đình đối với các vấn đề SXKD. Tuy nhiên quan
hệ giữa chủ và các thành viên mang tính chất gia trưởng.
Trong quá trình phát triển của SXKD, nhiều hộ hoặc chủ cá thể, do nhu cầu
mở rộng qui mô sản xuất, có tuyển thêm lao động ngoài gia đình và như vậy, bản

U

Ế

chất kinh tế - xã hội của loại hình kinh tế này đã bắt đầu thay đổi. Hộ cá thể đã
tính chất mới giữa người chủ và người làm thuê.

́H

chuyển thành hộ tiểu chủ. Mối quan hệ giữa chủ và các thành viên bắt đầu biểu hiện



Thứ hai, quan hệ quản lý của các hình thức KTTN gắn với loại hình
“DNTN”. Đây là quan hệ có chứa đựng sự bóc lột của người chủ sở hữu đối với

H

người lao động. Trong lịch sử, quan hệ này đã tồn tại trong các hình thức kinh tế


IN

của chủ nô, của chúa phong kiến, của TBTN, đến giai đoạn TBCN 3 quyền (quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) bắt đầu tách ra, trong đó đặc biệt là

K

quyền quản lý và sử dụng. SHTN gắn với loại hình “DNTN” ở nước ta hiện nay

̣C

thường có hàng trăm, hàng ngàn công nhân, nhưng không có đủ điều kiện và tiêu

O

chí để trở thành một giai cấp tư sản độc lập, đối lập, đối kháng… như phương thức

̣I H

sản xuất TBCN. Thêm nữa, quan hệ giữa chủ và người làm thuê, không chỉ mang ý
nghĩa kinh tế mà còn hàm chứa ý nghĩa xã hội, đạo đức, nhân văn, nó được chế ngự

Đ
A

và phải được hiểu một cách mềm dẻo. Chính C.Mác cũng đã chứng minh rằng, tư
bản là một quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích và nó có tính lịch sử.
1.1.2.3

Quan hệ về phân phối


Đối với KTTN gắn với loại hình cá thể, tiểu chủ dựa vào sức lao động của
bản thân và gia đình, nên kết quả lao động là thuộc về chính họ. Đối với KTTN gắn
với loại hình DNTN, trước hết dựa trên nguyên tắc chung là: chủ sở hữu chiếm đoạt
phần sản phẩm thặng dư, còn người lao động được hưởng phần sản phẩm tất yếu
(tất nhiên là dựa trên cơ sở thoả thuận, hợp đồng và đúng luật pháp).

10


Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, khi mà nhiều đơn vị kinh
tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì quan hệ phân phối càng trở nên
phức tạp hơn. Có nhiều nguyên tắc, nhiều hình thức phân phối tồn tại đan xen lẫn
nhau ở trong từng đơn vị kinh tế, thậm chí đối với cả từng cá nhân. Tuy vậy, khái
quát lại, có thể kể tới 3 nguyên tắc phân phối cơ bản sau:
- Phân phối theo giá trị sức lao động.
- Phân phối thông qua các quĩ phúc lợi và bảo hiểm của doanh nghiệp (có thể
phần này không đáng kể so với DNNN).

Ế

- Phân phối theo tài sản và vốn đóng góp.

́H

U

1.1.3 Những loại hình KTTN
1.1.3.1 Doanh nghiệp tư nhân




- DNTN là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm vô hạn bởi
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. Chủ DNTN là chủ sở hữu duy

H

nhất (theo Luật DNTN – năm 2000) quyết định mọi hoạt động của DN. Chủ DN

IN

có thể trực tiếp quản lý, điều hành DN hoặc thuê người khác làm giám đốc, quản
lý, điều hành DN, tuy nhiên chủ DNTN vẫn có toàn quyền đối với DN và chịu

K

mọi trách nhiệm về hoạt động của DN.

̣C

- DNTN được đăng kí thành lập và chủ DN có thể thiết kế một cơ cấu tổ chức

O

chặt chẽ nhưng DNTN vẫn không được công nhận có tư cách pháp nhân vì không

̣I H

có sự tách bạch giữa tài sản của DNTN và tài sản của chủ DN. Chủ DNTN có thể
thuê lao động và tăng qui mô không hạn chế.


Đ
A

1.1.3.2 Công ti cổ phần. Là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người

mua cổ phiếu gọi là cổ đông, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào DN. Cổ đông có quyền chuyển nhượng,
mua bán cổ phiếu theo Luật và qui định của công ti. Cổ đông có thể là cá nhân, tổ
chức, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa.
- CTCP có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng, độc lập với các chủ thể khác và
tài sản của các thành viên công ty. CTCP chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng chính tài sản riêng của mình.

11


- CTCP được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để huy động vốn,
theo qui định của pháp luật về chứng khoán.
- Hội đồng quản trị phải có ít nhất là 7 thành viên, phải nắm giữ đa số cổ phiếu
(51%) hoặc nắm giữ số lượng cổ phiếu khống chế (ít nhất là 20%) và chịu trách
nhiệm pháp nhân về mọi hoạt động của công ty.
1.1.3.3 Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH)
Đối với CTTNHH có từ hai thành viên trở lên (CTTNHH2)
- CTTNHH2 là doanh nghiệp có hai đến không quá 50 thành viên góp vốn

U

Ế


thành lập và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ trong phạm vi số vốn góp vào

́H

công ty.

- CTTNHH2 có tư cách pháp nhân (kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận



đăng ký kinh doanh). Các thành viên của công ty (thường là quen biết nhau) có
trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty.

H

- CTTNHH2 không được phát thành cổ phiếu. Thành viên chỉ được chuyển
lại của công ty không mua.

IN

nhượng phần vốn góp cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn

K

- Vốn góp được xác định theo tỉ lệ phần trăm. Vốn góp phải đầy đủ và đúng

̣C

hạn. Các quyền lợi và nghĩa vụ vật chất của thành viên sẽ được xác định theo tỷ lệ


̣I H

công ty…)

O

phần góp (lợi nhuận, phân chia tài sản khi giải thể, quyết định các chức danh của
Đối với CTTNHH một thành viên (CTTNHH1)

Đ
A

- Là DN do một tổ chức làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn điều lệ.
- Tuy là một chủ sở hữu nhưng là một tổ chức có tư cách pháp nhân, tài sản

của công ty là độc lập với tài sản của chủ sở hữu. Do đó, chế độ pháp lý sẽ khác với
DNTN. DNTN do 1 cá nhân làm chủ và không thể tách bạch rõ giữa tài sản bỏ ra
khi kinh doanh và các tài sản khác của chủ thể, còn đối với CTTNHH1, chủ sở hữu
là 1 pháp nhân và tài sản giữa 2 pháp nhân phải hoàn toàn độc lập với nhau, mặc dù
một bên là chủ sở hữu.

12


- Ngoài yếu tố chịu trách nhiệm, chủ sở hữu có quyền chuyển nhượng toàn
bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác.
- Quyền định đoạt (tức là quyền quyết định tài sản về mặt pháp lý, như cho,
tặng, đổi, bán) là một trong những quyền cơ bản của chủ sở hữu và chủ sở hữu có

quyền định đoạt số vốn điều lệ đã đầu tư vào công ty. CTTNHH1 cũng không được
phát hành cổ phiếu.
1.1.3.4 Hộ cá thể, tiểu chủ
Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Sự

U

Ế

khác nhau giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ ở chỗ: trong kinh tế cá thể nguồn

́H

thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân gia đình, còn trong kinh
tế tiểu chủ, tuy nguồn thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của bản thân



và gia đình, nhưng có thuê lao động.

Ở nước ta do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, kinh tế cá thể, tiểu chủ có

H

vị trí quan trọng, lâu dài trong ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước.
1.2.1 Đặc trưng của KTTN

IN

1.2 Đặc trưng, vai trò và xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân


K

1.2.1.1 KTTN mới được hình thành và phát triển

̣C

Do đặc thù riêng của điều kiện kinh tế đất nước, KTTN nước ta mới được

O

khôi phục và phát triển, chủ yếu từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay. Vì vậy,

̣I H

bản lĩnh và kinh nghiệm kinh doanh của các DN chưa được rèn luyện. Thêm vào
đó, môi trường pháp lý của nước ta mới được tạo dựng còn chứa đựng nhiều yếu

Đ
A

kém, thiếu cơ chế hỗ trợ chặt chẽ về mặt pháp lý cho hoạt động SXKD của DN.
Điều này đòi hỏi nhà nước phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc hoàn thiện nhanh
chóng các văn bản pháp lý, hỗ trợ tích cực tạo dựng môi trường kinh doanh thông
thoáng, cởi mở, bình đẳng thực sự giữa các lực lượng kinh tế.
KTTN mặc dù được thừa nhận là bộ phận hợp thành quan trọng trong cơ cấu
kinh tế quốc dân, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, nhưng phải hoạt động theo định hướng XHCN, dưới sự quản lý của nhà nước
XHCN. Và tư duy coi trọng kinh tế nhà nước một cách máy móc, hình thức, cho
đến nay vẫn là rào cản cho sự phát triển của KTTN. Vẫn còn sự phân biệt giữa DN


13


NN và DNTN trong tiếp cận các nguồn lực, nhất là vốn, cụ thể như: trong điều tiết
vay vốn, các ngân hàng quốc doanh sẽ được Nhà nước hỗ trợ bằng nguồn từ ngân
sách chưa sử dụng đến. Còn ngân hàng ngoài quốc doanh, phải tự huy động tự cho
vay nên có lãi suất cao hơn. Trong vay vốn, các DNNN sẽ được ưu tiên tiếp cận các
nguồn vốn dễ dàng hơn so với các DNTN… Như vậy, mặc dù nhà nước đã có nhiều
ưu đãi cho KTTN phát triển nhưng trên thực tế vẫn còn khoảng cách khá xa để
KTTN nhận được sự bình đẳng như kinh tế nhà nước.
1.2.1.2 Quy mô doanh nghiệp nhỏ

U

Ế

Quy mô KTTN của nước ta nhỏ hơn nhiều so với mức chung của thế giới, số

́H

lượng đăng ký thành lập mới tăng nhanh qua các năm, nhưng số DN thực tế đang
hoạt động SXKD lại chưa nhiều. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thuế, tính đến



hết tháng 3/2009, cả nước có 272.680 DN của tư nhân đang hoạt động, chiếm
khoảng 59% tổng số DN đăng ký thành lập mới cả nước (tính đến 12/2009). Theo

H


tính toán từ số liệu điều tra DN của Tổng cục Thống kê, có khoảng gần 90% số DN

IN

của khu vực KTTN có mức vốn dưới 10 tỷ đồng, trong đó 12% số DN có số vốn từ
500 triệu đến 1 tỷ đồng, 49% có số vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng, 10% có vốn từ 5 tỷ

K

đến 10 tỷ đồng. Chỉ có khoảng 3% số DN có vốn từ 50 tỷ đến 200 tỷ đồng, 1% có

̣C

vốn trên 200 tỷ đồng và khoảng hơn 150 DN có vốn kinh doanh hơn 200 tỷ

O

đồng[17, tr. 17]. Như vậy, các DN trong khu vực KTTN chiếm tỷ lệ cao về số

̣I H

lượng, nhưng chủ yếu ở quy mô nhỏ và Việt Nam hiện đang thiếu vắng các DN quy
mô vừa và lớn, có đủ tiềm lực để vươn ra thị trường khu vực và trên toàn cầu.

Đ
A

1.2.1.3 Trình độ công nghệ lạc hậu
Bắt đầu từ sự hạn chế về quy mô, về vốn và theo đó là khả năng tích luỹ


thấp, trình độ kỹ thuật-công nghệ của các DN Việt Nam chỉ thuộc loại trung bình và
kém đối với trình độ chung của thế giới. Hiện nay, đa số các DN nước ta đang sử
dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, 76%
máy móc, dây chuyền công nghệ được sản xuất từ những năm 1950 – 1960, 75% số
thiết bị đã hết khấu hao, 50% số thiết bị là đồ tân trang… Máy móc, thiết bị đang
được sử dụng ở các DN Việt Nam chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình và 52% là
lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới chỉ có 2% (tỷ lệ này ở Thái

14


Lan là 31%, Ma-lai-xi-a là 51% và Xin-ga-po là 73%). Trong khi đó, các DN nước
ta đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chi phí khoảng 0,2% – 0,3% tổng doanh
thu[34]. Và với khả năng đổi mới, nâng cấp công nghệ kém như vậy nên nhiều DN
vẫn còn áp dụng các kỹ thuật sử dụng nhiều lao động. Đây được xem là một trong
những nguyên nhân quan trọng làm giảm tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
1.2.1.4 Chất lượng quản trị doanh nghiệp thấp
Chất lượng quản trị của nhiều DN của khu vực KTTN còn chưa cao. Nhiều
DN hoạt động với hình thức quản trị điều hành còn mang nặng tính gia đình, tập

U

Ế

trung quyền lực nên chưa phát huy được tính tự chủ, sáng tạo của đội ngũ cán bộ

́H

quản lý DN. Nhiều chủ DN quản lý DN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân, nên

thiếu tầm nhìn chiến lược, lúng túng trong định hướng dài hạn của DN.



Ngoài ra, đa số các chủ DN đều ít hoặc chưa qua đào tạo nghề, chủ yếu đi lên
từ sản xuất nhỏ, với lao động thủ công, vì vậy kỹ năng kinh doanh và kỹ năng lao

H

động còn thấp, khả năng nắm bắt thông tin thị trường, tiếp cận công nghệ hiện đại

IN

thiếu nhạy bén, không theo kịp yêu cầu thị trường. Kinh nghiệm, kỹ năng kinh
doanh còn nhiều hạn chế và đa số đều chưa có chiến lược kinh doanh… cho nên sức

K

cạnh tranh thấp.

̣C

1.2.1.5 Ảnh hưởng từ kinh tế thế giới. KTTN Việt Nam tuy mới được khôi phục và

O

phát triển, nhưng phải đối mặt với những trận “bão” khủng hoảng kinh tế trên thế

̣I H


giới vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, gần đây nhất là cuộc khủng hoảng và suy
thoái kinh tế trên toàn cầu từ năm 2008 cho đến nay. Đó là những thách thức lớn và

Đ
A

vô cùng nghiệt ngã đối với các DNTN Việt Nam trong quá trình hội nhập với kinh
tế thế giới. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự quan tâm của toàn xã hội và vai trò quản lý vĩ
mô đặc biệt quan trọng của Nhà nước.
1.2.2 Vai trò của kinh tế tư nhân
12.2.1 KTTN phát triển góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững
Ngày nay, KTTN là một lực lượng kinh tế có ý nghĩa và có tiếng nói quyết
định đến sức mạnh kinh tế của các quốc gia. Ở nước ta, mặc dù được “sinh sau, đẻ
muộn” hơn so với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nhưng với tốc độ tăng trưởng
cao và liên tục, đến nay KTTN đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong cơ cấu
15


kinh tế quốc dân với mức đóng góp ngày càng cao vào sự tăng trưởng chung. Nhiều
năm nay, trong khi tỷ trọng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trong cơ cấu GDP có
xu hướng giảm xuống, thì tỷ trọng KTTN thường duy trì ổn định ở mức trên 40%.
Bảng 1.1 Tỷ trọng GDP theo thành phần kinh tế
Năm

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
38,40 38,38 39,08 39,10 38,40 37,39 35,93 34,35 35,14

Khu vực tư nhân

47,84 47,86 46,45 45,77 45,61 45,63 46,11 46,97 46,53


Khu vực FDI

13,76 13,76 14,47 15,13 15,99 16,98 17,96 18,68 18,33

Ế

Khu vực nhà nước

U

Nguồn: Tổng cục thống kê, 2010[34]

́H

GDP của KTTN từ chiếm 46,97% tổng GDP năm 2008 đã tăng lên khoảng



48% trong năm 2010. Về đóng góp ngân sách, sự phát triển của DNTN trong nước và
DN có vốn đầu tư nước ngoài trong những năm qua đã làm tăng thu ngân sách và
thay đổi cơ cấu thu ngân sách. Số thu ngân sách từ khu vực FDI (không kể dầu thô)

H

và khu vực KTTN trong nước đang ngày càng tăng. Trong giai đoạn 2001 – 2007, tỷ

IN

trọng thu từ các doanh nghiệp FDI đã tăng từ 5,49% lên đến hơn 10,55% tổng thu


K

ngân sách nhà nước. Cũng tương tự, tỷ trọng thu từ KTTN trong nước tăng từ 6,47%

̣C

lên 10,6% tổng thu ngân sách. Trong khi đó, tỷ trọng thu từ DNNN lại có xu hướng

O

giảm đi, từ 22,28% năm 2000 xuống còn 18,74% năm 2007[30, tr. 193-194].

̣I H

Như vậy, đẩy mạnh khuyến khích phát triển KTTN đã tạo động cơ để huy
động nguồn lực đa dạng của xã hội cho phát triển. Nhờ đó góp phần ổn định kinh tế

Đ
A

vĩ mô, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế tương đối cao và liên tục, tạo việc làm, cải
thiện mức sống nhân dân và giảm tỷ lệ nghèo đói.
1.2.2.2 KTTN góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong
những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu tăng
trưởng kinh tế khả quan, tạo nên những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ
được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ, cán cân
thanh toán quốc tế…góp phần phát triển kinh tế xã hội theo hướng bền vững. Để đạt


16


được những kết quả đáng trân trọng ấy, có sự đóng góp to lớn của các loại hình kinh
tế thuộc KTTN.
Trước hết, sự phát triển của KTTN đã góp phần tăng tỷ trọng của công
nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Làm phát triển mạnh các
ngành nghề phi nông nghiệp, giảm bớt lao động trong nông nghiệp, tăng khả năng
tích luỹ cho dân cư. Đây là điều kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương thức sản
xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp.

Ế

Sự phát triển của kinh tế hộ gia đình và sự xuất hiện ngày càng nhiều các

U

DNTN làm trung gian cho quá trình sản xuất và tiêu dùng, góp phần xoá bỏ tình

́H

trạng chia cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt
là tình trạng tự cung, tự cấp về lương thực của từng vùng, từng địa phương. Góp



phần tạo ra thị trường thống nhất giữa các vùng miền trên cả nước.
KTTN góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ lao động trong nông nghiệp


H

trong tổng số lao động trong xã hội. Tham gia giải quyết việc làm ở nông thôn, thúc

IN

đẩy quá trình phân công lao động xã hội, là qua trình chuyển dịch lao động từ nông

K

nghiệp sang các ngành lao động công nghiệp và dịch vụ.

O

vấn đề xã hội

̣C

1.2.2.3 Tạo thêm nhiều việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo và giải quyết các

̣I H

KTTN hiện đang là khu vực tạo nhiều việc làm nhất cho nền kinh tế và đây
là điểm thành công nhất của chính sách phát triển KTTN của Đảng và Nhà nước ta.

Đ
A

Tính tại thời điểm năm 2008, kinh tế nhà nước đang tuyển dụng 9,0% tổng
số lao động có việc làm, kinh tế FDI tuy đang trong xu hướng gia tăng nhưng vẫn

chiếm tỷ trọng khiêm tốn là 4,1%. Do đó, lao động làm việc trong KTTN chiếm tỷ
trọng đa số, 86,9% tổng số việc làm. Từ năm 2002 tới 2007, DNTN đã tạo thêm
trên 2,23 triệu việc làm, các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp tạo thêm 2,15
triệu việc làm và khu vực FDI tạo thêm 0,99 triệu việc làm[30, tr. 193]. Tính đến
cuối năm, ước tính cả nước có gần bốn triệu hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp,
tăng 60% so với thời điểm năm 2002; 118,8 nghìn trang trại, tăng 40% so với năm
2003. Cho đến thời điểm năm 2010, tổng số lao động làm việc trong các DN thuộc

17


KTTN đạt con số 6,6 triệu người[34]. Sự phát triển nhanh của hộ kinh doanh đóng
góp trực tiếp vào tăng trưởng, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân, qua đó tăng
vị thế của lao động nông thôn. Có thể thấy rằng, KTTN đã có những đóng góp quan
trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi. Chính khu vực này, chứ
không phải khu vực DNNN, đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn, cụ
thể nhất là tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, góp
phần giảm hộ nghèo. Đặc biệt tại địa bàn nông thôn, hộ kinh doanh cá thể là lượng

Ế

chủ yếu trong việc thiết lập kênh tiêu thụ nông sản và phân phối vật tư, hàng công

U

nghiệp tiêu dùng cho nông dân. Số lượng các hộ kinh doanh cá thể đang tập trung

́H

nhiều ở các vùng nông thôn (chiếm 57,1%), trong khi hầu hết các DN chủ yếu tập

trung ở đô thị.



Riêng về miền núi, từ khi có Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/03/2002 của
Ban chấp hành TƯ Đảng khoá IX về phát triển KTTN, số lượng DNTN hoạt động ở

H

miền núi đã tăng lên nhanh chóng. Hoạt động của các DNTN, hộ kinh doanh cá thể

IN

ở miền núi đã góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hóa; cung ứng

K

đầy đủ, kịp thời những mặt hàng thiết yếu với giá cả tương đối ổn định; giải quyết
việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí và cao hơn nữa là góp

O

̣C

phần vào sự tăng trưởng kinh tế của các tỉnh miền núi…

̣I H

Mặt khác, các DNNN hiện đang sắp xếp lại, tinh giảm biên chế, các đơn vị
hành chính sự nghiệp không thể thu hút hết lực lượng lao động xã hội, mà làm tăng


Đ
A

lực lượng dôi dư. Vì thế, lực lượng lao động này đang trông chờ vào các DNTN.
Việc thu hút lực lượng đáng kể thanh niên mới lớn tham gia lực lượng lao động,
tránh tình trạng thất nghiệp cho các đối tượng này. Đây là nhóm tuổi nhạy cảm, dễ
bị lôi cuốn vào con đường trộm cắp, cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, KTTN đã tạo
công ăn việc làm và thu nhập cho họ, tạo điều kiện cho họ phấn đấu, học tập, làm
việc, giao lưu. Chính điều đó góp phần xoá đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã
hội, làm giảm các tệ nạn xã hội do những người thất nghiệp gây ra. Không chỉ vậy,
các DNTN tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm, đưa hàng hoá về nông thôn,
vùng sâu, vùng xa góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Hiện

18


nay, cụm từ “vai trò xã hội của các DNTN” được nhắc đến nhiều hơn khi họ tham
gia ngày càng nhiều vào các hoạt động từ thiện, nhằm khắc phục hậu quả của thiên
tai, lũ lụt, thể hiện vai trò xã hội ngày càng lớn của các DNTN trong xã hội.
1.2.2.4 Phát triển của KTTN thể hiện sự đổi mới tư duy về CNXH, về phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Khi phát triển đất nước theo mô hình CNXH, các nước trong hệ thống
XHCN đều xây dựng rập khuôn mô hình kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp

Ế

của Liên Xô cũ. Trong mô hình này không có sự tồn tại của KTTN, không có sự tồn

U


tại của thị trường với sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế với nhau, thậm chí

́H

người ta còn đem đối lập KTTN với CNXH. Nhưng sự sụp đổ của hệ thống XHCN
ở Liên Xô và Trung Đông Âu vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chứng minh



rằng những quan điểm này là không đúng. Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ xây
dựng, phát triển lực lượng sản xuất lên trình độ cao hơn. Để làm được như vậy cần

H

phải tận dụng tất cả các yếu tố còn phù hợp ở tất cả các trình độ của lực lượng sản

IN

xuất nhằm phát triển đất nước. Trong đó, KTTN là lực lượng kinh tế có thể khai

K

thác được nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế của xã hội, góp phần thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, có vai trò là động lực trong phát triển.

O

̣C


Khi tóm lược những tư tưởng cơ bản về các thành phần kinh tế qua các kỳ

̣I H

Đại hội Đảng, lý luận về phát triển KTTN ngày càng được thể hiện cụ thể và hoàn
thiện hơn, không còn sự e ngại khi nói đến vai trò và tầm quan trọng của KTTN

Đ
A

trong sự nghiệp phát triển đất nước ở giai đoạn hiện nay. Thể hiện sự đổi mới trong
tư duy về CNXH, về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng ta
khi đặt KTTN đúng với tầm vóc của nó trong phát triển kinh tế - xã hội.
Trong mô hình về CNXH, điều quan trọng nhất là phải phát triển được lực
lượng sản xuất, nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Việc phát triển đa dạng các
loại hình sở hữu, thừa nhận sự cần thiết khách quan phải tồn tại KTTN trong giai
đoạn hiện nay chính là thực hiện dân chủ hoá trong kinh tế, là một trong những cách
thức để đạt được yêu cầu về sự phát triển của lực lượng sản xuất và cải thiện đời
sống nhân dân. Nếu ta chỉ tuyệt đối hoá kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể như

19


trước kia (mong muốn nhanh chóng tạo ra một trong những biểu hiện kinh tế của
chế độ xã hội XHCN), chắc chắn sẽ dẫn đến sự nóng vội, chủ quan và duy ý chí
trong quá trình phát triển.
Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của KTTN, thể hiện tính chất XHCN
trong quá trình phát triển nền KTTT ở Việt Nam hiện nay không phải thể hiện ở tỷ
lệ chế độ công hữu các tư liệu sản xuất dưới hai hình thức kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể, cao hay thấp, mà chủ yếu thể hiện ở yêu cầu thúc đẩy phát triển lực lượng


Ế

sản xuất, huy động các nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống

U

nhân dân.

́H

Phát triển KTTN thể hiện sự đổi mới tư duy về CNXH, về nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam. Nó chứng minh rằng, quá trình đổi mới tư duy lý luận



này không phải xuất phát từ những nghiên cứu có tính chất hàn lâm kinh viện và từ
bên trên xuống, mà xuất phát từ chính nhu cầu của cuộc sống, nhu cầu chính đáng

H

cho cải thiện chất lượng cuộc sống của con người, với những tìm tòi, nghiên cứu,

IN

thực hiện ở những mức độ khác nhau và với những phạm vi khác nhau để vượt qua

K

khó khăn thách thức cản trở sự phát triển.


1.2.2.5 KTTN góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam

̣C

KTTN ra đời và phát triển, ngày càng tạo thêm nhiều ngành nghề mới, sản

O

phẩm mới, làm tăng khả năng lựa chọn cho người tiêu dùng. Cùng với quá trình

̣I H

hình thành và phát triển nền KTTT, cơ chế định giá theo kiểu quản lý tập trung bao
cấp bị xoá bỏ. Sự vận động và phát triển của KTTN, làm cho giá cả hàng hoá được

Đ
A

hình thành và biến đổi thông qua sự vận động của cung cầu trên thị trường, xoá bỏ
tính độc quyền về giá của các DNNN. Sự năng động của KTTN đã tạo ra ngày càng
nhiều các sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, tạo được uy tín cho thương hiệu
của mình, và có khả năng cạnh tranh cao không chỉ ở thị trường nội địa mà còn cả
trên thị trường thế giới như: café Trung Nguyên, nhãn hiệu giày Bitit, võng xếp Duy
Lợi,… Trên thực tế, có rất nhiều mặt hàng khi Nhà nước cho phép các DNTN tham
gia đầu tư vào đã tạo ra diện mạo mới, một mức giá mới hợp lý, và một sự lựa chọn
mới, đa dạng, phong phú hơn cho người tiêu dùng như: ngân hàng, bưu chính - viễn
thông… Như vậy, thông qua sự tìm tòi, phát triển năng động, đa dạng trong kinh

20



doanh, chính các lực lượng KTTN đã góp phần đắc lực hình thành và phát triển các
loại thị trường, tạo dựng môi trường cạnh tranh.
1.2.3 Xu hướng phát triển KTTN hiện nay
1.2.3.1 Chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng số DN, trong các lực lượng tham
gia phát triển kinh tế
Ngày 25/11/2010, Vietnam Report và Vietnamnet đã chính thức công bố
danh sách 500 DN lớn nhất Việt Nam về doanh thu năm 2010 – Bảng xếp hạng
VNR500 2010. Đây là năm thứ tư liên tiếp, bảng xếp hạng VNR500 được nghiên

Ế

cứu, xếp hạng và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng trong

U

nước và quốc tế, góp phần tạo nên động lực cạnh tranh lành mạnh cho các DN đỉnh

́H

cao trong nền kinh tế Việt Nam. Nhưng đồng thời qua bảng xếp hạng cũng cho thấy



sự lớn mạnh của các DNTN, ngày càng nhiều DNTN có mặt trong top 500. Cho
thấy triển vọng phát triển KTTN trong những năm tiếp theo.
Hiện nay, bảng xếp hạng VNR500 được nghiên cứu, công bố chia thành hai

H


bảng xếp hạng chính là: Bảng 1- TOP 500 DN lớn nhất Việt Nam về doanh thu

IN

thuộc mọi thành phần kinh tế và Bảng 2-TOP 500 DN lớn nhất Việt Nam về doanh

K

thu thuộc KTTN. Trong đó, tổng số lượng các DN trong hai bảng này giảm dần,
trung bình mỗi năm giảm 3%. Nếu trong bảng xếp hạng năm 2007, tổng số DN

Đ
A

̣I H

O

̣C

trong hai bảng là 897 thì đến bảng xếp hạng năm 2010, con số này chỉ là 829.

Biểu đồ 1.1 Tổng số các doanh nghiệp được xếp hạng trong cả hai Bảng xếp
hạng VNR500

21


Tỷ trọng KTTN trong Bảng xếp hạng VNR500 không phân biệt thành phần

kinh tế đang lớn dần lên theo từng năm, trung bình mỗi năm tăng lên 2%. Điều này
có ý nghĩa quan trọng, thể hiện số DNTN đang ngày càng lớn mạnh và Bảng 2 thực
sự đang tiến dần đến những chỉ số của Bảng 1. Tiến triển này chưa nhanh, nhưng
cho thấy sự tiến bộ của KTTN Việt Nam[34].
1.2.3.2 Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong báo cáo của bộ này trình

Ế

Chính phủ về tình hình triển khai phát triển DN nhỏ và vừa giai đoạn 2006 -2010,

U

thì GDP của khu vực KTTN (trong đó chủ yếu là DN nhỏ và vừa) từ chiếm 45,6%

́H

trong năm 2006 đã tăng lên khoảng 48% trong năm 2010 (DN nhỏ và vừa chiếm
khoảng 40%). Khu vực KTTN cũng tạo ra 50,2% việc làm trong cả nước. Tốc độ



tăng trưởng bình quân của khu vực này đạt 10% cao hơn mức 8% của cả nền kinh tế
trong giai đoạn 2006 – 2010. Theo thống kê năm 2009, cả nước có hơn 80 nghìn

H

DN đăng ký thành lập, DN nhỏ và vừa chiếm tới 97% trong số này, và các DN nhỏ

IN


và vừa có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế và đang phát

K

huy tác dụng tốt. Các DN nhỏ và vừa hoạt động có hiệu quả, trong đó gần 75% DN
hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ; số DN còn lại hoạt động trong lĩnh vực sản xuất.

O

̣C

Cũng theo báo cáo, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng, qui mô hoạt

̣I H

động, khối DN nhỏ và vừa đã có những đóng góp to lớn trong tăng trưởng kinh tế,
tạo việc làm. Ngay trong thời gian nền kinh tế chịu tác động lớn của khủng hoảng

Đ
A

tài chính, kinh tế thế giới, số DN nhỏ và vừa vẫn tăng rất nhanh. Tổng số DN đăng
ký thành lập giai đoạn 2006-2010 là 547.000 đơn vị[34].
1.2.3.3 Hình thành các tập đoàn kinh tế
Với sự phát triển ngày càng lớn mạnh về số lượng và quy mô, KTTN đã và
đang có nhiều chuyển biến tích cực trong những năm qua, đặc biệt là ngày càng
nhiều DN của KTTN hình thành và phát triển theo hướng mô hình tập đoàn kinh tế.
Bên cạnh các Tập đoàn kinh tế nhà nước với nhiều lợi thế đặc thù và được
pháp luật thừa nhận, các tập đoàn KTTN đều mang một cái tên không chính danh

như công ty cổ phần tập đoàn hoặc công ty cổ phần tập đoàn ZYX nào đó. Trên

22


thực tế, Việt Nam đã có những nhóm DN mạnh, liên kết và hoạt động dưới sự điều
hành chung, sử dụng chung thương hiệu... Đây có thể xem là những mô hình tập
đoàn trong KTTN như Đồng Tâm, Kinh Đô, Trung Nguyên, Hoàng Anh Gia Lai,
Hoàng Long, Mai Linh…Điểm chung là hiện các tập đoàn này đều có vốn góp, cổ
phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, công ty liên kết, đối tác chiến lược trong
và ngoài nước với hàng nghìn cổ đông và đang có xu hướng mở rộng quy mô và
kinh doanh đa ngành, lĩnh vực thông qua phát triển nội sinh, thâu tóm, sáp nhập hay

Ế

liên kết.

U

Quy mô và tốc độ phát triển của các tập đoàn kinh tế trong KTTN có những

́H

cải thiện trong những năm gần đây. Bên cạnh các tập đoàn lớn như Hoàng Anh Gia
Lai, Hòa Phát, Trung Nguyên…có mức vốn điều lệ trên 1000 tỷ đồng, hàng trăm



DN khác có mức vốn điều lệ vài trăm tỷ đồng cũng hoạt động theo mô hình tập
đoàn. Trong bảng xếp hạng VNR500 năm 2009 có sự góp mặt nhiều hơn của DN


H

thuộc KTTN với tỷ lệ chiếm gần 30% trong top 500 DN lớn nhất Việt Nam năm

IN

2009 so với tỷ lệ 28% so với năm 2008.

K

Có thể thấy rằng sự hình thành và phát triển của các DN trong KTTN ở Việt
Nam theo hướng tập đoàn kinh tế trong những năm gần đây là một tất yếu khách

O

̣C

quan, không có bất cứ một quyết định hành chính, chuyển đổi hoặc sắp xếp nào mà

̣I H

xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích của bản thân các DN. Bởi trong nền KTTT với
mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc hình thành các tập đoàn là xu hướng

Đ
A

rất cần thiết nhằm giảm chi phí giao dịch và rủi ro trong kinh doanh; phát huy lợi
thế nhờ quy mô; tạo sức cạnh tranh để thống lĩnh và chi phối thị trường trong những

ngành, hàng nhất định…Vì vậy, qúa trình hình thành các tập đoàn KTTN ở nước ta
chủ yếu được hình thành một cách tự phát thông qua sáp nhập, hợp nhất, thôn
tính… hoặc qua con đường liên kết một cách tự nguyện giữa các DN theo chiều
ngang, dọc hay hỗn hợp.
Tuy nhiên, do điều kiện nền kinh tế nước ta còn nhỏ bé lạc hậu, phần nào
cũng ảnh hưởng đến tiềm lực của các DN, phần lớn các tập đoàn KTTN ở Việt Nam
có quy mô nhỏ. Nếu so với phần lớn các DN có quy mô nhỏ và vừa ở Việt Nam, các

23


tập đoàn như Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát…hiện được xem là có quy mô lớn,
nhưng lại quá bé so với tiêu chuẩn chung về tập đoàn được quốc tế thừa nhận.
Ngoài ra, phần lớn các DN có chất lượng quản trị còn thấp, cách tiếp cận còn tương
đối đơn giản, thiếu tính chuyên nghiệp và sử dụng các công cụ thích hợp. Bên cạnh
đó, đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý trong các DN thuộc các tập đoàn tư nhân còn
thiếu, trình độ và kinh nghiệm quản lý còn nhiều hạn chế.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển KTTN

Ế

1.3.1 Thể chế chính sách

U

Trong quản lý nhà nước, quản lý Nhà nước về kinh tế giữ vị trí đặc biệt quan

́H

trọng, lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh rằng không khi nào và

không ở đâu có nhà nước phi kinh tế. Các hoạt động của Nhà nước (đại diện trực



tiếp là Chính phủ) đều có thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các
hoạt động kinh tế; mặt khác, bất cứ nhà nước nào cũng đều có vai trò quản lý nền

H

kinh tế quốc dân thông qua các công cụ quản lý và thể chế, chính sách để điều khiển

IN

nền kinh tế tự thân vận động nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn và theo quỹ đạo đã

K

lựa chọn. Trước khi đổi mới, nền kinh tế nước ta được vận hành theo mô hình kinh
tế tập trung bao cấp, không thừa nhận sự tồn tại của SHTN, KTTN. Tuy nhiên, thực

O

̣C

tế cho thấy SHTN, KTTN trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp vẫn tồn

̣I H

tại và phát triển như mạch nước ngầm trong lòng đất không bao giờ cạn và thực sự
có những đóng góp quan trọng về hàng hoá cho sản xuất và tiêu dùng cho xã hội.


Đ
A

Trong những năm “cải tạo XHCN ” cho thấy: sản xuất ngày càng sa sút, tổng sản
phẩm xã hội trong 5 năm 1976 – 1980 gần như dậm chân tại chỗ, nhưng tỷ trọng
KTTN trong tổng sản phẩm xã hội lại tăng lên từ 38,01% (năm1976) lên 42,77%
(năm 1980) và trong thời kỳ đó tỷ trọng của “thị trường tự do” trong tổng mức bán
lẻ của xã hội 50,9% (năm1976) lên 60,9% (năm 1980). Trong công nghiệp năm
1974, KTTN ở miền Bắc lúc đó chỉ chiếm 7% lao động và 0,3% tài sản cố định,
nhưng lại đóng góp 12% thu nhập quốc dân. Trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công
nghiệp, bán lẻ hàng hoá, KTTN hoạt động có hiệu quả hơn DNNN và hợp tác xã. Ở
miền Nam, sau khi có Nghị quyết 06 (khoá IV) năm 1979, KTTN được nhen nhóm

24


trở lại, đến năm 1980, thành phố Hồ Chí Minh có 1.564 xí nghiệp tư nhân với tổng
số công nhân 16.178 người[19, tr. 50-51].
Cho thấy rằng KTTN tuy là đối tượng cải tạo, phải xoá bỏ bằng nhiều biện
pháp, nhưng nó vẫn có sức sống mãnh liệt. Sức sống mãnh liệt đó được bắt nguồn
từ nhu cầu mãnh liệt, có thật, từ trong cuộc sống của bản thân mỗi con người, chính
là tạo ra những sản phẩm cần thiết thoả mãn những nhu cầu thiết yếu từ cuộc sống.
Nhưng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà nhân loại đạt được như

Ế

hiện nay, để có thể thoả mãn những lợi ích thiết thân của bản thân con người, nó đòi

U


hỏi phải hình thành một cơ chế có khả năng kích thích con người lao động SXKD,

́H

luôn nỗ lực tối đa để tìm kiếm lợi nhuận làm giàu cho bản thân, gia đình và cho xã
hội. Đó chính là cơ chế thị trường cùng với sự tồn tại khách quan của các hình thức



sở hữu đa dạng, trong đó, SHTN và tương ứng với nó là thành phần KTTN được coi
là động lực quan trọng của sự phát triển của các cá nhân trong xã hội.

H

Nhận thức được điều đó, Chính phủ Việt Nam đã chú trọng đến việc cải

IN

thiện môi trường thể chế chính sách nhằm tạo điều kiện cho KTTN phát triển. Cụ

K

thể, đến thời kỳ 1991 – 2000, khung luật pháp cho mọi loại hình DN đã hình thành,
quan trọng nhất là Luật công ty và doanh nghiệp tư nhân (1991); Luật khuyến khích

O

̣C


đầu tư trong nước (1991, sửa đổi năm 1998); Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

̣I H

(1987, sửa đổi năm 1990, 1992, 1996, và năm 2000). Và hàng loạt luật chuyên
ngành như: Luật đất đai (1993,1998), Luật ngân hàng, Bộ luật lao động (1993)…,

Đ
A

tạo căn cứ pháp lý để hình thành thị trường các nhân tố sản xuất[30, tr. 163].
Từ năm 2001 là giai đoạn đẩy mạnh hoàn thiện thể chế KTTT, nhất là nâng

cao chất lượng xây dựng chính sách, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, tạo
thuận lợi và khuyến khích phát triển KTTN. Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Sửa đổi
bổ sung năm 2009) tạo hành lang pháp lý chung cho tất cả các loại hình DN cùng
phát triển. Bên cạnh đó, nhiều chính sách liên quan đến sản xuất kinh doanh của
DN, cũng được sửa đổi theo hướng thuận lợi, giảm phiền hà, khuyến khích đầu tư
của mọi thành phần kinh tế, nhất là KTTN nhằm huy động mọi nguồn lực cho tăng
trưởng, tạo việc làm và tăng thu nhập.

25


×