Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận thiết kế đô thị trong những khu vực đặc thù

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.41 MB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC

BÀI TẬP MÔN :
THIẾT KẾ ĐÔ THỊ TRONG CÁC KHU VỰC ĐẶC THÙ

Hà Nội, tháng 10/2012

1


Đề bài luận kết thúc môn học
THIẾT KẾ ĐÔ THỊ TRONG CÁC KHU VỰC ĐẶC THÙ
1. Phân tích cơ sở lý luận Xã hội của thiết kế đô thị.
2. Bạn hãy chọn một KGCC mà mình yêu thích, phân tích không gian đó dưới góc
nhìn xã hội, để làm nổi rõ mối liên hệ giữa không gian và xã hội trong sự hình
thành nên ý nghĩa của không gian.
BÀI LÀM
Câu 1 :
Có nhiều cách định nghĩa về Thiết kế đô thị (TKĐT) dựa theo những khía cạnh khác
nhau nhưng tất cả đều không thể phủ nhận : TKĐT là nghệ thuật thuật kiến tạo không
gian đô thị .Đó là một quá trình hợp tác đa ngành của việc tạo dáng cho các không gian
sống trong đô thị liên quan đến việc thiết kế các công trình , nhóm công trình , không
gian và cảnh quan làng xóm ,thị trấn và thành phố . TKĐT cũng liên quan đến việc thiết
lập các khung chiến lược , quá trình đảm bảo cho việc xúc tiến thành công các dự án phát
triển đô thị .
Đây là hoạt động cầu nối giữa chuyên ngành kiến trúc và quy hoạch nhằm bổ sung và
hỗ trợ nhau nhằm tạo nên những không gian đô thị có chất lượng phục vụ tốt hơn đời
sống của con người . TKĐT được nghiên cứu dựa trên sáu cơ sở lý luận :
+ Cơ sở lý luận hình thái
+ Cơ sở lý luận thị giác


+ Cơ sở lý luận cảm thụ
+ Cơ sở lý luận chức năng
+ Cơ sở lý luận xã hội
+ Cơ sở lý luận thời gian
Thiết kế đô thị là một quá trình phức tạp với nhiều nhân tố liên quan , bị chi phối chặt
chẽ bởi các bối cảnh thực tiễn , lấy không gian công cộng làm đối tượng nghiên cứu
chính và lấy con người làm trung tâm nên việc nghiên cứu TKĐT không thể tách rời với
việc nghiên cứu xã hội.Nó phải gắn liền với việc tìm hiểu toàn bộ bối cảnh thực thể , kinh
tế , chính trị , văn hóa và truyền thống , tập quán ,thành phần cư dân ..vv…của địa bàn ,
như vậy mới tạo nên được một không gian sống ưu việt , nhân văn và có sức sống lâu dài
với cộng đồng .
Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, công nghiệp hoá và quá trình đô thị hoá mạnh mẽ đã
làm nảy sinh vô số những vấn đề xã hội tiêu cực và phức tạp tại các đô thị và vì vậy đã
thu hút sự chú ý của các nhà xã hội học , các nhà quản lí và các KTS phương Tây khiến
họ nhận ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu lý luận xã hội phục vụ cho công tác quy
hoạch và TKĐT . Họ cố gắng giải thích bản chất các sự vật hiện tượng, cố gắng đi sâu
vào nghiên cứu cấu trúc, quá trình của xã hội đô thị qua đó lý giải bản chất của đô thị,

2


cộng đồng đô thị, đời sống đô thị để ứng dụng nhằm tạo nên những thiết kế không gian
sống ưu việt hơn .

Những năm 20, Châu Âu và Bắc Mỹ đã hình thành môn học Xã hội học về đời sống đô
thị (sociology of urban life), hay xã hội học đô thị (urban sociology). Tại các nước phát
triển (Anh, Pháp, Đức, Mỹ) có nhiều trường và viện nghiên cứu, khảo sát, công bố nhiều
ấn bản về đề tài xã hội học đô thị.
Hội nghị đầu tiên của xã hội học đô thị được nhóm họp lần đầu tiên vào năm 1953 tại
Đại học Columbia (Mỹ), với sự tham gia của nhiều nhà xã hội học và các nhà quản lý ,

thiết kế đô thị trên thế giới. Đến năm 1956, một hội thảo khoa học được tổ chức tại
Bangkok (Thái Lan) với chủ đề "Vấn đề phát triển đô thị, các nhân tố kinh tế xã hội có
ảnh hưởng tới đời sống đô thị các nước Châu Á" đã nói lên tầm quan trọng ngày càng
bức thiết của nghiên cứu xã hội trong quá trình phát triển đô thị .
Trước khi bắt tay vào TKĐT các nhà thiết kế cần đi sâu vào nghiên cứu thực tiễn xã hội
để xây dựng được cái nhìn bao quát về đối tượng thiết kế của mình và các mối liên hệ
phức tạp của nó với môi cảnh .

3


Việc nắm vững những hiểu biết về tình hình kinh tế , thể chế , văn hóa xã hội , những
trào lưu lớn trên thế giới và trong khu vực chi phối tới các động thái phát triển sẽ giúp
cho đồ án TKĐT không bị lạc hậu và linh động mềm dẻo hơn trong việc đáp ứng được
các mối liên hệ quốc tế đa chiều phức tạp ( toàn cầu hóa , quốc tế hóa , ..vv… ) của hoạt
động đời sống cũng như các thay đổi , biến đổi trong tương lai về cơ cấu kinh tế , xã
hội ..vv…
Vào khoảng những thập niên 60 của thế kỷ XX ở Nhật từng bùng lên một trào lưu kiến
trúc có sức sống mạnh mẽ là Chuyển hóa luận (Metabolism) bắt nguồn từ sự nghiên cứu
thực tế về sự vận động phát triển của nền kinh tế , xã hội Nhật sau thế chiến thứ II . Các
KTS của trường phái này đứng đầu là KenzoTange và Kurokawa chủ chương rằng “ cấu
trúc xã hội luôn phát triển và vận động không ngừng bởi vậy các công trình kiến trúc và
quy hoạch , thiết kế đô thị cần phải có khả năng thay đổi , chuyển hóa để theo kịp sự thay
đổi của xã hội đương đại để làm điều này thiết kế cần chú trọng tới việc tạo ra các công
năng có thể biến đổi được , kết cấu thay đổi dễ dàng có khả năng chuyển hóa “ .
Các KTS Chuyển Hoá Luận theo đuổi những tổng hợp biện chứng về không gian cá
nhân và không gian cộng đồng , học thuyết của họ lấy việc đáp ứng được tính “
động,chuyển“của cơ cấu xã hội làm mục đích và thực tế chứng minh họ đã đã để lại
những nét son rạng rỡ trong lịch sử kiến trúc thế giới .


City in the air. Arata Isozaki, 1961.(Giải quyết tình trạng thiếu thốn mặt bằng xây dựng
của Tokyo.Các tòa nhà có khả năng vươn thêm ra như những tán cấy khi cần phát triển)
Hiểu biết phong phú về mặt xã hội và đáp ứng được các thay đổi xã hội là chìa khóa cho
một thiết kế TKĐT tốt.

4


Không gian đô thị và xã hội có mối liên quan một cách rõ rệt và đây là mối liên hệ có
tính hai chiều . Một xã hội phát triển với nhiều tầng bậc và các mối quan hệ phức tạp đa
chiều sẽ đòi hỏi những không gian đô thị đa dạng và ngược lại sự phong phú và thú vị
của không gian đô thị phản ánh một cơ cấu xã hội đa dạng các thành phần. Không gian
công cộng thể hiện đời sống xã hội trong sự đa dạng .
Khác với trường hợp của các nước châu Âu, không ít nhà quy hoạch ở Mỹ cho rằng
chính quyền chỉ nên can thiệp một cách hạn chế vào lĩnh vực quy hoạch nên rất ủng hộ ý
tưởng dành việc quy hoạch các không gian công cộng cho các chủ thể tư nhân. Cùng với
sự phát triển phổ biến của xe hơi cá nhân như một phương tiện đi lại cho mọi người và
quá trình điều chỉnh lại hệ thống phân phối thương mại, những “không gian riêng mở ra
thành không gian công cộng” cũng đã hình thành dưới dạng các trung tâm thương mại,
các công viên chuyên đề và các tổ hợp giải trí. Các loại hình không gian công cộng trở
nên đa dạng và đan xen đa chiều với không gian riêng hết sức mềm dẻo và linh hoạt .
Dưới góc độ này, vai trò của các tác nhân công quyền chỉ còn giới hạn ở việc đảm bảo sự
lưu thông trên đường phố.

Ảnh : la.curbed.com/tags/public-art
Con người tạo dựng nên hoặc biến đổi các không gian và chịu sự tác động của không
gian đó trong nhiều mặt : các giao tiếp xã hội và sinh hoạt của con người được thực hiện
trong không gian có thể bị kiềm chế bởi không gian hoặc được phân bố hay dàn xếp bởi
không gian .
Khái niệm không gian công cộng luôn biến đổi theo thời gian và không gian bởi những

không gian đó gắn với nhiều cách làm khác nhau chứ không theo một khuôn mẫu cố
định, từ đó tạo nên sự tiếp nối của không gian đô thị. Mặt khác, ý nghĩa của không gian
công cộng cũng thay đổi giữa các vùng miền hay châu lục khác nhau như châu Âu, châu
Á, Bắc Mỹ hay Trung Đông. Chẳng hạn, các đô thị ở châu Âu luôn dành cho không gian
công cộng một ý nghĩa đặc biệt, thậm chí là ngoại lệ. Do vậy, nhiều thành phố của châu
Âu trở nên nổi tiếng nhờ vẻ đẹp và bố cục không gian hài hoà mà hai đặc điểm đó được
hình thành không chỉ nhờ vào chất lượng kiến trúc mà cả chất lượng của các không gian

5


công cộng. Diện mạo của những không gian đó rất đa dạng và phong phú tuỳ thuộc vào
bản chất và chức năng của chúng như quảng trường, công viên, vườn hoa công cộng, đại
lộ hay đường phố. Do vậy, chúng không gắn với một hình thái đô thị chính xác nào, thậm
chí còn thay đổi tuỳ theo vị trí của chúng trong không gian đô thị, từ đó dẫn đến sự phân
cấp khá rõ nét giữa những không gian này.
Có những không gian công cộng trung tâm có tính biểu tượng cao thể hiện sức mạnh
của chính quyền cũng như sự thống nhất trong đa dạng của xã hội, nhưng bên cạnh đó
cũng có những không gian công cộng liền kề chủ yếu chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của
những người dân sống xung quanh.

( Không gian công cộng trung tâm có tính biểu tượng cao thể hiện sức mạnh của chính
quyền )

6


(không gian công cộng liền kề phục vụ quần chúng )
Khi nói đến phân loại không gian công cộng thì cũng cần phải đề cập đến hai loại hình
khác nhau căn cứ theo đối tượng sở hữu về mặt pháp lý, đó là không gian công cộng

thuộc quyền sở hữu của chính quyền và không gian thuộc quyền sở hữu tư nhân nhưng
mở ra phục vụ cộng đồng. Đây là một trong những điểm đặc trưng của không gian công
cộng tại Mỹ bởi kể từ nửa sau thế kỷ 20, do các cơ quan công quyền có xu hướng không
chú trọng tới việc quy hoạch các không gian công cộng nên nhiều chủ thể tư nhân đã
tham gia vào lĩnh vực này. Hầu hết các không gian công cộng tại những trung tâm
thương mại – tài chính (CBD) đều do các doanh nghiệp tư nhân quy hoạch.
Thông qua việc tổ chức và định hình các không gian người làm TKĐT có thể tác động
đến các hoạt động của cộng đồng và đời sống xã hội.
Không chỉ có vậy TKĐT cũng có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp , tích cực hay tiêu
cực đến quyền lợi của các cá nhân hoặc một nhóm dân cư trong xã hội . Tính nhân văn
của TKĐT cũng phản ánh rõ nét các cơ chế và mô hình xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong thời kỳ phong kiến sự phân chia giai cấp rất rõ rệt trong xã hội và có khoảng cách
rất xa về quyền lợi và chất lượng sống của các giai cấp trong xã hội . Thiết kế đô thị cũng
như quy hoạch và kiến trúc chủ yếu phục vụ tầng lớp thống trị và tăng lữ , chúng ta có
thể thấy các khu ở của tầng lớp bình dân được phân chia rõ rệt với khu ở của tầng lớp quý
tộc thậm chí có thể bằng các vòng thành và hào nước . Cơ cấu xã hội đơn giản và cách xa
giữa các giai cấp thể hiện ở việc phân chia không gian giữa các khu ở của mỗi tầng lớp
một cách đơn giản và rõ ràng . Thiết kế không gian đô thị chủ yếu phục vụ tầng lớp thống
trị .
Ngày nay nền dân chủ được thực hiện , các không gian đô thị không còn phục vụ riêng
cho riêng giai cấp nào mà được phát triển vì tất cả cộng đồng .Tuy vậy trong các thành

7


phần xã hội vẫn có một bộ phận dân cư thiệt thòi không nói trong cộng đồng , họ sinh
sống trong những điều kiện sinh hoạt rất thấp trong đô thị .Đồ án TKĐT thể hiện tính
nhân văn khi nó chú trọng tới cả tầng lớp này .
Một đồ án TKĐT tốt phải đáp ứng được tốt mối liên hệ cộng đồng và thỏa mãn được
nhiều tầng bậc nhu cầu của các thành phần cư dân trong xã hội và để được như vậy quá

trình TKĐT nên tích cự tham khảo ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân.
Một trong những đồ án thiết kế đo thị thành công khi chú trọng tới điều này đó là dự án
thiết kế đô thị tại Lyon.
Kể từ năm 2003, chính quyền vùng đô thị Grand Lyon đã khuyến khích thử nghiệm
nhiều phương pháp huy động sự tham gia của người dân vào các dự án quy hoạch đô thị.
Gần 20 phương thức thảo luận khác nhau đã được ứng dụng liên quan tới các dự án cải
tạo đô thị, xây dựng công trình công cộng và quy hoạch không gian công cộng với sự
tham gia của tất cả các đối tượng trong đời sống xã hội, từ các đại biểu dân cử, các nhà
chuyên môn cho đến các hội đồng đại diện của từng khu phố, các đoàn thể xã hội cũng
như mỗi người dân. Quá trình thử nghiệm này đã giúp giải đáp hàng loạt câu hỏi liên
quan đến nhiều khía cạnh khác nhau của cơ chế tham gia dự án của người dân, từ những
vấn đề về quy mô dự án, đối tượng tham gia, phương pháp tham chiếu cho đến các quy
định và vai trò của mỗi chủ thể khi tham gia thảo luận.

Ngay từ đầu, chính quyền vùng đô thị Grand Lyon đã xác định rõ các quy định của cơ
chế thảo luận dự án: đó là một cơ chế trao đổi ý kiến giúp đưa ra quyết định chứ
không phải là cùng quyết định. Nói cách khác, đó là sự hỗ trợ để lập dự án chứ không

8


phải là thay thế các nhà quy hoạch làm dự án.

Các bước thực hiện quá trình tham gia thảo luận dự án của người dân
Khởi đầu từ khâu khảo sát đánh giá hiện trạng, dự án này là một kinh nghiệm quý giúp
cho mọi người dân và các chủ thể ở địa phương đều được tham gia vào dự án, từ đó giúp
họ hiểu hơn những thách thức khác nhau về kinh tế và xã hội có tác động tới việc quy
hoạch các không gian công cộng. Trên cơ sở của dự án này cũng như nhiều dự án khác
được thảo luận trong địa bàn, chính quyền vùng đô thị Grand Lyon đang cho biên soạn
một cuốn hướng dẫn phương pháp thảo luận để làm công cụ tham chiếu cho các nhà

chuyên môn cũng như các chủ đầu tư của những dự án quy hoạch có quy mô tương tự.
Như vậy, một cuốn cẩm nang về các phương pháp huy động sự tham gia của người dân
vào các dự án quy hoạch sẽ sớm ra đời tại vùng Grand Lyon và những phương pháp đó sẽ
mau chóng trở thành một phần đầy đủ của quá trình chủ trì triển khai dự án./.
Ngày nay các mô hình kinh tế ngày càng phụ thuộc nhiều vào các mô hình xã hội của
cuộc sống đô thị . Việc mở rộng, quy hoạch, xây dựng ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống
của người dân đô thị trong các lĩnh vực lao động sản xuất, sinh hoạt – vui chơi, giải trí…
của người dân. Bởi vậy khi nghiên cứu TKĐT càng cần thiết phải nghiên cứu bản chất
của cơ cấu và quá trình xã hội đô thị, qua đó lý giải bản chất của đô thị, cộng đồng đô
thị và đời sống đô thị.

9


Câu 2 : Vườn hoa LêNin dưới góc nhìn xã hội .

Vườn hoa LêNin ( trước đây gọi là vườn hoa Chi Lăng) là một công viên tưởng niệm Lê
Nin nằm đối diện với Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tại thủ đô Hà Nội. Trên mặt
phố Điện Biên Phủ, Trần Phú và Hoàng Diệu. Khuôn viên của công viên có hình tam
giác, với tổng diện tích là 17.183 m2, trong đó bao gồm quần thể kiến trúc tượng đài Lê
Nin .Vườn hoa do người Pháp xây dựng thời xưa còn có tên là vườn hoa Canh nông (do
khi xưa nơi đây đặt tượng đài có một người nông đang kéo cày) . Đến ngày 7 tháng 10
năm 2003 vườn hoa Chi Lăng được gắn biển, đổi tên thành Công viên V.I Lê Nin.
Trải qua gần 100 năm tồn tại , nơi đây đã chứng kiến bao cảnh thăng trầm của đất nước
và in dấu trong lòng người Hà Nội không chỉ như một chứng nhân lịch sử mà còn là một
không gian sinh hoạt cộng đồng thân thiết in dấu tuổi thơ của bao thế hệ người .

10



Vào thời kỳ Pháp thuộc :
- Trước đây , vườn hoa được người Pháp xây dựng nhằm kỷ niệm cuộc chiến tranh thế
giới thứ II ( 1914 – 1918 ) , ngoài ý nghĩa về kiến trúc cảnh quan đô thị nó còn hàm ẩn ý
nghĩa về chính trị giữa mẫu quốc và thuộc địa . Trên bệ tượng là hình ảnh một người lính
Pháp và một người lính bản địa chĩa sung vào cột cờ Hà Nội , phía dưới là tượng sĩ ,
nông , công , thương ở bốn mặt . Sau tượng có một đình tám mái , khi xưa ghi tên những
người có công với tổ quốc .
- Đây là một không gian đẹp trong khu phố tập trung những công trình của chính quyền
thực dân và phục vụ cho người Pháp sang công tác .

( Tượng đài và quang cảnh vườn hoa khi xưa )
- Trong thời kỳ này , vườn hoa chỉ có ý nghĩa chính trị với chính quyền thực dân chứ
không có nhiều ý nghĩa với người Việt vì quảng trường và tượng đài không có nhiều ý
nghĩa với văn hóa tâm linh của người Việt . ( Thông thường để ghi nhớ công lao hay
sùng bái , người Việt lập đền thờ và bia ghi công đức chứ không làm quảng trường và
tượng , trừ tượng tôn giáo ).
- Vườn hoa cũng không mang nhiều ý nghĩa của một không gian công cộng , vì người
Việt thời đó thích sinh hoạt văn hóa tại đình làng , xã , hay họp chợ ở những nơi dân dã .
Việc biểu tình cũng thường thực hiện trước cơ quan công quyền chứ không ở công viên ,
quảng trường . Vườn hoa không đóng góp nhiều vào cuộc sống tinh thần hay văn hóa
của người Việt Nam .
Vườn hoa LêNin hiện nay :

11


(vườn hoa LêNin nay_nhìn từ cột cờ )

12



( vườn hoa LêNin_khoảng trống xanh quý giá giữa lòng đô thị )
- Hiện nay vườn hoa Lê Nin là một trong những không gian công cộng quan trọng và có
nhiều ý nghĩa với cảnh quan và sinh hoạt của cư dân đô thị . Đây là nơi diễn ra những
hoạt động văn hóa ngoài trời , là nơi vui chơi giải trí , thể dục thể thao ,…của nhiều lứa
tuổi .
- Kết hợp với không gian trước cột cờ Hà Nội , vườn hoa mở ra một khoảng không quý
giá có ý nghĩa về cảnh quan đô thị trong thành phố .
- Nơi đây mang tên và được đặt tượng đài kỷ niệm để tưởng nhớ Lê Nin . Một vĩ nhân có
ý nghĩa lớn lao trong công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới . Đứng
cạnh cột cờ Hà Nội , ý nghĩa lịch sử và chính trị càng rõ ràng hơn.

( Nơi tưởng niệm trang nghiêm )

13


( Nơi tổ chức các hoạt động quan trọng của chính quyền và…nhân dân )

( Nơi sinh hoạt quần chúng , vui chơi giải trí thể dục thể thao )

Những chức năng mà Vườn hoa Lê Nin đáp ứng được là rất quan trong đối với những
người trong khu vực. Các hoạt động ở đây đã diên ra thường xuyên và lâu dài nên đã trờ
thành một lối sống văn hóa nơi đây.

14


Bảng liệt kê các hoạt theo không gian và thời gian của vườn hoa Lê Nin trong giai đoạn
hiện nay.

Những mặt trái :
Khi xã hội ngày càng phát triển , đô thị bành trướng , con người phải sống trong một
môi trường ngày càng “ nhân tạo” hơn , những áp lực từ lao động và học tập ,…cũng
ngày càng gia tăng vì vậy nhu cầu được nghỉ ngơi và vui chơi giải trí để phục hồi sức
khỏe thể chất và tinh thần càng trở lên cần thiết . Yêu cầu về một môi trường ở có chất
lượng kiến trúc cảnh quan và thẩm mỹ cao ,..chú trọng hơn tới con người trở thành một
đòi hỏi bức xúc.
Trong bối cảnh của một thành phố đông đúc dân cư như Hà Nội thì những không gian
xanh mát như Hồ Gươm , công viên Lý Thái Tổ , Công viên Lên Nin là những không gian
vô cùng cần thiết .Có thể nói đây là những khoảng không quý giá cho cư dân đô thị “ hít
thở “ sau những giờ làm việc mệt nhọc và chen chúc trên những con đường đông đúc
Đó là điều tất yếu khi việc phát triển đô thị thường chỉ tập trung vào các công trình và
những hạng mục đem lại lợi ích kinh tế cao chưa chú trọng tới các không gian công cộng
phục vụ cho cộng đồng . Hà Nội cũng như các đô thị cũ khác cơ sở hạ tầng trong nội
thành thấp và lạc hậu , mật độ dân số cao và phát triển theo kiểu “ vết dầu loang “ nên
phần lớn đều thiếu thốn những không gian tiện nghi cho sinh hoạt nghỉ ngơi giải trí . Bởi
vậy , đã có nhiều những không gian trong đô thị đã không còn hoạt động đúng chức
năng của nó và phải “ vay mượn “ thêm để phục vụ những nhu cầu của con người ,
vườn hoa Lê Nin là một ví dụ . Không hoàn toàn là xấu nhưng mặt trái của nó phản ánh
sự lộn xộn và chưa hợp lý trong phát triển và quản lý .

15


( Thiếu thốn các không gian sinh hoạt cộng đồng khiến nhiều không gian chức năng
trong đô thị phải kiêm nhiệm hay vay mượn công năng )

Không chỉ riêng ở vườn hoa LêNin Phần lớn những vườn hoa , quảng trường ở Việt
Nam nói chung và Hà Nội nói riêng ( như quảng trường Ba Đình , Lý Thái tổ , nhà
thờ…) thường không lớn và xây dựng vì mục đích chính trị hay hành chính , tạo các

không gian trang trọng và tưởng nhớ nhưng vì đô thị thiếu những khoảng không cho sinh
hoạt nghỉ ngơi ,vui chơi quần chúng nên chúng phải đảm nhiệm luôn những chức năng
này cho tất cả mọi tầng lớp và lứa tuổi cư dân đô thị .

16


( Lẫn lộn giữa tính trang nghiêm và quần chúng )

( Lẫn lộn giữa không gian tĩnh và động , không gian tưởng niệm quá sôi động và ko
trang nghiêm , không gian vui chơi giải trí động thì lại vắng vẻ )

17


Giả thuyết về các hoạt động xã hội :
- Trong tương lai vườn hoa Lê Nin không thể đáp ứng lại được với nhu cầu ngày càng
cao của người dân nếu như Chính quyền thành phố mong muốn trở thành một công trình
mang tính lịch sử-văn hóa, thì cấp thiêt cần phải có những chính sách định hướng nâng
cấp cải tạo đề vườn hoa Lê Nin có chức năng phù hợp hơn, đáp ứng được cả nhu cầu về
chức năng và thẩm mỹ .
- Do các hoạt động vận động và thể dục (như đá bóng, đá cầu,cầu lông ) tạo ra nhiều ảnh
hưởng tới các hoạt động nghỉ ngơi, chiếm nhiều diện tích .Nên trong tương lai vươn hoa
Lê Nin sẽ phát triển theo chiều hướng phục vụ lợi ích quần chúng đông đảo nhân
dân.
- Vườn hoa sẽ trở thành môt công viên sạch đẹp , với chức nghỉ ngơi là chính , phục vụ
những người cao tuổi và trẻ nhỏ.Các hoạt động thê thao mạnh: như bóng đá , đá cầu sẽ
được hạn chế để đảm bảo cho vườn hoa hoạt động cân bằng hơn .
- Phân khu tĩnh và động hợp lí hơn nhằm tạo nét văn minh và thanh lịch hơn cho các hoạt
động quần chúng trong không khu vực

- Có thể biến các trục phố xung quanh thành các tuyến phố đi bộ kết hợp dịch vụ thương
mại sẽ tạo nên một chuỗi liên hoàn các không gian đô thị thú vị hơn .

Sơ đồ phân khu các hoạt theo không gian của vườn hoa Lê Nin trong giai đoạn hiện nay.

18


Một số phương hướng nghiên cứu cải tạo chất lượng không gian :

Hiện trạng Vườn hoa Lê Nin hiện nay.
*Phân tích vấn đề tồn tại :
-Các tuyến tiếp xúc được bố trí tại 3 hướng và chia làm nhiều hướng đi nhỏ, Ưu điểm là
giao thong chức năng bên trong khu vực thuận tiện, Nhưng lại ảnh hường giao thong
công cộng bên ngoài và các khu vực lân cận.
-Điểm nhìn chính từ phía đường Điện Biên Phủ, chỉ có một hướng duy nhất mang tính
sức hút chính và tượng đài.xong chính việc phân khu chức năng quá rõ ràng mà phần sân
chơi và công viên bị tách biệt ,tao ra 2 khu vực khác nhau trọng một khu vực công cộng
với diện tích nhỏ, đây là nhược điểm của Vườn hoa Lê Nin.
*Đưa ra giải pháp thiết kế nhằm khắc phục những hạn chế :
Bố trí lại chức năng của: khu vực sân chơi và công viên cây xanh nhằm mang lại sự cân
bằng và sự kết nối giữa hai khu vực . Tạo các lối tiếp xúc từ 3 hướng mang tính tập chung
hơn , nhăm không ảnh hưởng đến giao thông của khu vực.

19


20



- Bố trí nhà ở ít tầng dọc theo các tuyến phố, kết hợp các chức năng ở, kinh doanh, sản
xuất, dịch vụ. Bên trong khu ở hay lô phố bố trí các nhà ở nhiều tầng với các công trình
giáo dục, y tế, cây xanh. Giao thông bên trong chủ yếu là đi bộ và xe đạp kết hợp xe cơ
giới. Các tuyến phố tạo không gian lưu thông liên tục, an toàn gắn với bãi đổ xe, cây
xanh, nơi nghỉ ngơi, giải trí ...
- Bố trí nhà ở trong khu ở theo lô phố, trong lô phố có các ô phố nhỏ, các ô phố tạo thành
không gian hở hoặc nửa kín, nửa hở, tạo sự liện tục và đa dạng giữa không gian trống của
các ô phố, đó là nơi bố trí sân chơi , cây xanh mặt nước nội bộ . Các công trình trong các
ô phố có thể có độ cao và hình thức khác nhau và được bố trí theo các phương án khác
nhau, tạo nên cảnh quan sinh động cho tổng thể khu ở và không gian công cộng .

21



×