TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======
HOÀNG KIỀU CHINH
HỌC THUYẾT "SỨ MỆNH BÀNH TRƢỚNG"
VÀ QUÁ TRÌNH THỰC THI CỦA MỸ Ở KHU VỰC
ĐÔNG Á
(CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Th.S NGUYỄN THỊ BÍCH
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Th.S Nguyễn Thị
Bích – ngƣời đã tận tâm, nhiệt tình hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình làm
khóa luận.
Tôi xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử - Trƣờng Đại
Học Sƣ Phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin gửi lời tri ân đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên, khích lệ giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và làm khóa luận.
Là một sinh viên nghiên cứu khoa học, chắc chắn đề tài của tôi không
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và các bạn sinh viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 30 tháng 04 năm 2016
Sinh Viên
Hoàng Kiều Chinh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................................... 1
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ .................................................................. 3
3. NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU................................................ 7
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .............................................................................. 8
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................................................................... 8
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI ................................................................................ 8
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG HỌC THUYẾT “SỨ
MỆNH BÀNH TRƢỚNG" TRONG LỊCH SỬ NƢỚC MỸ ......................... 10
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT
“SỨ MỆNH BÀNH TRƢỚNG” ......................................................................... 10
1.1.1. Sự phát triển của nền kinh tế Mỹ và nhu cầu bành trƣớng ra bên ngoài
sau nội chiến ......................................................................................................... 10
1.1.2 Những biến đổi về xã hội và quá trình “Tây tiến” của Mỹ ở thế kỷ XIX... 15
1.1.3 Tầm quan trọng của Đông Á trong chiến lƣợc phát triển của Mỹ .............. 19
1.2 NỘI DUNG HỌC THUYẾT “SỨ MỆNH BÀNH TRƢỚNG”..................... 22
1.2.1 Vài nét về tác giả John Louis O. Sullivan ................................................... 22
1.2.2 Nội dung cơ bản thuyết “Sứ mệnh bành trƣớng” ........................................ 23
CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH THỰC THI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HỌC
THUYẾT “SỨ MỆNH BÀNH TRƢỚNG” Ở KHU VỰC ĐÔNG Á (CUỐI
THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX) ................................................................. 28
2.1 QUÁ TRÌNH THỰC THI Ở NHẬT BẢN..................................................... 28
2.1.1 Hạm đội Perry và chính sách “mở cửa” Nhật Bản của Mỹ (1853) ............. 28
2.1.2 Hiệp định Kanagawa (3-1854) .................................................................... 30
2.1.3 Nhân tố Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan (1874) và bán đảo Lƣu
Cầu (1875) ............................................................................................................ 32
2.1.4. Sự mở rộng phạm vi ảnh hƣởng của Mỹ trong Chiến tranh Trung - Nhật
(1894 - 1895), chiến tranh Nga – Nhật (1904-1905) ........................................... 37
2.2 QUÁ TRÌNH THỰC THI Ở TRUNG QUỐC ............................................... 51
2.2.1 Hiệp ƣớc Vọng Hạ (1844) ........................................................................... 51
2.2.2 Chính sách “Mở cửa” Trung Quốc của Mỹ (9/1899) ................................. 52
2.2.3 Nhân tố Mỹ trong cuộc khởi nghĩa Nghĩa hòa đoàn (1899-1901) .............. 56
2.2.4 Về vấn đề Mãn Châu ................................................................................... 59
2.3 TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH THỰC THI HỌC THUYẾT “SỨ MỆNH
BÀNH TRƢỚNG” Ở ĐÔNG Á .......................................................................... 61
2.3.1 Đối với Mỹ .................................................................................................. 61
2.3.2 Đối với Nhật ................................................................................................ 65
2.3.3. Đối với Trung Quốc ................................................................................... 71
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 76
PHẦN PHỤ LỤC.................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giai đọan cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đánh dấu sự phát triển vƣợt bậc
về kinh tế của nƣớc Mỹ, khi nền kinh tế Mỹ đã dần thay thế nền kinh nƣớc Anh
để trở thành nền kinh tế hàng đầu thế giới. Sự phát triển vƣợt bậc đó đã thúc đẩy
những mục tiêu về chính trị nƣớc Mỹ giờ đây muốn trở thành “bá chủ thế giới”.
Để hiện thực hoá mục tiêu trên, lần lƣợt các thời tổng thống Mỹ trong giai đoạn
này đã theo đuổi chính sách bành trƣớng và tìm cách thực thi học thuyết “Sứ
mệnh bành trướng”.
Tƣ tƣởng đóng vai trò nền tảng cho việc hoạch định đƣờng lối, chính sách
của một quốc gia. Học thuyết “Sứ mệnh bành trướng” luôn luôn đƣợc giới cầm
quyền Mỹ cải biến thành một hệ tƣ tƣởng thế tục phục vụ cho việc bành trƣớng,
mở rộng lãnh thổ của mình. Từ lâu nƣớc Mỹ đã biến các quốc gia trong khu vực
Mỹ latinh và vùng biển Caribê trở thành “cái ao nhà” của mình. Vì vậy trong giai
đoạn này Mỹ phải mở rộng ảnh hƣởng sang một khu vực mới đó chính là các
quốc gia thuộc khu vực Đông Á, bên kia bờ thái Bình Dƣơng mà đối tƣợng đầu
tiên là Nhật Bản và Trung Quốc. Sau rất nhiều cố gắng đến những năm đầu của
thế kỷ XX, Mỹ đã có một chỗ đứng “không thể thay thế” ở Đông Á .Mỹ trở
thành đối tác chủ yếu của Nhật Bản, là trọng tâm hàng đầu trong chiến lƣợc phát
triển quân sự và ngoại giao của Nhật Bản, xác lập vị thế hợp pháp và quyền tự
do thƣơng mại ở thị trƣờng Trung Quốc rộng lớn, hơn nữa Mỹ còn có vai trò vô
cùng quan trọng chi phối các mối quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Á.
Do đó tìm hiểu về học thuyết sứ mệnh bành trƣớng và việc thực thi của
Mỹ ở Đông Á sẽ làm sáng rõ một phần lịch sử nƣớc Mỹ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, từ đó làm sáng rõ một phần lịch sử nƣớc Mỹ ở giai đoạn sau. Đồng
thời,cung cấp cho chúng ta có một cái nhìn đầy đủ về sự ra đời, nội dung của học
thuyết “Sứ mệnh bành trƣớng” cũng nhƣ quá trình thực thi học thuyết “Sứ mệnh
bành trướng” ở Đông Á (Trung Quốc và Nhật Bản).
1
Xuất phát từ những nhận thức trên, việc tìm hiểu Học thuyết sứ mệnh
bành trƣớng và quá trình thực thi của Mỹ ở khu vực Đông Á từ cuối thế kỷ XIX
– đầu thế kỷ XX) có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn:
Về mặt lý luận, việc nghiên cứu đề tài giúp ngƣời đọc hiểu rõ về cơ sở
hình thành và nội dung học thuyết sứ mệnh bành trƣớng ở cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX; về các biện pháp khác nhau mà giới cầm quyền Mỹ sử dụng để
bảo vệ lợi ích dân tộc; về những thành quả của chính sách đối ngoại mở rộng ảnh
hƣởng của Mỹ ở Đông Á. Qua đó, thấy rõ về con đƣờng vƣơn tới vị trí “bá chủ
thế giới” của quốc gia này trong thời đại ngày nay; về những tác động của việc
thực hiện chủ nghĩa bành trƣớng của chính giới Mỹ không chỉ đối với nƣớc Mỹ
mà còn với cả các quốc gia ở Đông Á là Nhật Bản và Trung Quốc
Về mặt thực tiễn, việc tìm hiểu đề tài giúp hiểu rõ : học thuyết sứ mệnh
bành trướng, một học thuyết có tác động sâu sắc đến những chính sách ngoại
giao giai đoạn sau này như học thuyết Monroe, chính sách “ngoại giao
dollars”... một công cụ mà giới cầm quyền Mỹ vận dụng để giải quyết mối quan
hệ quốc tế trong suốt thế kỉ XX và thập kỉ đầu tiên của thế kỉ XXI; đồng thời
thấy được tính thực dụng trong đường lối đối ngoại của quốc gia này, một đặc
điểm xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của nƣớc Mỹ từ khi lập quốc cho
đến thời đƣơng đại.
Lịch sử thế giới cận đại là một chƣơng quan trọng trong chƣơng trình lịch
sử lớp 10 trung học phổ thông. Vì vậy đề tài này có khả năng đóng góp trong
việc thực hiện những chức năng giáo dƣỡng, giáo dục tốt nhất cho thầy và trò ở
trƣờng trung học phổ thông sau này.
Trong bối cảnh hiện nay, Mỹ đã khẳng định đƣợc vai trò của mình ở khu
vực Châu Á – Thái Bình Dƣơng, là nhân tố quan trọng trong việc bình ổn an
ninh khu vực.Việc nghiên cứu về chủ nghĩa bành trƣớng của Mỹ ở Đông Á cuối
thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX tuy là những vấn đề của quá khứ, nhƣng nhƣ Paul
Kennedy đã nói “Cách tốt nhất để nhận thức được tương lai sắp đến là nhìn lại
một chút về quá khứ” [15, tr 118]
2
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc ta đang thực hiện “đa phương hóa, đa
dạng hóa” các mối quan hệ nhằm thực thi công cuộc đổi mới đất nƣớc. Với
phƣơng châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới”, đặc biệt là Mỹ, một đối tác quan trọng của Việt Nam trong thời điểm hiện
tại và cả tƣơng lai.Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu “Học thuyết sứ mệnh bành
trƣớng và quá trình thực thi của Mỹ ở khu vực Đông Á từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX” trong lịch sử là vấn đề hết sức cần thiết.
Vì vậy, tôi xin chọn đề tài Học thuyết “Sứ mệnh bành trướng” và quá
trình thực thi của Mỹ ở khu vực Đông Á (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX)
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
2.1. Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bƣớc tiến lớn
trong việc nghiên cứu chuyên ngành lịch sử thế giới, bằng một loạt các tác phẩm
sử học nổi tiếng đƣợc ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của việc dạy
và học lịch sử. Tuy nhiên do thời lƣợng của chƣơng trình quá ngắn mà lƣợng
kiến thức lịch sử lại không giới hạn lên các sự kiện lớn của lịch sử nhân loại chỉ
đƣợc trình bày ngắn gọn, xúc tích chƣa đi sâu đƣợc vào các sự kiện.Việc nghiên
cứu đó bƣớc đầu cho ra đời các công trình dƣới nhiều nhóm khác nhau, song tựu
trung gồm 3 nhóm cơ bản:
Nhóm thứ nhất: Trƣớc hết, phải kể đến các bộ giáo trình “Lịch sử thế giới
cận đại” và “Lịch sử quan hệ quốc tế, Tập 1” do Vũ Dƣơng Ninh chủ biên
(Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002 & 2005); “Lịch sử thế giới cận đại, Tập 1” do
Phan Ngọc Liên chủ biên (Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội, 2008). Ba công trình
này đề cập những vấn đề nhƣ sự phát triển kinh tế của Mỹ sau nội chiến, chế độ
chính trị và chính sách bành trƣớng của Mỹ từ cuối thế kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ
XIX là cơ sở giúp ngƣời đọc có cái nhìn tổng thể về vấn đề mà đề tài đặt
ra.Ngoài ra còn có giáo trình “Một số chuyên đề lịch sử thế giới” (tập II),do Vũ
Dƣơng Ninh – Nguyễn Văn Kim chủ biên (Nxb.Đại học Quốc gia, Hà Nội),2006
3
tác phẩm này là tổng hợp các bài viết đi từ vấn đề văn hóa, tôn giáo, kinh tế,
chính trị đến quan hệ quốc tế của hai khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Trên một phƣơng diện rộng hơn, chủ đề này còn đƣợc phản ánh trong một
số công trình mang tính tổng quát, nhƣ: “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ” của Đào
Duy Ngọc, Nguyễn Thái Yên Hƣơng, Bùi Thái Sơn (Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1994); “Lịch sử nước Mỹ” của Nguyễn Nghị, Lê Minh Đức, Nxb. Văn
hóa Thông tin, Hà Nội, 1994. Đây là những công trình nghiên cứu khái quát về
lịch sử, đất nƣớc , con ngƣời và đời sống đƣợc phản ánh trong đó đã cung cấp
những cơ sở quan trọng để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của
chính sách đối ngoại Mỹ.
Nhóm thứ hai: Những năm gần đây, xuất hiện trào lƣu nghiên cứu về nƣớc
Mỹ hết sức sôi nổi ở các Viện nghiên cứu và Trƣờng đại học trên cả nƣớc. Nét đáng
chú ý là các công trình đã đi sâu vào những khía cạnh cụ thể của nƣớc Mỹ, trong đó
chính sách đối ngoại không phải là ngoại lệ. Ở nhóm này có một số công trình, nhƣ:
“Nước Mỹ đặc điểm xã hội – văn hóa” của Nguyễn Thái Yên Hƣơng (Viện Văn
hóa và Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2005); “Hoa Kỳ văn hóa và chính sách
đối ngoại” của Nguyễn Thái Yên Hƣơng, Lê Mai Phƣơng (Nxb Thế giới, Hà Nội,
2008); “Hoa Kỳ tiến trình văn hóa chính trị” của Đỗ Lộc Diệp (Trung tâm Nghiên
cứu Bắc Mĩ,Trung tâm Khoa học xã hội Nhân văn Quốc gia, Nxb Khoa học Xã hội,
2006); “Học thuyết „Sứ mệnh bành trướng‟ và ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ” của Nguyễn Lan Hƣơng (Viện Nghiên cứu châu Mỹ, Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam, 2006), đã trình bày những yếu tố văn hóa và xã hội tác động đến
chính sách đối ngoại của Mỹ.
Nhóm thứ ba: Một mảng sử liệu quan trọng liên quan đến chính sách đối
ngoại của nƣớc Mỹ là các công trình dịch thuật. Trƣớc năm 1975 có: “Những tài
liệu căn bản về lịch sử Hoa Kỳ” của Richard B. Morris (Việt Nam khảo dịch xã,
Sài Gòn, 1969); “Lịch sử Hoa Kỳ” của Franck L. Schoell, (Việt Nam khảo dịch
xã, Sài Gòn, 1972). Các công trình này đã tập trung trình bày lịch sử phát triển
nƣớc Mĩ từ khi C. Columbus phát hiện ra châu Mĩ đến những năm 50 của thế kỷ
4
XX. Chính sách đối ngoại của Mĩ đối với các nƣớc Mỹ latinh cũng đƣợc phản
ánh ít nhiều.
Tiêu biểu nhất trong nhóm thứ ba là công trình là cuốn “Lịch sử Hoa Kỳ những vấn đề quá khứ” của Irwin Unger (Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2009)
phân tích sâu sắc các sự kiện chủ yếu trong lịch sử nƣớc Mỹ. Đây là cuốn sách đã
cung cấp nhiều tƣ liệu quý báu cho tác giả.
Cũng trong xu hƣớng trên, có một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã
bảo vệ thành công, đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến chính sách đối ngoại của
Mỹ đối với khu vực Đông Á thời cận đại.
Về luận văn Thạc sĩ có:“Chính sách đối ngoại của Mỹ từ 1898 đến 1918”
của tác giả Nguyễn Kế Thân, đã nêu bật chính sách đối ngoại của Mỹ đối với
khu vực Mỹ latinh, các cƣờng quốc châu Âu, các nƣớc châu Á – Thái Bình
Dƣơng từ sau chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha đến hết chiến tranh thế giới lần thứ
nhất. Tuy nhiên, luận văn tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của Mỹ trên
một phạm vi rộng lớn nên khu vực Đông Á chƣa tập trung nghiên cứu sâu.
Luận văn “Học thuyết Monroe và quá trình thực hiện tại Mỹ latinh từ năm
1823 đến năm 1918” của tác giả Nguyễn Thị Bích đã hệ thống một cách rõ nét
hơn toàn bộ chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ latinh và quá trình thực thi
học thuyết Monroe. Trong luận văn này, tác giả đã phân tích làm rõ hơn cơ sở
hình thành và nội dung chính sách đối ngoại của nƣớc Mỹ trong giai đoạn 18231918; các biện pháp khác nhau mà giới cầm quyền Mỹ sử dụng để bảo vệ lợi ích
dân tộc.
Về luận án tiến sĩ có:“Chính sách đối ngoại của Mĩ đối với Nhật Bản nửa
đầu thế kỉ XX” của Trần Thiện Thanh (Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2008), mặc dù nội dung chính của luận án là chính sách
của Mỹ đối với Nhật Bản trong nửa đầu thế kỉ XX, song nội dung luận án này đã
phân tích, lí giải nguyên nhân , mục đích, các yếu tố tác động, nội dung, kết quả
và đặc điểm cơ bản trong chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản trong nửa đầu thế
5
kỷ XIX. Là chỗ dựa rất quan trọng cho tác giả có thể hiểu thêm về chủ đề nghiên
cứu.
Luận án “Chính sách của Mỹ đối với các cường quốc châu Âu trong việc
mở rộng lãnh thổ (1787 - 1861)” của tác giả Lê Thành Nam, Hà Nội, 2011.Luận
án này là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống về
chính sách của Mỹ đối với các cƣờng quốc châu Âu trong việc mở rộng lãnh thổ
(1787 - 1861), góp phần hiểu sâu sắc hơn về chính sách đối ngoại của Mỹ thời cận
đại. Đã cung cấp những tƣ liệu quan trọng để ngƣời viết hiểu rõ hơn những cơ sở
để Mỹ đề ra Học thuyết “sứ mệnh bành trƣớng” trong chính sách đối ngoại của
mình vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Đặc biệt phải kể đến là luận án tiến sĩ “Quan hê Nhật Bản – Mỹ trên lĩnh
vực an ninh – chính trị (1874-1931)” của tác giả Hoàng Thị Hải Yến,Hà
Nội,2013. Luận án đã rút ra các đặc điểm và tác động của mối quan hệ Nhật –
Mỹ đối với bản thân hai chủ thể là Nhật và Mỹ cũng nhƣ tình hình chính trị và
xu thế quan hệ quốc tế ở châu Á – Thái Bình Dƣơng.Là chỗ dựa rất quan trọng
cho tác giả để nghiên cứu vấn đề mà đề tài đặt ra.
Bên cạnh luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, chủ đề còn đƣợc phản ánh rải
rác trong các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành nhƣ “Châu Mỹ ngày
nay”, “Nghiên cứu quốc tế”, “Nghiên cứu lịch sử”.
Nhiều công trình nghiên cứu của các học giả nƣớc ngoài đƣợc dịch sang
tiếng Việt nhƣ: “Bốn mươi hai đời Tổng thống Hoa Kỳ” của William A.
Degregori (Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 1995); “Khái quát về lịch
sử Hoa Kỳ” của Howard Cincotta (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000);
“Niên giám lịch sử Hoa Kỳ” của Arthur M. Schlesinger (Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2005); “Lịch sử Hoa Kỳ - những vấn đề quá khứ” của Irwin Unger
(Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2009).
6
2.2. So với Việt Nam, thì việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Mỹ ở
trên thế giới khá nhiều.Các trung tâm, các viện nghiên cứu và nhiều trƣờng đại
học đã thực hiện nhiều công trình liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ,
góp phần làm phong phú và đa dạng nguồn tƣ liệu về chủ đề này.
Có thể kể đến một số cuốn sách nhƣ American Foreign Relations
Reconsidered, 1890- 1993 (Xét lại quan hệ đối ngoại của Mỹ, 1890 - 1993),
NewYork, 1994 của Gordon Martel; "American Foreign Relations: A History
to 1920" (Quan hệ đối ngoại Mỹ- giai đoạn lịch sử đến năm 1920), Cengage
Learning, 2009 của Thomas G. Paterson, J. Garry Clifford, Shane J.
Maddock; "The history of American foreign policy from 1895" (Lịch sử chính
sách đối ngoại Mỹ từ 1895), M. E. Sharpe Inc, 2012, của Jerald A. Combs ;
"US Foreign policy in world history" (The New International History) (Chính
sách đối ngoại của Mỹ trong lịch sử thế giới ), Routledge, 2000, của David
Ryan
Các công trình này có ý nghĩa gợi mở để tác giả hình thành đề tài, đồng
thời là những tƣ liệu quý báu giúp tác giả thực hiện đề tài.
3. NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài khoá luận tìm hiểu về Học thuyết “Sứ mệnh bành trướng” và việc
thực thi của Mỹ ở khu vực Đông Á (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX)
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về phạm vi không gian: Tuy đề tài tìm hiểu ở khu vực Đông Á, song
trong phạm vi một khóa luận tác giả sẽ tập trung chủ yếu vào chính sách của Mỹ
ở Nhật Bản và Trung Quốc
+ Về phạm vi thời gian : trong khuôn khổ đề tài khoá luận này, tác giả tập
trung nghiên cứu về Học thuyết “Sứ mệnh bành trƣớng” và việc thực thi của Mỹ
ở khu vực Đông Á trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
7
Tuy nhiên, mốc thời gian này tuyệt nhiên không có nghĩa là sự phân định
máy móc, vì vậy đề tài đã mở rộng phạm vi thời gian về phía trƣớc hoặc đẩy dần
về phía sau khi cần thiết để làm rõ nội dung của khóa luận.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu sự ra đời và những nội dung chính của học thuyết “Sứ mệnh bành
trƣớng”
- Làm rõ vai trò, vị trí, mức độ ảnh hƣởng của Mỹ đối với khu vực Đông Á qua
việc thực thi học thuyết "sứ mệnh bành trƣớng".
- Dựng lại bức tranh tổng quát về sự thực thi học thuyết “sứ mệnh bành trƣớng”
của Mỹ ở khu vực Đông Á cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX thông qua việc đi
sâu, phân tích các sự kiện tiêu biểu.
- Đƣa ra những nhận xét , đánh giá về những tác động của quá trình thực thi “sứ
mệnh bành trƣớng” của Mỹ ở khu vực Đông Á (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX)
đối với nƣớc Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, tác giả đã sử dụng một số
phƣơng pháp
– Sƣu tầm, xử lý tài liệu.
– Phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp logic.
– Phƣơng pháp liên ngành: dân tộc học, văn học, địa lý…
Qua đó nhằm rút ra những đánh giá, kết luận cần thiết để nêu bật đƣợc
quá trình bành trƣớng của Mỹ ở khu vực Đông Á (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX) trên cơ sở học thuyết “sứ mệnh bành trƣớng”.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
-Về mặt lý luận đề tài khoá luận sẽ giúp chúng ta dựng lại một bức tranh
toàn cảnh về sự ra đời và quá trình thực thi học thuyết “sứ mệnh bành trướng”
của Mỹ ở khu vực Đông Á cụ thể với hai chủ thế là Nhật Bản và Trung Quốc
một cách khách quan và chân thực.
8
-Về mặt thực tiễn để lại bài học kinh nghiệm to lớn trong hoàn cảnh thế
giới hiện nay nói chung và hoàn cảnh khu vực châu Á Thái Bình Dƣơng nói
riêng, trƣớc sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng nhƣ việc Mỹ đã diều chỉnh chính
sách ngoại giao bằng việc xoay trục sang châu Á.
-Là nguồn cung cấp tƣ liệu và kiến thức phong phú, sâu sắc dành cho học
sinh, sinh viên, những ngƣời nghiên cứu và quan tâm đến vấn đề nghiên cứu.
7. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội
dung khóa luận đƣợc trình bày trong 2 chƣơng:
Chƣơng 1. Cơ sở hình thành và nội dung học thuyết “Sứ mệnh bành
trướng” trong lịch sử đối ngoại Mỹ
Chƣơng 2. Quá trình thực thi và tác động của học thuyết “Sứ mệnh bành
trướng” ở khu vực Đông Á (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX)
9
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG HỌC THUYẾT “SỨ
MỆNH BÀNH TRƢỚNG TRONG LỊCH SỬ NƢỚC MỸ
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT “SỨ MỆNH BÀNH TRƢỚNG”
1.1.1. Sự phát triển của nền kinh tế Mỹ và nhu cầu bành trƣớng ra bên
ngoài sau Nội chiến
Trƣớc hết, xét về lý thuyết, tiềm lực kinh tế đóng vai trò quyết định,
không thể thiếu trong việc xây dựng và bảo vệ quốc gia. Tiềm lực kinh tế là
nguồn quyền lực đặc biệt quan trọng và thiết yếu cho các nguồn nội lực khác.
Kinh tế vừa là năng lực và phƣơng tiện, vừa là nguồn gốc sức mạnh quốc gia
trong quan hệ quốc tế. Kinh tế phát triển không chỉ tạo điều kiện hạn chế sự phụ
thuộc vào bên ngoài mà còn đem lại cho quốc gia khả năng và sự chủ động trong
việc thực hiện lợi ích của mình trong quan hệ quốc tế. Tiềm lực kinh tế là yếu tố
nền tảng quy định sự hƣng thịnh và suy vong của các cƣờng quốc. Các quốc gia
có tiềm lực kinh tế lớn có thể sử dụng nhƣ những công cụ để đạt đƣợc quyền lực
quốc tế cao hơn.
Thực tế lịch sử cho thấy, từ sau Nội chiến đến cuối thế kỷ XIX, nền kinh tế
Mỹ đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc mà nhƣ V.I Lênin đã viết: “Hợp chủng
quốc Mỹ là nước không có đối thủ nào sánh kịp với bản thân nó cả về tốc độ phát
triển của chủ nghĩa tư bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cả về mức độ phát
triển hết sức cao mà nó đã đạt được” 1.Nhờ vậy mà Mỹ trở thành “ mẫu mực và lý
tưởng của nền văn minh tư sản”.
1
Lê Nin toàn tập , tập 27, trang 171
10
*Về công nghiệp
Tiền đề đầu tiên cho sự phát triển của công nghiệp Mỹ mà chúng ta phải
kể đến là những thuận lợi về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, chính sự
giàu có của nguồn tài nguyên đƣợc nhiều nhà công nghiệp Mĩ luôn tự hào nhƣ
“một cái bát khổng lồ đầy châu báu” [71, tr519].
Tiền đề thứ hai quan trọng không kém đó chính là đội ngũ công nhân có
tay nghề cao vô cùng dồi dào và đông đảo không chỉ của nƣớc Mỹ mà còn đến
từ các nƣớc châu Âu.
Tiền đề thứ ba một trong những tiền đề không kém hai tiền đề trên đó
chính sự phát triển của khoa học – kỹ thuật.
Trong 30 năm cuối thế kỷ XIX, Mỹ - từ một quốc gia phụ thuộc châu Âu
đã nhanh chóng trở thành một quốc gia công nghiệp đứng hàng đầu thế giới.
Năm 1860, Mỹ đứng thứ tƣ về sản xuất công nghiệp thì đến năm 1894 đã vƣợt
qua các nƣớc khác, sản xuất bằng một nửa sản lƣợng công nghiệp của các nƣớc
châu Âu cộng lại và gấp hai lần nƣớc Anh.
Không chỉ vậy, tốc độ tăng trƣởng cũng tăng vọt. Năm 1890, sản xuất
công nghiệp Mỹ tăng 6 lần so với 1860. Cũng năm này, giá trị sản lƣợng công
nghiệp Mỹ đạt 9498 triệu đô la, trong khi Anh mới đạt gần 4263 triệu USD, Đức
đạt 3357 triệu, Pháp đạt 2900 triệu USD.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp Mỹ (1860 – 1900)
Hạng mục
Năm 1860
Năm 1900
Tốc độ tăng
(tỷ lệ %)
Chiều dài đƣờng
49,3
320,2
Gần 650%
Than (nghìn tấn)
18,5
270,9
Gần 1465%
Gang (nghìn tấn)
0,8
13,8
172%
Thép (nghìn tấn)
-
10,2
-
sắt (nghìn km)
[65;261]
11
Sự phát triển cụ thể của các ngành công nghiệp chủ chốt của Mỹ nhƣ sau:
Công nghiệp dệt, trong nửa đầu thế kỷ XIX, phát triển với tốc độ nhanh
chóng. Năm 1805, công nghiệp dệt của Mỹ có 4500 ống suốt, đến trƣớc cuộc
“Chiến tranh li khai” đạt tới 5.200.000 ống suốt, tức là hơn 1.000 lần [65,tr.184].
Vùng New England trở thành trung tâm của ngành công nghiệp dệt, chiếm 2/3 xí
nghiệp sản xuất vải và len trên toàn nƣớc Mỹ.
Công nghiệp luyện kim và khai mỏ có sự tăng trƣởng vƣợt bậc.
Sản xuất thép vào cuối năm 1880 đã phát triển thành một lĩnh vực kinh
doanh khổng lồ.Trùm sản xuất thép là Andrew Carnegie với nguồn lợi nhuận
khổng lồ 40 triệu USD/năm. Từ năm 1850 đến năm 1860, sản lƣợng gang thép
từ 600.000 tấn lên tới 988.000 tấn.Sản lƣợng Anratxit khai thác tăng dần từ 2000
tấn lên 10.984.000 tấn trong thời gian 1815-1860 [20, tr 309] .Tổng công ty thép
Liên bang Mỹ, là một trong những tổng công ty “triệu đô la” đầu tiên trên thế
giới.
Cùng với sự phát triển của công nghiệp sắt thép phải kể đến công nghiệp
dầu lửa. Trên các quả đồi của vùng Pennsylvania, ngƣời ta đã tìm thấy một chất
màu đen dính (mà sau này gọi là dầu lửa-được khai thác từ lòng đất), đây là một
trong những khám phá đem lại cho ngành công nghiệp này hàng triệu đô la.
Những cuộc thăm dò dầu tại Ohio và phía Tây Virginia sau đó đã làm cho ngành
công nghiệp dầu lửa bùng nổ và lan rộng. Năm 1870, Rockerfeller thiết lập Công
ty Standard Oil tại Ohio và thống trị lĩnh vực dầu lửa tại đây. Xây dựng đế chế
của John D. Rockerfeller
Sản lƣợng lọc dầu của Mỹ cũng tăng đáng kể từ 1 triệu thùng vào năm
1886 đến 1896 tăng lên 20 triệu thùng. Với sản lƣợng lớn nhƣ vậy, Mỹ đã từng
bƣớc thống trị công nghiệp dầu lửa thế giới và đến thế kỷ XX, Mỹ thực sự trở
thành một đế chế dầu lửa.
Ngành công nghiệp đường sắt cũng đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng.
Năm 1860, nƣớc Mỹ có 30,000 dặm (48,270 km) đƣờng sắt thì đến năm
1865 tăng lên 35,000 dặm; 93,000 dặm vào năm 1880 và 166,000 dặm năm 1890
12
[20, tr 567]. Phân bố chủ yếu ở khu vực Tây – Bắc và phía Đông lãnh thổ, nối
vùng đồng bằng lƣu vực sông Mississipi với bờ Đại Tây Dƣơng.
Vào khoảng năm 1880, các công ty vận chuyển đƣờng sắt bắt đầu sử
dụng đƣờng ray làm bằng thép. Việc sử dụng đƣờng ray làm bằng thép vừa cho
thấy sự phát triển đồng thời là lực đẩy cho ngành sản xuất thép của Mỹ. Các hệ
thống xe lửa cũng hỗ trợ cho những lĩnh vực khác phát triển nhƣ ngành sản xuất
gỗ và than cũng cấp cho ngành đƣờng sắt nguyên liệu, tạo công ăn việc làm cho
hàng nghìn ngƣời dân.
Công nghiệp chế tạo máy đã trở thành một ngành đóng vai trò then chốt
trong công nghiệp. Năm 1817 xuất hiện nhà máy chế tạo máy hơi nƣớc.
Nếu nhƣ vào đầu thế kỷ XIX, thế mạnh của nền công nghiệp của Mỹ là
công nghiệp nhẹ thì sau nội chiến công nghiệp chế tạo phát triển nhanh chóng.
Theo thống kê từ những năm 1860 đến 19890 có 36.000 bằng phát minh sáng
chế đã đƣợc cấp; trong 30 năm tiếp theo có 440.000 bằng phát minh sáng chế
đƣợc cấp và vào 25 năm đầu tiên của thế kỷ XX thì số bằng phát minh sáng chế
đƣợc cấp lên tới con số xấp xỉ một triệu. Đặc biệt là những phát minh mới của
Alexander Graham Bell ( phát minh ra điện thoại) và Thomas A. Edison ( phát
minh ra bóng đèn)
Trong 30 năm cuối thế kỷ XIX, Mỹ - từ một quốc gia phụ thuộc châu Âu
đã nhanh chóng trở thành một quốc gia công nghiệp đứng hàng đầu thế giới.
Năm 1860, Mỹ đứng thứ tƣ về sản xuất công nghiệp thì đến năm 1894 đã vƣợt
qua các nƣớc khác, sản xuất bằng một nửa sản lƣợng công nghiệp của các nƣớc
châu Âu cộng lại và gấp hai lần nƣớc Anh [21;59]
13
Bảng 2: Tỷ trọng sản xuất công nghiệp của các nước trong cơ cấu công
nghiệp thế giới (đơn vị %)
Năm
Mỹ
Anh
Pháp
Đức
Nga
Nhật
Các nước
Bản
khác
1870
23
32
10
13
4
18
1881 –
29
27
9
14
3
18
30
20
7
17
5
1885
1896 –
1
20
1900
[62;350]
Không chỉ vậy, tốc độ tăng trƣởng cũng tăng vọt. Năm 1890, sản xuất
công nghiệp Mỹ tăng 6 lần so với 1860. Cũng năm này, giá trị sản lƣợng công
nghiệp Mỹ đạt 9498 triệu đô la, trong khi Anh mới đạt gần 4263 triệu USD, Đức
đạt 3357 triệu, Pháp đạt 2900 triệu USD.
Tuy nhiên, sự phát triển công nghiệp Mỹ nửa cuối thế kỷ XIX cũng xuất
hiện không ít những mặt hạn chế. Nhƣ sự tập trung không đồng đều của các
trung tâm công nghiệp. Các trung tâm công nghiệp thời kỳ này chủ yếu tập trung
ở miền Đông Bắc với hơn 85% sản lƣợng công nghiệp vào năm 1890. Trong khi
đó, miền Tây trở thành nơi cung cấp nguyên liệu thô, miền Nam những ngành
công nghiệp nhƣ khai thác quặng, dệt may và thuốc lá vẫn là lĩnh vực kinh tế
chính, mặc dù đang trong thời kỳ tái thiết sau chiến tranh. Năm 1890, giá trị sản
xuất công nghiệp của toàn miền Nam bằng khoảng một nửa bang New York.
Không những vậy nền công nghiệp Mỹ thƣờng xuyên gặp phải khủng hoảng mà
nhƣng đợt khủng hoảng kinh tế 1873 – 1879, 1882 – 1886, 1890 và 1900 – 1903
là những nhân chứng rõ nét. Cuộc sống của những ngƣời công nhân Mỹ là vô
cùng cực khổ thất nghiệp, đói khổ và thu nhập thấp theo tính toán năm 1896, một
nửa thu nhập quốc dân nằm trong 1% cƣ dân.
14
* Về nông nghiệp
Đặc điểm nổi bật của kinh tế nông nghiệp Mỹ là sự phát triển theo“con
đường kiểu Mỹ” nhƣ Lênin đã nhận xét.
Từ năm 1860 đến năm 1910, số lƣợng trang trại Mỹ tăng lên gấp 3 từ 2
triệu lên 6 triệu. Diện tích canh tác cũng tăng gấp đôi từ 160 triệu lên 320 triệu
hécta. Từ năm 1860 đến 1890, sản lƣợng nông nghiệp nhƣ lúa mì, ngô, bông
vƣợt xa những con số trƣớc đây.Năm 1880, sản phẩm nông nghiệp Mỹ chiếm
84,3% tổng sản phẩm của nƣớc này xuất khẩu ra nƣớc ngoài. Mỹ trở thành một
trong những quốc gia cung cấp lƣơng thực và thực phẩm hàng đầu thế giới.
Một vấn đề luôn đƣợc dặt ra trong nền kinh tế Mỹ giai đoạn này là “thị
trường nội địa dường như không đủ khả năng tiếp nhận mức sản xuất tăng lên
của các ngành công nghiệp mới”[24, 61]. Giải pháp đặt ra đối với Mỹ lúc này là
phải tiến hành tìm kiếm mạnh mẽ thị trƣờng nƣớc ngoài
Lựa chọn của Mỹ là tán dƣơng quan điểm nước Mỹ có nhiệm vụ “thiết lập
sự kiểm soát đối với toàn bộ thế giới”, đặc biệt là vùng Nam Mỹ và khu vực châu
Á - Thái Bình Dƣơng. Sự đột nhập vào Triều Tiên (1866, 1867, 1871), xâm chiếm
quần đảo Hawaii (1893), giành lấy Philippines (1898) là một loạt những hành
động cho thấy tham vọng, quyết tâm theo đuổi quyền lực của Mỹ ở phƣơng Đông.
Thực lực ngày càng mạnh và tham vọng ngày càng lớn đã trở thành một mục tiêu
thúc đẩy Mỹ thực hiện mƣu đồ chính trị của mình ở Trung Quốc và Nhật Bản hai
nƣớc ở bờ bên kia Thái Bình Dƣơng.
1.1.2 Những biến đổi về xã hội và quá trình “Tây tiến” của Mỹ ở thế kỷ XIX
Một nhân tố nữa đóng góp vào nỗ lực của Mỹ trong việc hoạch định chính
sách nhằm tìm kiếm quyền lực quốc tế và trở thành một nƣớc đế quốc chủ nghĩa
vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đó là nhân tố tâm lý – xã hội
Mỹ. Nhân tố này mặc dù khó chứng minh một cách thuyết phục, song không thể
không nhắc tới.
Thập niên 1880 – 1890 là thời kỳ xã hội Mỹ có nhiều biến động dữ dội
bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp trầm trọng, chiến tranh cƣớp
15
đất ngƣời da đỏ, nạn phân biệt chủng tộc, phong trào đấu tranh của quần chúng
nhân dân lao động…Cho đến cuối thế kỷ XIX, Mỹ vẫn chƣa có bộ luật lao động
nào. Giờ làm việc của ngƣời lao động kéo dài đến 14 tiếng. Đợt khủng hoảng
kinh tế trong những năm 1873 - 1880 đã khiến 20.000 xí nghiệp đóng cửa, số
lƣợng công nhân dệt bị giảm xuống 45% [21;383].
Vào các năm 1893 - 1896, lại tiếp tục diễn ra các cuộc khủng hoảng kinh
tế - xã hội khiến con số thất nghiệp trong độ tuổi lao động tăng lên từ 4% năm
1892 đến 9,6% năm 1893 và gần 16,7% năm 1894. Những cuộc khủng hoảng
kinh tế thừa nhƣ trên đã đẩy quần chúng nhân dân vào tình cảnh bi thảm. Sau các
cuộc bãi công của công nhân đƣờng sắt ở 17 tiểu bang, nổ ra vào tháng 7 / 1877
bị dìm trong biển máu, ngày 1/5/1886, công nhân trên khắp nƣớc Mỹ đã đồng
loạt tổng bãi công, khoảng 400.000 ngƣời tham gia. Tối ngày 4/5/1886, tại
Chicago đã xảy ra cuộc thảm sát của cảnh sát đối với hàng ngàn công nhân đang
tham gia biểu tình. Tháng 7/1894, lại nổ ra cuộc bãi công của 16.000 thợ mỏ,
làm tê liệt tuyết đƣờng sắt chính phía Bắc. Từng đoàn ngƣời thất nghiệp kéo đến
Washington, bao vây Cục lao động Liên bang (AFL).
Ngoài các cuộc đấu tranh của quần chúng lao động, vấn đề dân nhập cƣ
cũng đem lại nhiều sức ép cho chính quyền Mỹ. Do châu Âu xảy ra nhiều biến
động (chủ yếu là chiến tranh) nên có nhiều ngƣời di cƣ sang nƣớc Mỹ ngày càng
tăng theo dòng thời gian. Luật hợp đồng lao động (Contract Labor Law) đƣợc
Quốc hội Mỹ thông qua năm 1864 cho phép tuyển dụng nhân lực từ châu Âu đến
Mỹ đã tạo tiền đề cho dòng dân nhập cƣ vào quốc gia này. Theo thống kê, cứ
mỗi chu kỳ 5 năm, con số ngƣời nhập cƣ lại tăng đáng kể.
16
Bảng 2: Số lượng người châu Âu nhập cư vào nước Mỹ theo chu kỳ 5 năm
từ năm 1821 đến năm 1840
Thời gian
Số lƣợng ngƣời
1821 – 1825
41.000
1826 – 1830
103.000
1831 – 1835
253.000
1836 – 1840
347.000
[41, tr.37]
Từ năm 1870 đến năm 1910, ngƣời ta thống kê khoảng 20 triệu dân nhập
cƣ vào Mỹ, chủ yếu từ Đông Âu, Đức, Anh, Nga, Trung Quốc. Riêng thập niên
1880, có khoảng 5 triệu ngƣời đến Mỹ, 900.000 ngƣời đến Canada. Đây là
những ngƣời trốn chạy cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra ở châu Âu lúc đó.
Vào năm 1830, cứ 15 ngƣời Mỹ thì có một ngƣời sống tại các cộng đồng
có từ 8.000 cƣ dân trở lên; vào năm 1860 tỷ lệ này đã tăng lên một trên sáu
ngƣời và vào năm 1890 thì tỷ lệ này là ba trên mƣời. Vào năm 1860 chƣa có
thành phố nào có số dân đạt một triệu ngƣời; nhƣng 30 năm sau thì dân số New
York là 1,5 triệu; thành phố Chicago bang Illinois và thành phố Philadelphia
bang Pennsylvania có dân số hơn một triệu ngƣời. Trong ba thập niên này thì
dân số của Philadelphia và Baltimore bang Maryland tăng gấp đôi; dân số thành
phố Kansas bang Missouri và Detroit bang Michigan tăng gấp bốn lần;
Cleveland bang Ohio tăng sáu lần và Chicago tăng mƣời lần.
Số lƣợng ngƣời nhập cƣ ngày càng nhiều khiến cho không gian sinh tồn
của cƣ dân Mỹ ở các tiểu bang miền Đông trở nên chật chội, cuộc sống ngột ngạt.
Đặc biệt, số lƣợng lƣơng thực đáp ứng cho nhân khẩu tăng lên không còn dồi
dào nhƣ trƣớc, trong khi đó dân nhập cƣ làm giá lao động rẻ đi, tƣớc đoạt bớt cơ
hội việc làm của dân bản xứ, nạn thất nghiệp diễn ra trầm trọng. Một làn sóng kỳ
thị chủng tộc dâng lên ở nhiều bang của Mỹ.
Thời kỳ cuối thập niên 1890, chính phủ Mỹ cũng hoàn thành việc chiếm
đoạt đất đai của ngƣời da đỏ. Suốt từ thập niên 1860, chính phủ đã tiến hành
17
nhiều cuộc chiến tranh cƣớp đất ở Missouri, Arkansas, Oklahoma. Sự phân biệt
đối xử và thô bạo đối với dân da đen và ngƣời da đỏ đã đƣợc ông Geogre F.Hoar
viết: “Vấn đề dân da đỏ..không phải là dạy người đỏ như thế nào để họ không
đối xử mọi rợ với người da trắng mà là người da trắng phải ít mọi rợ hơn trong
cách đối xử với người da đỏ.. Vấn đề người da đen sẽ được giải quyết khi giáo
dục của người da trắng được hoàn hảo” (Theo Beisner, Robert L. Twelve
Againts Empire, New York, 1968, p160).
Cuộc khủng hoảng xã hội toàn diện trên đây đã đặt ra nhu cầu bức cho
Nhà Trắng là cần phải giảm bớt sự phản kháng của quần chúng. Nhiều trào lƣu
tƣ tƣởng cải cách xã hội xuất hiện nhằm giải quyết tình trạng trên. Chẳng hạn,
phong trào đấu tranh đòi xóa bỏ chế độ nô lệ, các cuộc đấu tranh của công nhân
chống lại sự bóc lột hà khắc của giới chủ tƣ bản, phong trào của những phần tử
xã hội chủ nghĩa không tƣởng, phong trào cải cách yêu cầu phân phối đất đai
quốc hữu miền Tây. Tuy nhiên dƣờng nhƣ chủ nghĩa dân túy, tranh chấp lao
động, và sự phát triển của thuyết cấp tiến đang dần dần hủy hoại đất nƣớc.
Nguyên nhân của những tai ách này là gì và họ phải làm sao để khắc phục?
Đứng trƣớc tình thế đó, chính giới Mỹ tìm cách bành trƣớng ra bên ngoài,
trƣớc hết là mở rộng lãnh thổ sang phía tây, sau đó là thiết lập vùng ảnh hƣởng
bên ngoài lãnh thổ để vừa đáp ứng nhu cầu thị trƣờng, đồng thời xoa dịu sự căng
thẳng trong xã hội nƣớc Mỹ lúc bấy giờ.
Trong khi đó, nhìn vào lịch sử phát triển của Hoa Kỳ từ khi giành độc lập
đến cuối thế kỷ XIX, ta dễ dàng có thể thấy, sự phát triển kinh tế Mỹ đi đôi với
quá trình mở mang lãnh thổ. Từ 13 bang thuộc địa nhỏ bé ban đầu, trải qua quá
trình “Tây tiến”, đến thời điểm cuối thế kỷ XIX khi miền biên giới phía Tây của
Mỹ đã giáp bờ Thái Bình Dƣơng, lãnh thổ của Mỹ đã đƣợc định hình nhƣ ngày
nay, nhất là sau khi Mỹ mua đƣợc Alaska của Nga vào năm 1867, đồng nghĩa với
việc chính thức kết thúc vấn đề mở rộng biên giới trong phạm vi Bắc Mỹ. Đến lúc
này dƣờng nhƣ nƣớc Mỹ đã không còn đất trống. Ý tƣởng này đƣợc diễn đạt qua
nhiều cách khác nhau song ấn tƣợng và hiệu quả nhất là luận đề biên giới của sử
18
gia Frederick Jackson Turner. Theo ông, “biên giới của đất nước đã dừng lại. Hầu
như từ ba thế kỷ nay, phương Tây đã dự phòng một lối thoát ngầm cho những bất
mãn xã hội và khuyến khích chế độ dân chủ. Giờ đã đến lúc thực hiện và một
trang quan trọng trong lịch sử nước Mỹ đã được lật sang” [20;726].
Nhƣ vậy, đến đầu thế kỷ XX, đối với một xã hội mà lâu nay vẫn coi việc
mở rộng biên giới nhƣ một “cái van an toàn” cho mọi sự bất đồng nhƣ Hoa Kỳ
thì việc chấm dứt mở rộng biên giới tiềm ẩn nhiều vấn đề đáng lo ngại trong
tiến trình phát triển của nƣớc Mỹ. Hội chứng tâm lý – xã hội đó đã thúc đẩy Mỹ
tiến hành chính sách đối ngoại quyết đoán hơn và mang tính đế quốc chủ nghĩa
hơn. Cecil Rhodes, một nhà tƣ tƣởng chủ nghĩa lớn ngƣời Anh đã từng khuyên
ngƣời Mỹ rằng: “nếu bạn muốn tránh khỏi một cuộc nội chiến thì bạn phải trở
thành đế quốc”.
Tƣ tƣởng này đã thuyết phục đƣợc giới cầm quyền nƣớc này rằng: đã đến
lúc giới cầm quyền nước này cần phải tìm một vai trò lớn hơn trong quan hệ
quốc tế. Vai trò mà người Mỹ muốn đạt đến đó là sự chi phối của người Mỹ
không chỉ trong khu vực Bắc Mỹ mà là toàn châu Mỹ, và sau đó là các khu vực
khác như châu Á và các vùng phụ cận.
Xuất phát từ tham vọng trên, nƣớc Mỹ đã đẩy nhanh việc can dự vào công
việc quốc tế, từng bƣớc vƣơn tới khẳng định quyền lực thế giới của mình nhƣ
một thực thể chính yếu mà các cƣờng quốc khác không thể không tính tới trong
bàn cờ quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
1.1.3 Tầm quan trọng của Đông Á trong chiến lƣợc phát triển của Mỹ
Đông Á là khu vực đối diện với Mỹ ở bên kia bờ Thái Bình Dƣơng. Nơi
giàu có về tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản, đây không chỉ là vùng lãnh thổ
giàu có với tiềm năng kinh tế, mà còn giữ vị trí cầu nối trong hệ thống giao
thƣơng giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây, là cửa ngõ quan trọng để xâm nhập
vào châu Á.
Khu vực có tổng diện tích là 11.641.000 km2 bao gồm 4 nƣớc là Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên và một phần lãnh thổ Đài Loan. Chỉ với
19
diện tích nhỏ bé nhƣ vậy nhƣng dân số Đông Á nhiều hơn các châu lục lớn khác
nhƣ châu Phi, châu Âu, châu Mỹ rơi vào khoảng 1.7 tỷ ngƣời (40% châu Á)
bằng ¼ dân số thế giới. Mật độ dân số của Đông Á là 230 ngƣời / km2 gấp 5 lần
mật độ trung bình của thế giới.
Đông Á là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Từ xa
xƣa, ở đây đã sớm hình thành những trung tâm văn minh lớn tiêu biểu nhất đó là
văn minh Trung Hoa – đỉnh cao của văn minh cổ đại phƣơng Đông.
Sở dĩ Đông Á trở thành đối tƣợng tranh chấp của nhiều nƣớc thực dân ,
sau này là đế quốc Mỹ là bởi đây là khu vực có vị thế địa – chính trị vô cùng
quan trọng, đồng thời rất giàu tiềm năng phát triển.
*Về vị trí địa lý : Ngay sau khi Mỹ thành công trong việc bành trƣớng về
phía Tây,biến Mỹ latinh trở thành “sân sau” của mình thì Mỹ đã bắt đầu nhòm
ngó sang phía bên kia bờ Thái Bình Dƣơng nơi là con đƣờng giao thông huyết
mạch nối liền Tây Âu với phƣơng Đông, nơi có nguồn tài nguyên , nguyên liệu,
gia vị hết sức phong phú và giàu có, là cửa ngõ duy nhất để Mỹ có thể đặt chân
sang khu vực châu Á.
* Về mặt kinh tế : Trƣớc hết, Mỹ sớm nhận thấy khu vực Đông Á có
nguồn tài nguyên phong phú, cung cấp nguồn nguyên liệu quan trọng cho nền
công nghiệp Mỹ. Có thể thấy, Đông Á là vùng đất rất đông dân, đất đai màu mỡ,
chủ yếu nằm ở khu vực ôn đới, mùa đông lạnh và mùa hè ấm áp, mƣa nhiều vào
mùa hè nên thuận lợi cho việc trồng trọt, có thể canh tác 2 đến 3 chu kì mỗi năm.
Khu vực này còn có những đồng cỏ xanh tốt thuận lợi cho chăn nuôi, những khu
rừng rậm đầy gỗ quý. Gạo và ngũ cốc rất phát triển ở Đông Á, đặc biệt là phát
triển nền nông nghiệp trồng lúa nƣớc.
Số lƣợng và trữ lƣợng khoáng sản ở Đông Á rất đa dạng. Hầu hết các
nƣớc đều có mỏ dầu lửa. Trung Quốc là nƣớc sản xuất nhôm, vàng, thiếc, và
than đá lớn nhất thế giới. Khối lƣợng quặng mangan, chì, kẽm, đồng và thiếc
ƣớc chừng hàng chục tỉ tấn. Ngoài ra, còn có nhiều kim loại quý và các khoáng
sản hiếm khác nhƣ vàng, bạc, bạch kim.
20
Với nguồn tài nguyên thiên nhiên nhƣ vậy, các nƣớc Đông Á có thể trở
thành nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu vô cùng quan trọng cho Mỹ.
Ở Đông Á, chỉ có Nhật Bản là nƣớc thiếu hầu hết các nguồn tài nguyên
thiên nhiên cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế công nghiệp phát triển,những nguồn
lực này phải đƣợc nhập khẩu từ bên ngoài vào ,dân số đông và thƣờng xuyên
phải hứng chịu thiên tai (động đất , núi lửa) nên Nhật Bản trở thành nơi tiêu thụ
hàng hóa công nghiệp rất lớn của Mỹ.
Với diện tích lớn và dân số khá đông, Đông Á là thị trƣờng tiêu thụ đầy
tiềm năng cho các sản phẩm công nghiệp của Mỹ.
Do đó, lợi dụng sự thuận lợi về mặt địa lý, và dân số đông, Mỹ mong
muốn tiến hành các chính sách can thiệp bằng kinh tế và quân sự nhằm biến
Đông Á thành nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho mình và là thị trƣờng
xuất khẩu lớn của Mỹ
* Về mặt chính trị - quân sự : Không chỉ có tầm quan trọng về mặt kinh
tế, khu vực Đông Á còn có ý nghĩa chính trị, quân sự quan trọng. Xét về phƣơng
diện chiến lƣợc, thâu tóm Đông Á là một phần nằm trong ý đồ khuyếch trƣơng
ảnh hƣởng của chủ nghĩa đế quốc Mỹ ra toàn thế giới. Đông Á là nơi có phạm vi
ảnh hƣởng về kinh tế, chính trị quan trọng của toàn bộ khu vực châu Á (đặc biệt
là hai chủ thế Nhật Bản và Trung Quốc). Nếu thâu tóm đƣợc Đông Á, đƣơng
nhiên Mỹ có thể khẳng định vị trí của mình trên toàn bộ lục địa châu Á.
Đồng thời, với vị trí chiến lƣợc nằm đối diện với nƣớc Mỹ ở bên kia Thái
Bình Dƣơng. Ngoài ra, với vị trí chiến lƣợc của Đông Á, Mỹ có thể đặt ở đây rất
nhiều căn cứ quân sự. Các eo biển và việc giao thông đƣờng biển rất thuận tiện
cho sự phát triển hải quân Mỹ. Nếu Mỹ thiết lập đƣợc các hạm đội và căn cứ
quân sự ở Trung Quốc và Nhật Bản , thì có thể dựa vào đó làm bàn đạp khống
chế toàn bộ châu Á và bành trƣớng ra toàn thế giới.
Nhƣ vậy, ngay sau khi hoàn thành quá trình “Tây tiến”, bành trƣớng thành
công ở khu vực Mỹ latinh, thì Đông Á đóng một vai trò quan trọng trong chiến
lƣợc tiếp theo của Mỹ. Điều này không chỉ do những nhân tố khách quan chi
21