Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LỊCH sử ĐẢNG ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo THỰC HIỆN kế HOẠCH 5 năm lần THỨ NHẤT ở MIỀN bắc 1961 1965

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.03 KB, 103 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1. Ban Chấp hành Trung ương:

BCHTƯ

2. Chủ nghĩa tư bản:

CNTB

3. Chủ nghĩa xã hội:

CNXH

4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá:

CNH, HĐH

5. Chính trị Quốc gia:

CTQG

6. Diễn biến hoà bình:

DBHB

7. Đảng Cộng sản Việt Nam:



ĐCSVN

8. Đại hội đại biểu toàn quốc:

ĐHĐBTQ

9. Hội nghị Trung ương:

HNTƯ

10. Nhà xuất bản:

Nxb

11. Quân đội nhân dân.

QĐND

12. Tư bản chủ nghĩa:

TBCN

13. Trang:

Tr.

14. Xã hội chủ nghĩa:

XHCN


MỤC LỤC
Trang

Chữ viết tắt

3

MỞ ĐẦU

4


2
Chương 1

ĐẢNG XÁC ĐỊNH VÀ CHỈ ĐẠO THỰC

10

HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT
(1961 – 1965)
1.1. Miền Bắc sau những năm khôi phục và phát triển

10

kinh tế – xã hội Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
1.2. Đảng chỉ đạo thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
Chương 2


THÀNH

TỰU,

KHUYẾT

ĐIỂM

31



46

2.1. Những thành tựu, khuyết điểm về thực hiện Kế

46

NHỮNG KINH NGHIỆM
hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 – 1965
2.2. Một số kinh nghiệm về lãnh đạo thực hiện Kế

62

hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 – 1965
KẾT LUẬN

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


83

PHỤ LỤC

87

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1961 đến năm 1965 thời kỳ này cách mạng Việt Nam có những
thuận lợi cơ bản đồng thời phải đối mặt với những thách thức, khó khăn lớn.
Trong nước, sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7 năm 1954), đất nước ta
tạm thời chia làm 2 miền. Miền Nam tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân để tiến tới thống nhất nước nhà; miền Bắc bước vào thời kỳ quá


3
độ lên CNXH trong điều kiện còn nhiều khó khăn phức tạp như: cơ sở vật chất
thiếu thốn, chưa có kinh nghiệm xây dựng CNXH, trình độ dân trí chưa cao…
Tình hình thế giới cũng có những thay đổi to lớn, đặc biệt là sự lớn
mạnh của hệ thống XHCN, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh, đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Song công cuộc XHCN ở các nước
lúc đó bên cạnh những thành tựu đạt được cũng đã xuất hiện sự trì trệ, yếu
kém. Trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế đã xuất hiện sự bất đồng.
Những khó khăn đã tác động mạnh đối với cách mạng Việt Nam nói chung,
và cách mạng XHCN ở miền Bắc nói riêng.
Ở miền Nam đế quốc Mỹ đang tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt, gây
cho cách mạng nhiều khó khăn và đe doạ đến hoà bình ở miền Bắc.

Vượt lên những khó khăn, thử thách, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc
từng bước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, phương hướng của kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất 1961 – 1965. Với thắng lợi bước đầu đã làm tăng thêm niềm tin của
nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.
Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đang trên đà phát triển mạnh,
để cứu vãn thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, ngày 5 tháng 8
năm 1964 đế quốc Mỹ ngang nhiên tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối
với miền Bắc Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
kiên định mục tiêu lãnh đạo nhân dân miền Bắc tiếp tục xây dựng CNXH
trong điều kiện có chiến tranh. Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc dưới
sự lãnh đạo của Đảng không những đứng vững, phát triển mà còn đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ và
để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý.


4
Thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc 1961 – 1965 là thời kỳ lịch sử đặc
biệt được nhiều người trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, tổng kết và
rút ra bài học kinh nghiệm để làm sáng tỏ tính đúng đắn sáng tạo trong quá
trình lãnh đạo của Đảng.
Đặc biệt trong tình hình hiện nay, công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc
và CNXH do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã giành
được thành tựu to lớn, quan trọng tạo thế và lực mới đưa nước ta bước vào
thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Song con đường đi lên CNXH ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cả
về lý luận và thực tiễn cần được giải đáp. Chính vì vậy việc nghiên cứu sự
lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1961 – 1965 là nhằm tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận và rút kinh nghiệm quí giá, giúp cho Đảng ta có cơ sở để đề ra
đường lối, chủ trương và chỉ đạo thực tiễn có hiệu quả cao.
Tác giả chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện kế

hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc 1961 – 1965” làm luận văn thạc sĩ
lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, với hy vọng thông
qua việc tái hiện những sự kiện lịch sử, những quan điểm chỉ đạo của Đảng
sẽ góp phần làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo tài tình của Đảng, đồng thời giúp
Đảng ta có thêm kinh nghiệm tiếp tục chỉ đạo sự nghiệp đổi mới đạt kết quả
cao trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cách mạng XHCN ở nước ta được tiến hành trên miền Bắc thời kỳ
1961 – 1965 là một thời kỳ đặc biệt. Để làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng ở
thời điểm lịch sử đó đã có nhiều nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa
học, tập thể khoa học đã nghiên cứu vấn đề này dưới các hình thức khác nhau
như chuyên đề, chuyên luận, tác phẩm, đề tài khoa học, cụ thể là:


5
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (1963), Nghị
quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ năm (7/1961) về vấn đề phát triển
nông nghiệp trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965), Nxb Sự thật,
Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (1963), Nghị
quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ tám về kế hoạch phát triển kinh tế
quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965), Nxb Sự thật Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (1965), Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ mười về thương nghiệp và giá cả, Nxb Sự
thật Hà Nội Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 21, Nxb
CTQG, Hà Nội.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 23 Nxb
CTQG, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 24, Nxb
CTQG, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 25, Nxb
CTQG, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1964) “Báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt”, Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội 2002, tr.220 – 235.
Nguyễn Duy Trinh; Miền Bắc 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội; Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội 1976.


6
Trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc – Khoa lịch sử Đảng; Lịch
Đảng Cộng sản Việt Nam tập III; Nhà xuất bản sách giáo khoa Mác-Lênin,
Hà Nội 1986.
Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam; Hậu phương chiến
tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975); Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
Hà Nội 1997.
PGS, PTS Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên); Góp phần tìm hiểu Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998.
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. Nhưng chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu độc lập, có tính hệ thống về Đảng lãnh đạo thực
hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc 1961 – 1965, nhất là dưới góc
độ lịch sử Đảng.
Những công trình, chuyên luận, chuyên khảo trên là những tài liệu quý, tác
giả có thể tham khảo, phát triển trong quá trình xây dựng luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích:
Nhằm hệ thống lại quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc 1961 – 1965. Qua
đó khẳng định vai trò, bản lĩnh chính trị, tinh thần độc lập, tự chủ và sáng
tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
CNXH ở miền Bắc thời kỳ 1961 – 1965. Rút ra kinh nghiệm quý báu làm
cơ sở vận dụng vào thực hiện Kế hoạch 2001 – 2005 của Đảng, Nhà nước
hiện nay.


7
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm cho
công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc nước ta giành thắng lợi trong mọi
hoàn cảnh.
Nhiệm vụ:
Phân tích làm rõ đường lối, chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc 1961 – 1965 của Đảng.
Khẳng định những thành tựu đã đạt được, những nhược điểm, yếu
kém còn tồn tại, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình
lãnh đạo thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc 1961 –
1965 của Đảng.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Nguồn tư liệu:
Luận văn sử dụng các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin,
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng có liên quan đến đề tài.
Các sách, báo của các tác giả trong nước, các báo cáo tổng kết, các số
liệu thống kê, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, các luận án tiến sĩ
khoa học lịch sử có liên quan đến đề tài.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số sách báo của các tác giả nước ngoài

viết về Việt Nam thời kỳ 1961 – 1965 để tham khảo.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cách
mạng XHCN và xây dựng CNXH.


8
Luận văn sử dụng và kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử và phương
pháp lôgíc. Đồng thời sử dụng các phương pháp chuyên ngành như: Phương
pháp phân kỳ, lịch đại, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh và khảo sát thực
tiễn.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng giới
hạn trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở
miền Bắc 1961 – 1965.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn sẽ góp phần vào việc khẳng định tính đúng đắn sáng tạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đề ra kế hoạch và chỉ đạo thực hiện Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc 1961 – 1965.
- Luận văn chứng minh rõ: Khi Đảng đề ra đường lối đúng đắn sáng tạo,
hợp lòng dân, Đảng biết phát động phong trào cách mạng sôi nổi, biết tập hợp,
đoàn kết dân tộc thực hiện đường lối, kế hoạch của Đảng thì các chỉ tiêu trong
kế hoạch đều được thực hiện tốt, sự nghiệp cách mạng giành thắng lợi.
- Kết quả đạt được của luận văn cũng góp phần vào đấu tranh chống
những luận điệu sai trái, cơ hội phủ nhận những thành tựu to lớn có ý nghĩa
quan trọng mà Đảng lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền
Bắc 1961 – 1965.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, gồm 2 chương (4 tiết), kết luận, danh

mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


9

Chương 1
ĐẢNG XÁC ĐỊNH VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM
LẦN THỨ NHẤT (1961 – 1965)

1.1. Miền Bắc sau những năm khôi phục và phát triển kinh tế, xã
hội – Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
1.1.1. Tình hình miền Bắc sau những năm khôi phục và phát triển
kinh tế, xã hội
Những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới tác động đến cách mạng
nước ta.
Hệ thống XHCN thế giới do Liên Xô đứng đầu đã lớn mạnh vượt bậc,
trở thành nhân tố quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng thế giới.


10
Vào những năm thập niên 60, hệ thống XHCN thế giới gồm 12 nước với
1000 triệu người, chiếm hơn một phần ba dân số thế giới và gần một phần tư đất
đai toàn thế giới. Lực lượng của phe XHCN về nhiều mặt đã hơn hẳn lực lượng
của CNĐQ, và trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của tình hình thế giới.
Về chính trị, chính sách trước sau như một của Liên Xô, Trung Quốc
và các nước XHCN kiên quyết đấu tranh để duy trì và củng cố hoà bình,
thực hiện chung sống hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị, xã hội
khác nhau. Các nước XHCN ủng hộ phong trào độc lập dân tộc chống chủ
nghĩa thực dân, giúp đỡ vô tư về kinh tế, kỹ thuật cho các nước chậm tiến
mau củng cố nền độc lập chính trị của mình, đồng thời đồng tình và ủng hộ

mọi phong trào dân chủ và hoà bình ở các nước TBCN. Do đó uy tín chính
trị của các nước XHCN được nâng lên cao trong nhân dân lao động và loài
người yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới. Hệ thống XHCN do
Liên Xô đứng đầu là trụ cột bảo vệ hoà bình thế giới và độc lập dân tộc, là
chỗ dựa vững chắc của phong trào trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc và các lực lượng hiếu chiến.
Hệ thống XHCN thế giới có cơ sở kinh tế mạnh. Năng lực và tốc độ phát
triển kinh tế của các nước XHCN đã vượt rất xa tốc độ của các nước TBCN.
Theo số liệu thống kê từ năm 1950 đến năm 1959 sản lượng phát điện của
các nước XHCN tăng 200%, còn các nước TBCN tăng 97%; sản lượng dầu
lửa của các nước XHCN tăng 120%; còn các nước TBCN chỉ tăng 74%. Tỷ
trọng kinh tế XHCN trong kinh tế thế giới ngày càng lớn. Về công nghiệp,
các nước XHCN đã chiếm tới hơn một phần ba tổng sản lượng công nghiệp
toàn thế giới. Còn trên lĩnh vực nông nghiệp, sản lượng lương thực của các
nước XHCN chiếm 48% tổng sản lượng lương thực toàn thế giới.


11
Năm 1959 Đảng cộng sản Liên Xô đã lãnh đạo nhân dân hoàn thành
vượt mức những nhiệm vụ của năm đầu của Kế hoạch 7 năm xây dựng chủ
nghĩa cộng sản mà Đại hội lần thứ XXI đề ra.
Trung Quốc đã hoàn thành thắng lợi trong hai năm những chỉ tiêu chủ
yếu của Kế hoạch 5 năm lần thứ hai.
Các nước XHCN khác cũng đang giành được những thành tựu vĩ đại.
Tiệp khắc đã căn bản hoàn thành công cuộc xây dựng CNXH và đang tích
cực chuẩn bị để tiến dần từng bước lên chủ nghĩa cộng sản. Các nước Ba
Lan, Ru Ma Ni, Hung Ga Ri đang ra sức phấn đấu để trong khoảng 10 năm
tới có thể đuổi kịp hoặc vượt về mặt kinh tế các nước TBCN phát triển ở
châu Âu.
Về khoa học kỹ thuật, những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong việc

phóng vệ tinh, phóng tên lửa lên khoảng không vũ trụ và những tên lửa cực
mạnh xuống Thái Bình Dương, Liên Xô đã hoàn thành việc phóng con tàu vũ
trụ mang theo sinh vật và đưa đón trở về quả đất một cách an toàn, đã chứng
tỏ ưu thế rõ rệt của Liên Xô và hệ thống XHCN. Những thành tựu của Liên
Xô về khoa học và kỹ thuật đã làm tăng thêm uy tín của các nước XHCN trên
trường quốc tế, mặt khác thành tựu đó còn tạo thêm những phương tiện mới
cho nhân dân thế giới trong sự nghiệp bảo vệ và củng cố hoà bình, chống lại
những âm mưu đen tối của CNĐQ.
Lực lượng so sánh trên thế giới đã có sự biến đổi một cách căn bản, ưu
thế thuộc về các lực lượng XHCN, độc lập dân tộc và yêu chuộng hoà bình
trên thế giới. Tình hình đó đã tạo ra khả năng thực tế để ngăn ngừa chiến
tranh thế giới.
Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ với bản chất hiếu chiến,
xâm lược, ngoan cố, tiếp tục duy trì chính sách xâm lược bằng những thủ


12
đoạn thâm độc. Chúng ra sức tăng cường lực lượng quân sự, chạy đua vũ
trang, đẩy mạnh việc phục hồi chủ nghĩa quân phiệt, củng cố duy trì “chiến
tranh lạnh”. Đế quốc Mỹ đã cho máy bay U-2 và máy bay RB-47 bay vào
lãnh thổ Liên Xô để do thám quân sự, việc làm ấy đã vạch trần bộ mặt hiếu
chiến của đế quốc Mỹ.
Các thế lực gây chiến do đế quốc Mỹ cầm đầu đang tìm mọi cách
duy trì tình trạng căng thẳng ở châu Á hòng thực hiện âm mưu xâm lược
của chúng. Đặc biệt ở Đông Nam Á, chúng ra sức xây dựng và tăng
cường các căn cứ quân sự, củng cố khối quân sự xâm lược ở Đông Nam
Á, đẩy mạnh việc chạy đua vũ trang. Tình hình đó đòi hỏi nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới và nhân dân Việt Nam cần phải không
ngừng nâng cao cảnh giác, nỗ lực hơn nữa trong công cuộc đấu tranh bảo
vệ củng cố và hoà bình.

Cùng với sự phá hoại của các thế lực thù địch, trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế xuất hiện sự bất đồng ngày càng nghiêm trọng trên
nhiều vấn đề chiến lược và sách lược, cũng như về phương pháp đấu tranh
chống CNĐQ trên phạm vi quốc tế.
Sự bất hoà và chia rẽ trong phong trào cộng sản quốc tế gây trở ngại lớn
cho việc đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và CNXH. Đồng thời, đây cũng là
một trong những nhân tố lớn tác động đến quá trình xây dựng CNXH ở miền
Bắc, thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
- Tình hình trong nước của những năm đầu thập kỷ sáu mươi.
Miền Bắc đi lên CNXH từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiến
thẳng lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN. Đây là đặc điểm lớn


13
nhất tác động, chi phối tới quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc và thực
hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nhỏ cá thể nhưng nhờ
có những năm đầu hồi phục phát triển kinh tế 1954 – 1960 nên những thành tựu
trong khôi phục và cải tạo XHCN đã khiến cho nền kinh tế miền Bắc đã có phát
triển, làm cho bộ mặt miền Bắc có sự thay đổi lớn. Miền Bắc quá độ lên CNXH,
không qua giai đoạn phát triển TBCN là phù hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Con đường từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN, một mặt tránh được cho nhân dân
ta những đau khổ mà CNTB phát triển sẽ mang lại, nhưng mặt khác, lại làm cho
nhân dân ta gặp rất nhiều khó khăn trên con đường tiến lên. Đúng như Lênin
nói, một nước lạc hậu tiến lên CNXH thì có “vô vàn khó khăn không thể lường
trước được” khó khăn trước hết là về kinh tế.
Theo Mác, CNXH ra đời trước tiên ở những nước công nghiệp phát

triển, tức là ở những nước đã trải qua giai đoạn TBCN. Lênin cho rằng
CNXH là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí do CNTB sản sinh ra.
Nhưng miền Bắc nước ta đi lên CNXH chưa qua CNTB phát triển. Cơ sở
vật chất – kỹ thuật do chủ nghĩa thực dân để lại không đáng kể. Cơ cấu sản
xuất thì manh mún, phân tán. Công nghiệp mới phôi thai, nông nghiệp và
thủ công nghiệp có tính phân tán chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế
quốc dân. Ruộng đất bình quân tính theo đầu người chỉ có 3 sào bắc bộ,
tức là trên dưới một phần mười hét ta, số lao động dư thừa ở nông thôn
miền đồng bằng quá đông. Nhìn chung trình độ văn hoá của nhân dân còn
thấp, lực lượng kỹ thuật do chế độ cũ để lại không đáng kể, nhất là về cán
bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Trải qua nhiều năm chiến tranh, kinh
tế miền Bắc lại bị tàn phá nặng nề, tuy đã được khôi phục, cải tạo song


14
năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân, lao động còn thiếu thốn về
nhiều mặt.
Bên cạnh đó, những tư tưởng, thói quen cách nghĩ, cách làm của những
người sản xuất nhỏ còn nặng nề trong cán bộ và nhân dân. Thói quen của
người sản xuất nhỏ đã ảnh hưởng đến năng lực quản lý xí nghiệp, quản lý sự
nghiệp của chúng ta.
Tình hình trên gây nhiều khó khăn cho miền Bắc khi bước vào thời kỳ
quá độ, thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Cùng với những khó khăn,
miền Bắc cũng có nhiều thuận lợi cơ bản: Đảng có đường lối đúng; có khối
liên minh công nông vững chắc; chính quyền dân chủ nhân dân đã được củng
cố vững mạnh; nhân dân lao động cần cù và sáng tạo; tiềm năng đất nước còn
lớn, đặc biệt tài nguyên thiên nhiên phong phú. Đồng thời, qua khôi phục và
cải tạo, miền Bắc đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Từ một
nền kinh tế nhiều thành phần trở thành nền kinh tế mới với hai hình thức sở
hữu chủ yếu là nhà nước và tập thể.

Trong nông nghiệp, tính đến tháng 6 năm 1961, 85% nông hộ đã vào
hợp tác xã với hơn 67% diện tích canh tác trong đó có 24% nông hộ trong
hợp tác xã bậc cao. Công cuộc hợp tác hoá nghề cá, nghề muối ở miền biển
cùng với cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, phát triển sản xuất, kết hợp
cải cách dân chủ ở miền núi đã căn bản hoà thành.
Công thương nghiệp tư bản tư doanh, thiểu thủ công nghiệp và thương
nghiệp nhỏ cũng đã được tiến hành cải tạo. Nhà nước đã đưa được phần lớn
vốn từ các cơ sở tư bản tư doanh vào công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác và
các hợp tác xã với tổng số trên 25 triệu đồng vốn và nhiều máy móc, thiết bị
quan trọng; 2760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp được thành lập, trong đó có
521 hợp tác xã bậc cao, thu hút hơn 200.000 thợ thủ công.


15
Kinh tế quốc doanh không ngừng được mở rộng, nông nghiệp và công
nghiệp phát triển với tốc độ nhanh. Trong 3 năm (1958 – 1960) giá trị sản
lượng nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,4%, giá trị sản lượng công
nghiệp tăng 22,6%. Những cơ sở đầu tiên của nhiều ngành công nghiệp dần
dần xuất hiện.
Giáo dục, văn hoá, khoa học kỹ thuật, y tế, thể dục thể thao cũng được
đẩy mạnh.
Nhà nước dân chủ nhân dân không ngừng được tăng cường, trật tự trị an
xã hội được giữ vững, công tác quốc phòng được củng cố.
Với những thành tựu trên, bộ mặt xã hội và chính trị miền Bắc thay đổi.
Năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng và Nhà nước được nâng lên.
Miền Bắc đi lên CNXH trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia làm
hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, miền Bắc tiến hành công cuộc
xây dựng CNXH, miền Nam đang dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai. Nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đang tiến hành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Đế quốc Mỹ đã biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng,
đang tích cực dùng miền Nam làm căn cứ quân sự để phá hoại công cuộc xây
dựng CNXH ở miền Bắc và chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược trong cả
nước. Sự nghiệp cách mạng XHCN ở miền Bắc cần phải được thúc đẩy mạnh
mẽ để mau chóng tạo ra một cuộc sống mới cho nhân dân miền Bắc làm cho
miền Bắc phát huy đầy đủ tính hơn hẳn của nó so với miền Nam, đồng thời
để biến miền Bắc thành cơ sở vững chắc, là hậu phương lớn cung cấp sức
người, sức của cho cách mạng miền Nam.
Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng CNXH, thực hiện Kế hoạch 5
năm lần thứ nhất trong điều kiện hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu đã có


16
sự phát triển mạnh, hơn hẳn CNĐQ; quan hệ hợp tác và phân công quốc tế
trong phe XHCN đã được xây dựng và phát triển. Đó là thuận lợi căn bản cho
công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng CNXH ở miền Bắc, bảo đảm cho miền
Bắc có thể bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN mà tiến thẳng lên CNXH.
Như vậy, tình hình thế giới và trong nước của những năm đầu thập kỷ sáu
mươi vừa có thuận lợi, vừa có khó khăn, đan xen tác động tới cách mạng
XHCN ở miền Bắc và việc thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 – 1965.
1.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ, chủ trương và phương hướng của kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 – 1965
- Mục tiêu của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:
Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong cải tạo và phát triển kinh tế,
phát triển văn hoá xã hội, đồng thời căn cứ vào đường lối chung do Đại hội
toàn quốc lần thứ III của Đảng đã thông qua; Đảng đã xác định Kế hoạch 5
năm lần thứ nhất 1961 – 1965 nhằm mục tiêu.
“Phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và hoàn thành
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến

mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [16, 931].
Mục tiêu của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 – 1965 do Đại hội III
của Đảng xác định, phù hợp với lý luận Mác-Lênin và thực tiễn cuộc cách
mạng miền Bắc. Mặc dù miền Bắc đã qua thời kỳ phục hồi và phát triển
kinh tế của những năm cải tạo XHCN (1958 – 1960) nhưng cái thiếu thốn
nhất của miền Bắc là cơ sở vật chất – kỹ thuật. Đồng thời do nhu cầu đòi
hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN. Đảng ta cho rằng phấn đấu xây
dựng bước đầu cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, thực hiện một bước
công nghiệp hoá, XHCN là mục tiêu quan trọng, đòi hỏi Đảng, Nhà nước


17
và nhân dân ta phải phấn đấu liên tục, vượt qua mọi khó khăn thử thách
mới thực hiện được.
Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Bắc vừa là mục tiêu vừa là
nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp
xây dựng CNXH, tiếp tục thực hiện mục tiêu đó góp phần đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH.
Đi lên CNXH là mục tiêu, lý tưởng, là nguyện vọng thiết tha của Đảng
và nhân dân ta. Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN mới xoá bỏ tận gốc sự
áp bức bóc lột, nhân dân lao động mới có điều kiện để xây dựng CNXH.
Miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH mới thể hiện
rõ tính ưu việt của CNXH, miền Bắc mới trụ vững và phát triển, đồng thời là
hậu phương lớn cung cấp sức người, sức của cho cách mạng miền Nam và
làm tròn nhiệm vụ quốc tế.
- Nhiệm vụ cơ bản trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Những nhiệm vụ cơ bản trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 – 1965
là:
Một là, ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một
bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển

nông nghiệp toàn diện, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực
phẩm, tích cực phát triển giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc
doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để tiến lên biến nước ta
thành một nước công nghiệp và nông nghiệp XHCN.
Hai là, hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa;
củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, tăng cường mối quan


18
hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Ba là, nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân đẩy mạnh công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao
năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động; đẩy
mạnh công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh thăm dò tài nguyên tự
nhiên và điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn
hoá xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân
dân lao động, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ,
có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây
dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
Năm là, đi đôi và kết hợp với phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc
phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Năm nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất liên hệ mật thiết
với nhau, thể hiện yêu cầu phát triển toàn diện nhưng có trọng tâm và trọng
điểm. Phát triển với nhịp độ nhanh, theo tỷ lệ của nền kinh tế và văn hoá
XHCN ở miền Bắc trong thời gian Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhằm củng
cố miền Bắc thành cơ sở ngày càng vững chắc của cách mạng cả nước trong
cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

Căn cứ vào đường lối chung, đường lối xây dựng CNXH ở miền Bắc do
Đại hội Đảng III xác định, và tình hình miền Bắc sau khi hoàn thành Kế
hoạch 3 năm (1958 – 1960) về cải tạo XHCN Đại hội Đảng lần thứ III xác
định tiêu chí cụ thể là:
Về công nghiệp và thủ công nghiệp: Đến năm 1965 giá trị tổng sản
lượng công nghiệp và thủ công nghiệp có thể tăng 1,5 lần so với năm 1960,


19
bình quân hàng năm tăng khoảng 20%, trong đó nhóm A tăng 25,8%, nhóm
B tăng 16%. Về các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh do Trung ương quản
lý, dự định có thể tăng 199% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng
24,5%. Về công nghiệp quốc doanh địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa.
Về nông nghiệp: giá trị tổng sản lượng năm 1965 có thể tăng khoảng
61% so với dự tính thực hiện kế hoạch năm 1960, bình quân hàng năm tăng
khoảng 10%.
Theo dự tính đã đề ra, đến năm 1965, trong giá trị tổng sản lượng công
nghiệp và nông nghiệp, tỷ trọng của công nghiệp và thủ công nghệp sẽ chiếm
51%, nông nghiệp sẽ chiếm 49%.
Về tỷ trọng của các thành phần kinh tế, dự tính trong giá trị tổng sản
lượng công nghiệp và thủ công nghiệp, năm 1965, công nghiệp quốc doanh
có thể chiếm 68,9%, các xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác
chiếm 5,3%, thủ công nghiệp hợp tác hoá chiếm 17,7%. Trong tổng giá trị
sản lượng nông nghiệp, các nông trường quốc doanh sẽ tăng giá trị sản lượng
lên gấp hơn 10 lần, chiếm khoảng 5,8%, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
chiếm khoảng 86,2%, sản xuất cá thể còn khoảng 8%.
Về xây dựng cơ bản kinh tế và văn hoá, dự định trong Kế hoạch 5
năm, Nhà nước sẽ đầu tư 5.100 triệu đồng, chiếm khoảng 48% ngân sách
chi. Trong Kế hoạch 5 năm, phải xây dựng cơ bản có tính chất sản xuất,
tập trung khả năng về vốn, vật tư và thi công, xây dựng kịp thời các công

trình trọng điểm về công nghiệp, nông nghiệp, giao thông có tác dụng lớn
thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển với nhịp độ nhanh. Đồng thời, cần
phải đẩy mạnh xây dựng cơ bản phục vụ việc đào tạo cán bộ và công nhân
lành nghề, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật; coi trọng đúng mức việc xây


20
dựng các công trình văn hoá và công trình phúc lợi để nâng cao đời sống
của nhân dân.
Vấn đề tăng năng suất và hạ giá thành: Dự định bình quân hàng năm,
năng suất của ngành công nghiệp quốc doanh sẽ tăng khoảng 9%, ngành xây
dựng cơ bản sẽ tăng 6%.
Về giáo dục và đào tạo cán bộ: Dự kiến tổng số học sinh phổ năm 1965
sẽ tăng gấp đôi so với năm 1960; số học sinh chuyên nghiệp trung cấp sẽ là
85.000 người, tăng thêm hơn 1,5 lần; số sinh viên đại học sẽ là 40.000 người,
tăng thêm 2 lần. Trong 5 năm, sẽ có thêm gần 25.000 cán bộ tốt nghiệp đại
học và gần 10 vạn cán bộ tốt nghiệp chuyên nghiệp trung cấp. Trên cơ sở sản
xuất phát triển, đời sống của nhân dân sẽ được cải thiện thêm một bước. Dự
tính trung bình thu nhập thực tế của công nhân, nông dân năm 1965 có thể
tăng 30% so với năm 1960.
- Những chủ trương lớn của Đảng chỉ đạo thực hiện Kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất.
Một là: Xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH và ra
sức hoàn thành cải tạo XHCN.
Sau khi thực hiện kế hoạch cải tạo và xây dựng 3 năm (1958 – 1960)
giành thắng lợi, tình hình mới đòi hỏi trong thời gian kế hoạch 5 năm, cần
phải xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH để phát triển
sức sản xuất và để tăng cường quan hệ sản xuất XHCN; mặt khác cần phải
làm xong việc đưa quần chúng lao động vào hợp tác xã, chuyển hợp tác xã
bậc thấp lên bậc cao. Cần kết hợp chặt chẽ việc xây dựng bước đầu cơ sở vật

chất và kỹ thuật của CNXH với việc hoàn thành cải tạo XHCN. Trong hai
nhiệm vụ ấy, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất của CNXH là khâu quyết
định nhất để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng XHCN tiến lên hoàn thành cải


21
tạo XHCN là khâu rất quan trọng. Cho nên Đảng, Nhà nước đã chuyển trọng
tâm vào xây dựng CNXH, thực hiện một bước công nghiệp hoá XHCN, xây
dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH, và phải chú trọng đầy
đủ hoàn thành tốt công cuộc cải tạo XHCN.
Hai là: Song song phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một
bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển
nông nghiệp toàn diện và công nghiệp nhẹ.
Do yêu cầu chuyển trọng tâm của nhiệm vụ chính trị vào việc xây dựng
CNXH và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất mở đầu cho một thời kỳ phát triển
mới, có ý nghĩa quyết định của cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc. Chuyển
trọng tâm vào việc xây dựng CNXH thực hiện một bước công nghiệp hoá
XHCN thì phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, làm cho công nghiệp giữ
vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chúng ta phấn đấu nhằm thực hiện
một bước việc phát triển ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra
sức phát triển nông nghiệp toàn diện và phát triển công nghiệp nhẹ. Ba bộ
phận ấy – công nghiệp nặng, nông nghiệp và công nghiệp nhẹ quan hệ mật
thiết với nhau cùng tác động thúc đẩy nhau phát triển với nhịp độ nhanh và
theo tỷ lệ cân đối.
Ba là: Tiến dần lên phân bố hợp lý sức sản xuất.
Phân bố hợp lý sản xuất trong nền kinh tế quốc dân là một chủ trương
quan trọng, có ý nghĩa đối với năng suất và hiệu quả sản xuất. Trong quá
trình thực hiện đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý
đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đảng, Nhà nước

cần có chủ trương, biện pháp cụ thể để điều chỉnh sức sản xuất giữa công
nghiệp và nông nghiệp, giữa công nông nghiệp và giao thông vận tải. Đồng


22
thời phân bố hợp lý sức sản xuất giữa miền xuôi và miền núi, mở mang các
vùng kinh tế, thực hiện từng bước có kế hoạch sự phân công và phối hợp
giữa các vùng, ngành kinh tế.
Bốn là: Đề cao tinh thần cần kiệm xây dựng Tổ quốc, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.
Cần kiệm xây dựng Tổ quốc là quan điểm nhất quán của Đảng ta thể
hiện bản lĩnh của Đảng và truyền thống của dân tộc ta. Miền Bắc bước vào
xây dựng CNXH trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, đời
sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, trong khi đó nhu cầu phát triển lớn,
vốn xây dựng cơ bản, phát triển sản xuất rất cao. Nếu chúng ta để lãng phí, sử
dụng không phù hợp, không đề cao tinh thần cần kiệm sẽ ảnh hưởng đến phát
triển sản xuất, thực hiện kế hoạch và đời sống của nhân dân. Cùng với cần
kiệm xây dựng đất nước, cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ
và tiêu dùng. Giải quyết hài hoà mối quan hệ đó sẽ thúc đẩy sản xuất phát
triển. Trong khi chúng ta chưa có vốn để mở mang sản xuất, đầu tư xây dựng
cơ bản mà đề cao, coi trọng tiêu dùng sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất.
Ngược lại, nếu chỉ tập trung cho tích luỹ để phát triển sản xuất, coi nhẹ tiêu
dùng của nhân dân sẽ triệt tiêu động lực. Do đó, cần phải giải quyết đúng đắn
giữa tích lũy và tiêu dùng trong phát triển sản xuất, xây dựng cơ bản, phân
phối thu nhập của nhân dân. Bảo đảm cho các mặt cùng hỗ trợ, thúc đẩy lẫn
nhau đưa sự nghiệp xây dựng CNXH phát triển tiến lên.
Năm là: Tăng cường sự hợp tác kinh tế với các nước trong phe XHCN.
Hợp tác kinh tế với các nước trong phe XHCN là một nhu cầu đòi hỏi
khách quan để phát triển đất nước. Đóng cửa khép kín là nguy cơ dẫn đến tụt
hậu. Đặc biệt đối với miền Bắc nước ta khi bước vào xây dựng CNXH với

nền nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn nghèo nàn thiếu thốn.


23
Sự hợp tác và giúp đỡ của các nước XHCN anh em là điều kiện quan trọng,
một yếu tố cơ bản, bảo đảm cho miền Bắc thực hiện thắng lợi công cuộc xây
dựng CNXH và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất chúng ta tiếp tục nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước
anh em khác trong việc xây dựng các công trình trọng điểm về trị thuỷ và
điện lực, luyện gang thép, chế tạo cơ khí, sản xuất phân bón, sản xuất một số
vật liệu xây dựng, xây dựng một số cơ sở công nghiệp nhẹ, mở rộng nông
trường quốc doanh và mở rộng đường sắt… Bên cạnh đó chúng ta cần phối
hợp chặt chẽ với các nước anh em trong quan hệ giao dịch với các nước
TBCN để đấu tranh có lợi về mặt ngoại thương và về mặt chính trị.
Như vậy, những chủ trương nêu trên là một trong những cơ sở quan
trọng để Đảng và Nhà nước xác định phương hướng phát triển kinh tế – xã
hội. Đồng thời là cơ sở để các ngành, các cấp quán triệt, tổ chức thực hiện
bảo đảm đúng hướng tránh được sai sót trong quá trình chỉ đạo.
- Phương hướng phát triển các ngành kinh tế và văn hoá trong Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Dựa vào mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Đảng, Nhà nước ta đã xác định phương hướng phát triển các ngành kinh tế và
văn hoá trong những năm 1961 – 1965 là:
Phát triển công nghiệp: Trong Kế hoạch 5 năm cần tập trung xây dựng
một bước cơ sở vật chất và kỹ thuật cho một nền công nghiệp hiện đại
XHCN theo đường lối phát triển ưu tiên công nghiệp nặng một cách hợp lý,
đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Để thực hiện chủ trương đó,
phương hướng phát triển các ngành công nghiệp là.
Điện lực: cần phát triển thuỷ điện kết hợp với phát triển nhiệt điện,
nhằm giảm giá thành xây dựng và giá thành phát điện, điều hoà việc cung cấp



24
điện phục vụ kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế trong Kế hoạch 5 năm và
chuẩn bị một phần cho kế hoạch sau.
Trong những năm 1961 – 1963, cần nghiên cứu mọi biện pháp để giảm
nhẹ tình hình căng thẳng về cung cấp điện.
Luyện kim: Nhiệm vụ chủ yếu về công nghiệp luyện kim là cố gắng
cung cấp phần lớn nhu cầu về gang, thép thông thường cho xây dựng cơ bản
và một phần cho việc chế tạo cơ khí. Cần xây dựng khu gang thép Thái
Nguyên với công suất là 200.000 tấn. Về luyện kim không có chất sắt, cần
xúc tiến việc khai thác và sản xuất chì, kẽm, luyện nhôm…
Chế tạo cơ khí: Trong Kế hoạch 5 năm ngành chế tạo cơ khí có nhiệm vụ:
Sản xuất một số loại máy móc công cụ chính xác cấp II trở xuống, một
số loại thiết bị phối hợp đi theo với thiết bị toàn bộ.
Sản xuất các loại công cụ cải tiến, một số máy móc nông nghiệp loại
nhỏ, các loại máy móc giản đơn để phục vụ nông nghiệp và công nghiệp
địa phương.
Bảo đảm sửa chữa lớn và sản xuất một số loại phụ tùng, dụng cụ cho các
ngành công nghiệp, vận tải, xây dựng cơ bản.
Sau khi nêu lên những nhiệm vụ của ngành chế tạo cơ khí, Đảng
nhấn mạnh: vấn đề quan trọng bậc nhất là phải gấp rút thống nhất và tăng
cường quản lý ngành cơ khí phân công sản xuất hợp lý giữa các cơ sở
quốc doanh và công tư hợp doanh, giữa các cơ sở của trung ương và các
cơ sở địa phương để tận dụng khả năng hiện có và sử dụng tốt các cơ sở
sẽ xây dựng thêm.


25
Than: Cần thoả mãn đầy đủ nhu cầu trong nước về các loại than không

khói, đồng thời tăng thêm mức xuất khẩu. Khai thác hướng chính vẫn là Hòn
Gai, Cẩm Phả.
Vật liệu xây dựng: cần thống nhất quản lý ngành vật liệu xây dựng, cố
gắng đẩy mạnh sản xuất và khai thác để thoả mãn nhu cầu về xây dựng cơ
bản, tăng thêm các cơ sở sản xuất gạch máy, ngói máy, gạch chịu lửa.
Hoá chất và phân bón: Nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất phân bón và
thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, đồng thời sản xuất một số hoá chất cơ
bản, một số loại nguyên liệu hoá chất. Cần xây dựng nhà máy phân đạm
phục vụ cho nông nghiệp.
Ngoài những ngành nêu trên kế hoạch còn nêu lên những nhiệm vụ và
phương hướng phát triển của các ngành như: khai thác gỗ và chế biến gỗ; dệt,
may mặc và da; công nghiệp thực phẩm và các ngành công nghiệp nhẹ khác.
Phát triển nông nghiệp: Trong Kế hoạch 5 năm Đảng và Nhà nước ta
chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải tạo và phát triển nông nghiệp, tập trung sức
hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển nông
trường quốc doanh, tạo cơ sở thuận lợi để phát triển nông nghiệp toàn diện,
mạnh mẽ và vững chắc theo con đường XHCN.
Nhiệm vụ trọng tâm về sản xuất nông nghiệp là giải quyết tốt vấn đề
lương thực, đồng thời ra sức phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi, ngư
nghiệp, lâm nghiệp.
Thực hiện nhiệm vụ trung tâm, phương hướng phát triển các ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp trong Kế hoạch 5 năm là:
Lương thực: Mục tiêu phấn đấu là tiến tới bảo đảm cho nông dân ăn no,
bảo đảm cung cấp lương thực cho các vùng, phi nông nghiệp, đồng thời có


×