TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
T I Ể U L UẬ N M Ô N :
L Ý T H UY Ế T VỀ Đ Ô T H Ị H Ó A
Đề tài: Sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới người nông dân
ở Việt Nam khi bị thu hồi đất nông nghiệp
GVHD:
PGS.TS Phạm Hùng Cường
Học viên thực hiện:
Hoàng Anh Văn
MSSV: 1009143
Nguyễn Việt Phong
MSSV: 1009132
Vương Văn Khang
MSSV: 1009118
Hà Thế Việt
MSSV: 1009303
Lớp: Cao học kiến trúc
Hà Nội, tháng 07/2011
1
PHỤ LỤC
Phần I : Phần mở đầu giới thiệu đề tài
Phần II : Giới thiệu quá trình đô thị hóa tại Việt Nam
Phần III: Tác động của đô thị hóa tới cuộc sống sinh nhai của người nông dân
khi bị thu hồi đất .Thực trạng một số vùng nông thôn ven Hà Nội
Phần IV : Kết luận
I.PHẦN MỞ ĐẦU
2
Đô thị hóa là quá trình tất yếu diễn ra không chỉ đối với nước ta mà còn đối với các
nước trên thế giới, nhất là các nước châu Á. Nền kinh tế càng phát triển thì quá
trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh
phát triển kinh tế – xã hội của khu vực, nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, quá trình đô thị hóa cũng phát sinh nhiều
vấn đề cần giải quyết như: vấn đề việc làm cho nông dân bị mất đất, phương pháp
đền bù khi giải phóng mặt bằng, cách thức di dân, dãn dân… Nếu không có một
chiến lược và giải pháp cụ thể, chung ta sẽ gặp nhiều vướng mắc và lúng túng
trong quá trình giải quyết, đôi khi làm nảy sinh những vấn đề ngày càng phức tạp.
Ở Việt Nam đi cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội , quá trình đô thị hoá cũng
diễn ra vô cùng mạnh mẽ ở hầu hết các địa phương đặc biệt là các trung tâm lớn
như
Hà
Nội
và
thành
phố
Hồ
Chí
Minh
.
Chính vì xác định đô thị hoá là một xu thế tất yếu gắn liền với sự phát triển xã hội
nên chúng ta phải có định hướng phát triển , phân tích các vấn đề xung quanh quá
trình đô thị hoá như gia tăng dân số , nhà ở , áp lực về cơ sở hạ tầng , đời sống ,
văn hoá … để đảm bảo sự phát triển và lường truớc các vấn đề . Việc đánh giá
những vấn đề phát sinh trong quá trình đô thị hóa, từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm giải quyết vấn đề một cách cơ bản là việc làm cần thiết. Đó là cơ sở quan
trọng cho việc nghiên cứu hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong
quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay.
Hiện nay vấn đề đô thị hoá ở các làng xã ven đô , đặc biệt là thủ đô Hà Nội là một
chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm vì khu vực này chịu tác động mạnh
của quá trình đô thị hoá ,các khu dân cư nông nghiệp vùng ven đang chuyển dần
thành khu dân cư đô thị . Đây không chỉ là quá trình tập chung dân cư từ nông thôn
vào đô thị mà có sự chuyển dịch phức tạp của nhiều dòng dịch cư , Quá trình đô thị
hoá vùng ven đòi hỏi phải cấu trúc lại các không gian làng xã truyền thống để phù
hợp với những chuyển biến về xã hội , dân cư , lao động..
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, vấn đề đô thị hóa theo quan điểm của triết học là
công việc vô cùng thiết thực và cần thiết, có ý nghĩa to lớn đối với mỗi nhà nghiên
cứu hoạch định phát triển kinh tế trong thời đại hiện nay. Xuất phát từ tầm quan
trọng đó nên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu:
” ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến cuộc sống của người nông dân Việt
Nam”.
Những bài giảng và tài liệu về vấn đề “Đô thị hoá ” của PGS.TS Phạm Hùng
Cường là một kho kiến thức hết sức đáng quý, có giá trị lâu dài, thể hiện sự dầy
công nghiên cứu và kiến thức dồi dào của thầy; Giáo trình của thầy góp phần vào
việc trang bị kiến thức cho những nhà thiết kế để nắm vững lí thuyết về đô thị hoá
và vân dụng vào các đồ án và các công trình trong thực tiễn.
3
Đây là một đề tài rất rộng mang tính khái quát cao, mặc dù rất cố gắng, song bài
viết của tôi sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về nội dung cũng như
hình thức. Kính mong các thầy cô xem xét và góp ý để bài viết của tôi được hoàn
thiện hơn.
PHẦN II.GIỚI THIỆU QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở VIỆT NAM .
Trong hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, quá trình đô thị hoá diễn ra hết
sức nhanh chóng nhất là trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt ở các thành phố lớn như
Hà
Nội,
Đà
Nẵng
và
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh.
Từ năm 1990 các đô thị Việt Nam bắt đầu phát triển, lúc đó cả nước mới có
khoảng 500 đô thị (tỷ lệ đô thị hoá vào khoảng 17-18%), đến năm 2000 con số này
lên 649 và năm 2003 là 656 đô thị. Tính đến nay, cả nước có khoảng 700 đô thị,
trong đó có 5 thành phố trực thuộc trung ương, 44 thành phố trực thuộc tỉnh, 45 thị
xã và trên 500 thị trấn.
Bước đầu đã hình thành các chuỗi đô thị trung tâm quốc gia: Các đô thị trung tâm
quốc gia gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế. Các đô
thị trung tâm vùng gồm các thành phố như: Cần Thơ, Biên Hoà, Vũng Tàu, Buôn
Ma Thuột, Nha Trang, Nam Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Hạ Long, Hoà Bình…
Các đô thị trung tâm tỉnh gồm các thành phố, thị xã giữ chức năng trung tâm hành
chính-chính trị, kinh tế, văn hoá, du lịch-dịch vụ, đầu mối giao thông; và các đô thị
trung tâm huyện; đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông thôn, các đô thị mới.
Hiện nay, tỷ lệ dân số đô thị ở nước ta dưới 40%, theo quy hoạch phát triển đến
năm 2010 con số này sẽ 56-60%, đến năm 2020 là 80%.
Theo dự báo của Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hoá của Việt Nam vào năm 2020 sẽ đạt
khoảng 40%, tương đương với số dân cư sinh sống tại đô thị chiếm trên 45 triệu
dân. Mục tiêu đề ra cho diện tích bình quân đầu người là 100m2/người. Nếu đạt tỷ
lệ 100m2/người, Việt Nam cần có khoảng 450.000ha đất đô thị, nhưng hiện nay,
diện tích đất đô thị chỉ có 105.000ha, bằng 1/4 so với yêu cầu. Với tốc độ phát
triển và dân số đô thị như vậy, Việt Nam sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều vấn
đề
phức
tạp
phát
sinh
từ
quá
trình
đô
thị
hoá.
*Những vấn đề đặt ra trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam
- Dân số và lao động đô thị tăng nhanh
4
Dân số, lao động tăng nhanh chóng ở các đô thị chủ yếu do hai dòng di cư vào đô
thị:
(1) Lao động từ các nông thôn đổ về các đô thị để tìm việc làm. Trong điều kiện
Việt Nam là nước nông nghiệp, kinh tế chưa phát triển, tài nguyên không dồi dào,
diện tích đất canh tác bình quân đầu người quá thấp, lao động dư thừa thừa lao
động từ các nông thôn sẽ đổ về các đô thị để tìm việc làm. Đồng thời người nông
dân xem đô thị như là miền đất đầy hứa hẹn. Cùng với thực tế tăng trưởng kinh tế
ở đô thị đó tạo ra dũng di cư vào thành phố và làm tăng trưởng dân số đô thị nhanh
chóng. Vùng di cư đó, đang và sẽ tiếp tục diễn ra và đi cung cấp cho các đô thị
nguồn lao động phổ thông dồi dào và nó cũng mang lại nguồn thu nhập đáng kể
cho nông thôn, góp phần phát triển kinh tế ở cả đô thị và nông thôn.
(2) Sinh viên các trường đại học, cao đẳng sau khi học xong ở lại đô thị hoặc đến
các đô thị khác kiếm việc làm. Sinh viên ra trường không thể tìm việc ở nông thôn,
vậy các thành phố lại được thêm một nguồn lao động đầy tiềm năng. Nguồn lao
động này tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường lao động.
Hai dòng di cư được đề cập ở đây là lao động, nhưng sau khi tìm được việc làm là
sự hình thành các gia đình mới của các lao động này tạo ra sự tăng dân số của đô
thị
Dân số, lao động tăng nhanh chóng ở các đô thị là quy luật tất yếu và có ý nghĩa to
lớn trong quá trình đô thị hóa. Nó làm cho tốc độ đô thị hóa cao hơn, và cũng góp
phần làm giàu cho nông thôn, phát triển kinh tế xó hội của đất nước. Nhưng việc
tăng dân số đô thị quá tải về nhiều mặt đời sống kinh tế xó hội. Biểu hiện của sự
quỏ tải đó là sự mất cân bằng giữa cung và cầu các dịch vụ đô thị, các chi phí xó
hội đô thị tăng: chi phí quản lý giao thông, môi trường, an ninh xó hội tăng, ngân
sách của các chính quyền đô thị thiếu hụt. Hiện tượng lấn chiếm vỉa hè buôn bán
trên xe thồ, hình thành các xóm liều, gây ô nhiễm môi trường, thất nghiệp đô thị
cũng gia tăng.
- Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tốc độ cao
Trong quá trình đô thị hóa, kinh tế đô thị tăng trưởng với tốc độ cao vỡ mức độ tập
trung lực lượng sản xuất cao, cách tổ chức lao động hiện đại, tạo ra năng suất lao
động cao, vai trũ hạt nhõn trong phỏt triển kinh tế càng thể hiện rõ. Đô thị là nơi
tập trung các trường đại học, các nhà khoa học, đồng thời có sức hấp dẫn lớn với
các nguồn lao động có kỹ thuật và đây chính là lợi thế đặc biệt của đô thị trong
việc phát triển kinh tế.
Quy mô việc làm ở đô thị tăng là do sự hình thành mới các khu công nghiệp, mở
rộng quy mô sản xuất các doanh nghiệp hiện có. Quá trình đó vừa làm tăng tổng
việc làm vừa làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong kinh tế đô thị. Đồng thời, việc
chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đô thị cũng làm tăng trưởng kinh tế đô thị
5
theo chiều sâu, tăng năng suất lao động xã hội, tăng GDP bình quân đầu người ở
đô thị và trong cả nước.
Để đạt được sự tăng trưởng cao, các ngành không ngừng nâng cao trình độ công
nghệ, áp dụng kỹ thuật mới trong kinh tế đô thị, làm nâng cao hiệu quả sản xuất.
Nhà nước đó ỏp dụng các chính sách kinh tế nhằm phát huy hết năng lực sẵn có và
mở rộng quy mô kinh tế, nâng cao năng suất lao động xó hội.
Một ví dụ điển hình là Thủ đô Hà Nội: giai đoạn 2000-2005 GDP Hà Nội tăng
trưởng trung bỡnh 11,3%/năm, trong khi đó cả nước là 7,1%. Cơ cấu kinh tế của
Hà Nội chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng,
giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và thủy sản. Năm 1995, GDP ngành nông nghiệp
chiếm 5,4% đến năm 2000 chiếm 3%, đến năm 2005 chỉ chiếm 1,7%.
Cũng với những mặt tích cực của quá trình tăng trưởng kinh tế là tăng thu nhập của
người lao động, tăng tích lũy của doanh nghiệp, nâng cao đời sống cư dân đô thị
thời tăng trưởng kinh tế đô thị cũng để lại những hậu quả phức tạp như vấn đề an
ninh lương thực, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyờn, phõn húa giàu nghốo
trong xó hội, mất công bằng trong thu nhập, khoảng cách thành thị và nông thôn.
- Giao thông đô thị được đặt ra như một bài toán khó với các thành phố
Giao thông đô thị như một bài toán khó đặt ra với hầu hết các đô thị lớn trên thế
giới. Đối với Việt Nam, do tốc độ tăng dân số, lao động đô thị và tăng trưởng kinh
tế nhanh, nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa cũng tăng tương ứng, trong khi đó
cơ sở hạ tầng đường sá không đáp ứng kịp, phương tiện giao thông hỗn hợp trong
đó chủ yếu là xe hai bánh và do mật độ quá cao về xe máy, xe đạp vấn đề giao
thông ở các thành phố đang và sẽ là vấn đề lan giải cho các đô thị Việt Nam. Tắc
nghẽn giao thông thường xảy ra ở các thành phố lớn không chỉ trong giờ cao điểm.
Tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Độ an toàn của người tham gia
giao thông ngày càng thấp. Chi phí về thời gian đi lại ngày càng cao chính là sự
lóng phớ lớn của xó hội.
- Đất đô thị và xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng đắt
Đô thị phát triển, nhu cầu sử dụng đất đai cho xây dựng cơ sở hạ tần và nhà ở đô
thị ngày càng cao. Vấn đề đất đai được giải quyết theo hai hướng: (1) thu hồi một
phần diện tích đất nông nghiệp để mở rộng diện tích đất đô thị và xây dựng cơ sở
hạ tầng; (2) thu hồi một phần đất ở của cư dân đô thị để phát triển cơ sở hạ tầng.
Hướng thứ nhất dẫn đến tỡnh trạng thu hẹp đất canh tác nông nghiệp. Thực chất
qúa trình đó là thay đổi mục đích sử dụng đất: từ đất nông nghiệp chuyển sang sản
xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, đất ở... Quá trình này gúp phần làm tăng
hiệu quả sử dụng đất nói chung. Tuy nhiên đi cùng với nó là một vấn đề lớn mang
tính xó hội đó là một bộ phận bán đất với giá cao nhờ có sự phát triển hạ tầng của
nhà nước.
6
Hướng thứ hai, các dự án phải chịu chi phí đền bù giải phũng mặt bằng quỏ đắt.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu, Nhà nước giao
quyền sử dụng cho các tổ chức, các cá nhân, Nhà nước có quyền thu hồi đất để sử
dụng vào các mục đích công cộng khác nhau khi cần thiết. Trong thực tế khi Nhà
nước thu hồi đất, Nhà nước và các chủ dự án phải đền bù cho dân những khoản
tiền rất lớn.
Hai vấn đề đặt ra là 1) làm thế nào để Nhà nước có thể kiểm soát được giá đất
trong đền bù GPMB, trong việc thu thuế sử dụng đất; 2) tạo việc làm cho những
người nông dân khi không có đất hoặc diện tích đất canh tác bị thu hẹp.
- Mất cân đối cung - cầu nhà ở và các dịch vụ đô thị
Nhà ở được đặt ra với tất cả các đô thị trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nhu cầu
nhà ở của dân cư đô thị ngày càng cao. Thông thường nhà của một gia đỡnh là tài
sản cú giỏ trị lớn nhất đối với họ. Giá thuê nhà ở đô thị luôn được người tiêu dùng
coi là đắt nhất. Sự đắt đỏ khan hiếm của thứ hàng hóa này là do: đất đô thị khan
hiếm và đắt đỏ, chi phí xây dựng nhà ở cao. Nhà ở đô thị được hình thành theo 2
hệ thống: xây dựng theo đúng quy tắc (chính quy) và bất quy tắc (không hcính
quy).
Các dịch vụ ở đô thị như nước sạch, trường học, bệnh viện cũng luôn luôn trong
tỡnh trạng cung khụng đủ cầu. Vỡ hệ thống sơ sở hạ tầng này được xây dựng
không tính đến sự phục vụ với dân cư được coi là tạm trú ở đô thị. Cùng với các
dũng di cư ồ ạt vào đô thị dẫn đến sự hình thành khu vực nhà ở bất quy tắc (khụng
theo quy hoạch), khu vực này cú thể chưa xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Quản lý đô thị chậm đổi mới trong quá trình đô thị hóa
Bộ máy quản lý các đô thị được hoàn thành từ cơ chế bao cấp của những năm
1980. Cơ chế thị trường được hình thành từ những năm 1990. Trong vũng một hai
chục năm bộ máy quản lý cũn mang nhiều đặc điểm cũ, nó không cũn phự hợp với
cơ chế thị trường nhưng chưa thể vứt bỏ ngay được. Mối quan hệ giữa khối tư
nhân và khối nhà nước chưa có biện pháp điều tiết.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của đô thị nhỏ không cũn phự hợp với đô thị lớn,
trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý được nâng cao một cách rõ rệt.
- Các vấn đề xã hội ngày càng phức tạp
Đô thị là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đô thị hóa góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, hình thành lối sống công
nghiệp, xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hóa qui mô dân số
7
của thành phố tăng, kinh tế phát triển, và thu nhập của dân cư tăng, các vấn đề về
công bằng xó hội được đặt ra: có bao nhiêu việc làm mới do tăng trưởng kinh tế
tạo ra dành cho người mới đến và bao nhiêu dành cho dân cư gốc của thành phố.
Đặc biệt là giải quyết vấn đề lao động trước đó không có việc làm nay có việc làm.
Vấn đề văn hóa : Sự thay đổi tập quán lối sống, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra
nhanh chóng, nhu cầu giáo dục, y tế tăng, tệ nạn xó hội trở thành vấn đề lớn, vấn
đề nghèo đói, thất nghiệp được đặt ra.
Sự khác biệt về giàu nghèo giữa các đô thị, trong từng đô thị, và giữa nông thôn và
thành thị ngày càng trở nên sâu sắc hơn.
- Những nguy cơ về xuống cấp môi trường đô thị ngày càng tăng
Từ sau năm 1990 kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc, đời sống nhân dân có nhiều
cải thiện. Cả nước tập trung làm kinh tế, sản xuất phát triển nhưng vấn đề bảo vệ
môi trường không được quan tâm đúng mức. Luật Bảo vệ môi trường chưa thực sự
đi vào đời sống sản xuất. Cái giá phải trả cho sự phát triển trở nên quá đắt và khó
có thể tính được với những thiệt hại môi trường.
Môi trường tự nhiện tại các đô thị đang ngày càng xấu đi do quy mô dân số, quy
mô sản xuất và cung cấp các dịch vụ của đô thị. Ô nhiễm nghiêm trọng môi trường
nước mặt ở các dũng sụng như sông Lô, sông Thao, sông Hồng khu vực thành phố
Việt Trì; sông Đồng Nai - Thành phố Hồ Chí Minh, sông Nhuệ, sông Tô Lịch thành phố Hà Nội. Ô nhiễm không khí đó đến mức báo động tại các đô thị lớn.
Chất lượng sống người dân đô thị mới chỉ được đảm bảo về mặt vật chất.
Môi trường cảnh quan không được quản lý chặt chẽ, sự phát triển mạnh mẽ của các
ngành bưu điện, truyền hình, quảng cáo đó làm xấu đi cảnh quan của các đường
phố, các chung cư. Nhiều gia đình mới chỉ lo cho cái đẹp bên trong nhà mình mà
chưa
lo
đến
cái
đẹp
chung
của
xung
quanh.
PHẦN III.TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA TỚI CUỘC SỐNG SINH NHAI
CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN KHI BỊ THU HỒI ĐẤT ,THỰC TRẠNG MỘT
SỐ
VÙNG
VEN
ĐÔ
8
1.Quá trình thu hồi đất tại Việt Nam do tác động của đô thị hóa
Từ đầu những năm 1980, Việt Nam bắt đầu đổi mới khu vực nông nghiệp, sau đó
là các khu vực kinh tế khác. Giống như Lào, Trung Quốc, đây cũng là thời điểm
Việt Nam bắt đầu làm rõ các vấn đề sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai trong hệ
thống
chính
sách
và
pháp
luật
về
đất
đai.
Một điểm nổi bật trong chế độ sở hữu đất đai mới này là việc nhà nước phân chia
ba loại quyền cơ bản về đất đai do các thực thể khác nhau nắm giữ, đó là quyền sở
hữu thuộc về toàn dân, quyền quản lý của nhà nước và quyền sử dụng 1 được giao
cho các cá nhân, hộ gia đình và tổ chức nắm giữ và sử dụng trong một thời gian
nhất định tuỳ thuộc vào từng loại đất. Theo đó, khi thu hồi quyền sử dụng đất, nhà
nước chỉ đền bù cho người nắm giữ quyền sử dụng đất giá trị kinh tế của quyền sử
dụng đất và những giá trị vật chất khác hiện diện trên diện tích đất bị thu hồi. Đây
thường là điểm mấu chốt gây mâu thuẫn giữa người nắm giữ quyền sử dụng đất và
các cơ quan phụ trách việc thu hồi và đền bù quyền sử dụng đất. Đôi khi tôi chỉ
đơn giản dụng đất nông nghiệp/ở thay vì cụm từ quyền sử dụng đất nông nghiệp/ở.
Khởi đầu đổi mới ở Việt Nam đã ngụ ý một qúa trình công nghiệp hóa. Đến đầu
những năm 1990, công nghiệp hóa chính thức trở thành một khẩu hiệu quốc gia để
Đảng và nhà nước thực hiện chính sách phát triển của mình trong nhiều khu vực và
trên
nhiều
bàn
của
cả
nước.
Đi cùng với công nghiệp hóa là đô thị hóa. Các thành phố ở Việt Nam đã xuất
hiện từ thời trung đại, tuy nhiên, đô thị hóa chỉ gia tăng nhanh chóng từ đầu những
năm 1990. Trong số các trung tâm đô thị, Hà Nội là thành phố thủ đô lâu đời nhất
của Việt Nam. Đầu những năm 2000, Hà Nội có bốn quận và năm huyện. Từ tháng
Tám năm 2008, thủ đô Hà Nội được mở rộng sang toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê
Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã của tỉnh Hòa Bình.
Giống như Trung Quốc, công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Việt Nam trong 20 năm
qua đã ‘lấn chiếm’ một diện tích lớn đất nông nghiệp. Tuy nhiên, cho đến thời
điểm này, Việt Nam chưa có những số liệu đầy đủ, có hệ thống và chính xác về
tổng diện tích các loại đất, đặc biệt là đất nông nghiệp, bị thu hồi từ đầu những
năm 1990 để phục vụ mục đích công nghiệp hóa và đô thị hóa trong cả nước. Các
tài liệu còn thiếu tính hệ thống cho thấy ở cấp độ quốc gia từ năm 1990 đến 2003
có 697.417 ha đất đã bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng và
các mục đích phi nông nghiệp khác .
Năm 2005 có khoảng 200.000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi mỗi năm để phục vụ
các mục đích phi nông nghiệp (Báo Nhân dân 2005). Nhiều tài liệu khác cung cấp
các số liệu bổ sung. Một nguồn được trích dẫn nhiều là báo cáo của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết trong thời gian năm năm, từ 2001 đến
2005, có 366.000 ha đất nông nghiệp đã được chuyển thành đất đô thị và đất công
nghiệp. Con số này chiếm bốn phần trăm tổng diện tích đất nông nghiệp ở Việt
9
Nam. Trong đó, có 16 tỉnh và thành phố thu hồi diện tích lớn, chẳng hạn như Tiền
Giang: 20,380 ha; Đồng Nai: 19,752 ha; Vĩnh Phúc: 5,573 ha; Hanoi: 7,776 ha.
Tính theo khu vực, đồng bằng sông Hồng dẫn đầu với con số 4,4 phần trăm diện
tích đất nông nghiệp của khu vực được chuyển thành đất đô thị và đất công nghiệp,
trong khi đó khu vực Đông Nam Bộ chiếm 2,1 phần trăm (dẫn theo Tạp chí Cộng
sản 2007; Khoa Minh - Lưu Giang 2007). Từ năm 2005, tốc độ thu hồi đất tiếp tục
gia tăng, song chưa có các số liệu chính xác ở cấp độ quốc gia và đặc biệt là ở cấp
độ địa phương về diện tích đất các loại bị thu hồi.
Ở Hà Nội, trong hơn một thập kỷ vừa qua, phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và
đô thị hóa đã nhanh chóng mở rộng khu đô thị của thành phố. Theo quy hoạch của
thành phố, trong vòng 10 năm từ 2000 đến 2010, 11.000 ha đất trong đó đất nông
nghiệp chiếm một tỷ lệ quan trọng được chuyển đổi thành đất đô thị và đất công
nghiệp để phục vụ cho 1.736 dự án. Ước tính việc chuyển đổi này sẽ làm mất việc
làm
truyền
thống
của
150.000
nông
dân.
Ở cấp độ quốc gia, tài liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho thấy
thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm 2001-2005 đã ảnh hưởng tới
950.000 lao động nông nghiệp nói riêng và khoảng 2.5 triệu người ở khu 5
Trong thực tế, từ 2000 đến 2004, Hà Nội đã thu hồi 5.496 ha đất phục vụ cho 957
dự án và việc chuyển đổi này đã tác động mạnh đến cuộc sống và việc làm của
138.291 hộ gia đình trong đó có 41.000 hộ gia đình nông nghiệp .
Theo số liệu mới đây của Viện Nghiên cứu định cư (Bộ Nông nghiệp & PTNT),
hàng năm, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi cho phát triển công nghiệp khoảng
trên 70.000 ha, cho phát triển đô thị khoảng 10.000 ha. Chỉ tính riêng một số tỉnh
thuộc vùng đồng bằng sông Hồng như: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Ninh
Bình, số diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi cho phát triển công nghiệp trong
những năm vừa qua đã lên hàng chục nghìn ha (Bắc Ninh: gần 2.000 ha, Hải
Phòng: gần 4.000 ha). Trong quy hoạch từ nay đến năm 2020, tại một số tỉnh, diện
tích đất nông nghiệp bị thu hồi có thể tăng lên gấp đôi con số trên.
10
11
2.Tác động của đô thị hóa tới cuộc sống người nông dân sau khi mất đất
Trung bình mỗi ha đất thu hồi sẽ khiến 14 người nông dân bị mất việc làm, việc
thu hồi đất nông nghiệp trong 5 năm qua đã tác động tới đời sống của khoảng 2,5
triệu nông dân. Một số liệu khác của Viện Nghiên cứu định cư (Bộ Nông nghiệp &
PTNT) cho thấy, tại một số vùng ven đô của đồng bằng sông Hồng, trước khi thu
hồi đất chỉ có 10% lao động đi làm thuê thì sau khi thu hồi đất tỷ lệ này là 17%
Được tiền đền bù nhưng vẫn nghèo túng .Trên thực tế, khi bị thu hồi đất, người
nông dân được nhận một khoản tiền đền bù nhưng dù ăn tiêu tiết kiệm họ cũng chỉ
giữ được khoảng 5-7 năm. Do chưa biết cách quản lý đồng tiền nên chỉ ít thời gian
sau nhiều hộ dân lại rơi vào cảnh khó khăn, thậm chí còn túng quẫn hơn trước.
Qua điều tra ở những nơi thu hồi đất , khoảng 67% hộ vẫn quay về nghề nông
nhưng lại khó khăn hơn là thiếu đất canh tác , chỉ khoảng 13% hộ có nghề mới ổn
định trong đó 9% sống bằng nghề mới và 6% sống bằng nghề tiểu thủ công nghiệp
. Khoảng 29% có điều kiện sống tốt hơn còn 34,5% có điều kiện sống thấp hơn
trước .13% hộ có thu nhập cao hơn trước và 53% hộ có thu nhập giảm hơn trước.
Số lao động dư thừa trong khoảng tuổi 35-60 rất nhiều và số này lại khó thích ứng
với điều kiện công việc mới .Chỉ khoảng 27,23% số lao động là có bằng tốt nghiệp
PTTH và 14% được đào tạo cấp cơ sở trở nên . Như vậy mặc dù có nhiều cơ sở
công nghiệp ( CN) mọc nên tại địa phương nhưng số lao động địa phương có
được nghề nghiệp trong cơ sở CN là rất ít . Mặc dù thành phố và các địa phương
đã có nhiều cố gắng để giải quyết việc làm cho những người nông dân bị thu hồi
đất nhưng kết quả mang lại vẫn chưa được bao nhiêu. Một trong những giải pháp
của chính quyền nơi có đất bị thu hồi đó là yêu cầu người chủ sử dụng đất mới
phải ưu tiên sử dụng lao động địa phương. Tuy nhiên, với một lời hứa thì khó có
thể ràng buộc được doanh nghiệp. Bà Phan Lệ Xiêm, Phó Ban Kinh tế (Hội Nông
dân Việt Nam) cho rằng: “Nhiều nông dân thiếu việc làm có nguyên nhân từ sự
thất hứa của các chủ sử dụng lao động. Trước khi đầu tư, chủ doanh nghiệp hứa sẽ
sử dụng lao động tại địa phương nhưng thực tế tỷ lệ này rất thấp”.
Việc thu hồi đất cũng nảy sinh những tiêu cực từ chính quyền như tham ô và quan
liêu , việc người dân phải chịu đựng những bất công trong việc thu hồi và đền bù
tượng đối phổ biến ở các tỉnh thành , thậm chí trong một vài năm trước ở một số
địa phương còn xảy ra biểu tình và bạo động do mâu thuẫn với chính quyền trong
việc
đền
bù
,
gây
bất
ổn
xã
hội.
( Ảnh : người dân biểu tình chống thu hồi đất )
12
Các biện pháp dạy nghề hay đào tạo nghề cho người nông dân sau khi thu hồi đất
không hiệu quả . Mặc dù được đầu tư kinh phí cao song việc tiến hành nhiều khi
mang tính hình thức . Rốt cuộc số lượng người học được nghề mới ít ỏi và số
lượng thành công với nghề đó cũng ít , số thất nghiệp mất phương hướng vẫn
nhiều.
(Ảnh
:
lao
động
nông
thôn
lên
thành
phố
nhặt
rác
)
Thị trường lao động cơ bản trên thế giới không ổn định và việc xuất khẩu lao động
cần phải nộp một khoản chi phí lớn nên chỉ giải quyết được công việc cho một số
lao
động
ở
độ
tuổi
thanh
niên
.
Đô thị hóa và sự khủng hoảng kinh tế , giá cả leo thang ,…khiến người nông dân
càng
nghèo
hơn
.
Sự mất phương hướng , thất học và nghèo đi , lượng thất nghiệp cao khiến một bộ
phận lao động tham gia các hoạt động phi pháp và tệ nạn xã hội .Người nông
thôn đổ lên thành phố kiếm việc và tạo nên những xóm liều,…vv
13
(Ảnh
:xóm
liều
dưới
gầm
cầu
)
Công tác quản lý môi trường chưa tốt và các doanh nghiệp kinh doanh thiếu lương
tâm nên môi trường địa phương ngày càng bị ô nhiễm công nghiệp , người nông
dân thường phải sống trong môi trường ô nhiễm khi khu công nghiệp về địa
phương.
(Ảnh
:
mương
quê
ô
nhiễm
14
khi
khu
CN
về
)
3.
Thực
trạng
tại
một
a.Xã
(Ảnh
số
vùng
nông
thôn
An
:
dự
án
khu
ven
đô
Khánh
đô
thị
An
Khánh
)
Xã An Khánh, Hoài Đức có 350/510ha đất sản xuất nông nghiệp đã bị thu hồi để
chuyển sang làm các dự án công nghiệp, đô thị. Hơn 100 ha còn lại tới đây cũng
tiếp tục chuyển sang mục đích phi nông nghiệp. Viễn cảnh “nhà nông không đất”
đã hiển hiện khi tại 4/5 thôn, người dân đã không còn đất canh tác; nhiều hộ dân
không
có
việc
làm
và
phải
lo
chạy
ăn
từng
bữa.
Khi không còn làm nông nghiệp nữa, mỗi ngày có hàng ngàn lao động của xã An
Khánh đi theo các kíp thợ xây dựng hoặc đi buôn bán nhỏ lẻ tại các chợ trong nội
thành Hà Nội. Tuy nhiên, số người tự xoay tìm việc như trên cũng chưa đáng kể
so với con số khoảng 5.000 người của xã An Khánh đang thiếu việc làm hiện nay.
Anh Khải, người dân thôn Phú Vinh (An Khánh) nói: “Tôi cũng muốn học làm cây
cảnh nhưng cách dạy lâu quá, sốt ruột”. Có thể thấy, ngoài việc dạy những nghề
“theo danh mục” không phù hợp với nhu cầu, khiến người dân không hứng thú còn
có việc chương trình dạy còn nặng tính lý thuyết, khó nhớ, không phù hợp với
người nông dân vốn quen học theo kiểu truyền nghề, cầm tay chỉ việc.
Việc người dân làm nông nghiệp không còn đất canh tác không phải là chuyện
riêng của một xã, một huyện nữa. Cơn lốc đô thị hóa đã khiến cho đất nông nghiệp
thu hẹp với tốc độ ngày càng nhanh, đặc biệt là đối với các xã, phường vùng ven
15
đô. Theo ông Nguyễn Trường Sơn, Phó Chủ tịch UBND quận Hà Đông, từ năm
2005 đến nay, mỗi năm trung bình quận này thu hồi 290 ha đất, trong đó đất nông
nghiệp chiếm tới 97,8%. Cùng với đó, sẽ có 34.933 hộ dân sản xuất nông nghiệp bị
ảnh hưởng. Diện tích đất nông nghiệp của quận ngày càng bị thu hẹp trong khi đó
số người trực tiếp sống bằng nghề nông chưa thể giảm ngay, hiện vẫn chiếm
44,76% tổng dân số toàn quận. Hiện nay, quỹ đất nông nghiệp của quận còn
khoảng 600 ha nhưng dự kiến đến năm 2015, 100% diện tích đất nông nghiệp trên
sẽ
tiếp
tục
bị
thu
hồi.
Riêng đối với TP. Hà Nội, theo một con số thống kê của Sở LĐTBXH vào cuối
năm 2010, thành phố hiện có khoảng 40.000 lao động do chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp bị mất việc làm. Tuy nhiên, trên thực tế, con số người thất
nghiệp
do
bị
thu
hồi
đất
có
thể
lớn
hơn
nhiều.
b.Xã
(Ảnh
Ngọc
:
trục
đường
chính
Liệp
thôn
Đồng
Bụt
)
Ở thôn Đồng Bụt, xã Ngọc Liệp, Quốc Oai có 408/618 hộ thuộc diện thu hồi đất,
hộ nhiều bị thu hồi 100% diện tích, hộ ít nhất cũng trên 30%. Theo một báo cáo
của lãnh đạo thôn Đồng Bụt, chỉ có khoảng 40% người dân sử dụng tiền đền bù
vào việc kinh doanh dịch vụ, phát triển chăn nuôi; 40% số hộ đầu tư vào xây, sửa
nhà cửa và 20% số hộ chi tiêu mua sắm, thậm chí có trường hợp ném vào cờ bạc.
16
Đáng lo ngại là số hộ nghèo không giảm mà còn tăng lên, dù cho có hàng tỷ đồng
tiền đền bù rót vào địa phương này. Năm 2006, toàn thôn có 40 hộ nghèo thì năm
2007 tăng lên 60 hộ và hiện nay là 87 hộ (chiếm 14% tổng số hộ của thôn). Nhiều
hộ đang có nguy cơ tái nghèo do không có việc làm, tệ nạn xã hội xuất hiện nhiều
hơn...
Còn theo ông Đỗ Văn Gốc, Phó Chủ tịch UBND xã Ngọc Liệp, trước khi thu hồi
đất, nhiều doanh nghiệp hứa hẹn sẽ tuyển dụng lao động địa phương vào làm việc,
nhưng thực tế số lao động được tuyển dụng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Có cả nghìn
lý do khi doanh nghiệp từ chối tuyển nông dân địa phương như: Lao động chưa tốt
nghiệp THPT, tuổi đã quá 35… Có doanh nghiệp vì sức ép phải nhận nông dân vào
làm việc nhưng cố tình giao cho họ những việc khó hoặc trả lương thấp. Do đó, sau
một thời gian, người lao động phải tự bỏ nhà máy vì chán nản hoặc do không thể
đáp ứng được công việc.
Cách nay gần chục năm, nhiều xã vùng ven của huyện Từ Liêm được đền bù hàng
trăm tỷ đồng, nhiều gia đình được đền bù một vài tỷ. Và bây giờ nhìn lại, dấu ấn
làng lên phố còn đó với những ngôi nhà khang trang, lòe loẹt ở Nhân Mỹ, Phú Mỹ
(Mỹ Đình); Phú Đô (Mễ Trì); nhưng những hệ lụy của đồng tiền để lại cũng rất
nặng nề. Bây giờ ở bất kỳ đâu trong những ngôi làng này cũng dễ dàng thấy cảnh
nhiều thanh niên hàng ngày không có việc gì ngoài việc rủ nhau tụ tập đánh bài.
Vào giờ lô đề, các hàng quán đông đúc người tụ tập, chúi đầu bên cuốn sổ kết quả
mà không thèm màng tới làm ăn. Ở đây cũng có thể tìm được danh tính hàng chục
tỷ phú có tên tuổi với những thành tích ăn chơi, cờ bạc khét tiếng bây giờ trắng tay,
nghèo túng. Nghiện hút và nhiều tệ nạn xã hội khác đến cùng tiền đền bù nhưng nó
không ra đi nhanh như những đồng tiền kia mà ngược lại, nó vẫn ở lại và tác oai
tác quái khi những người nông dân đã trở nên khánh kiệt.
c.Thôn
Phú
Điền
Địa bàn điền dã của nghiên cứu này là Phú Điền,1 một làng ven đô ở phía TâyNam của Hà Nội, nơi kể từ cuối những năm 1990 chính quyền thành phố và huyện
đã thu hồi một diện tích lớn đất nông nghiệp trong một thời gian ngắn để phục vụ
các
mục
đích
công
nghiệp
hóa
và
đô
thị
hóa.
Vào năm 2000, Phú Điền có 147,7 ha đất nông nghiệp, 1.088 hộ gia đình
nôngnghiệp, nếu tính bình quân, mỗi hộ có 0,135 ha (1.350 mét vuông) đất nông
nghiệp. Tuy nhiên, cho đến thời điểm năm 2007, ba phần tư đất nông nghiệp của
Phú Điền đã bị thu hồi để xây dựng khu đô thị, đường giao thông, khu buôn bán,
văn
phòng,
bến
vực
nông
thôn
nói
chung
.
Thu hồi quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Phú Điền tạo tiền đề để người dân ở
làng trong thời điểm hiện tại nhìn chung có một mức thu nhập cao hơn trước.
Nhiều người trong số họ thường nói “ngày xưa” thu nhập của các hộ gia đình chủ
yếu từ sản xuất nông nghiệp và được tính bằng thóc, không phải bằng tiền mặt.
17
Trong thực tế, sản xuất nông nghiệp không mang lại cho người dân Phú Điền một
nguồn thu nhập tốt để có thể làm cho họ giàu có về kinh tế, vì sau khi trừ đi các chi
phí về giống, phân bón, v.v., họ chỉ còn được hưởng dưới hai tạ lúa/một sào/một
vụ. Nếu vào năm 2002, giá lúa là 3.000 đồng/cân thì một hộ gia đình bình thường
có lẽ chỉ thu được khoảng 3.000.000 đồng/sào/vụ và 6.000.000 đồng/sào/năm.
Tuy nhiên, vào năm 2006-2007, thu nhập bình quân của nhiều hộ gia đình bình
thường từ việc cho thuê nhà trọ đạt
khoảng 1.500.000 đồng/tháng. Đấy
còn là chưa tính đến các nguồn thu
nhập khác và số tiền đền bù quyền sử
dụng đất nông nghiệp và tiền bán
quyền sử dụng đất ở mà nhiều hộ gia
đình đã nhận được. Thực tế này cho
thấy một sự gia tăng đáng kể về mức
sống của người dân Phú Điền ở thời
điểm hiện tại so với cuộc sống của
họ trong những năm còn sản xuất
nông
nghiệp
trước
kia.
(Ảnh : biệt thự tại khu đô thị Phú
Điền cho những người giàu có từ nơi
khác
đến
định
cư
)
Nhiều người dân lại cảm thấy sinh
kế của họ mỏng manh, không bền
vững so với những tháng ngày làm
nông nghiệp: khi họ có thể tự chuẩn
bị cho mình lương thực hàng ngày
như gạo, rau, v.v. Sau khi bị thu hồi quyền sử dụng đất nông nghiệp, họ phải mua
rất nhiều thứ cho cuộc sống hàng ngày. Thực tế này tạo đà để họ thâm nhập sâu
hơn vào thị trường song cũng làm cho cuộc sống của họ phụ thuộc nhiều hơn vào
thị
trường.
Giống như ở Trung Quốc, nơi qúa trình đô thị hóa nhanh từ những cuộc cải cách
trong những năm 1980 đã dẫn đến một hình thức cư trú kiểu khu vực xem kẽ lối
sông nông thôn và đô thị vì thế chi phí cho cuộc sống gia tăng nhiều lần so với khi
còn là một khu vực ‘nhà quê’ hơn. Chẳng hạn, một vài người dân mà tôi đã nói
chuyện thường so sánh tiền đóng học phí cho con cháu họ lặp lại câu nói “trước
đây tiền học chỉ vài chục nghìn, bây giờ chúng tôi phải đóng hàng trăm ngàn”.
Nhiều người dân còn lo lắng về sự gia tăng của các tệ nạn xã hội trong cộng đồng
làng kể từ cuối những năm 1990. Từ một cộng đồng không có nghiện hút, Phú
Điền dần dần chứng kiến nhiều loại tệ nạn xã hội thâm nhập vào làng. Nổi bật và
phổ biến nhất là những tệ nạn mà người dân gói gọn lại trong cụm từ ‘cờ bạc’. Qủa
18
thực đây không phải là cái gì mới ở Phú Điền, song nó gia tăng mạnh mẽ kể từ khi
người dân có nhiều tiền mặt và thời gian nhàn rỗi.
Ðược biết, hiện nay Hà Nội đang chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương triển khai
nhiều kế hoạch nhằm giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho nông dân vùng
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Thực hiện Quyết định 1956 của
Thủ tướng Chính phủ, thành phố Hà Nội đã thành lập Ban chỉ đạo xây dựng đề án
đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020. Các quận, huyện, thị xã đang
tiến hành công tác điều tra, tổng hợp số liệu, xác định mô hình điểm về dạy nghề
cho lao động nông thôn. Tuy nhiên, những tồn tại lâu nay trong công tác đào tạo
nghề, giải quyết việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp không dễ sẽ được giải quyết ngay và bài toán vốn bế tắc lâu nay chưa
thể sớm có lời giải.
Việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn bị thu hồi đất có sự tham gia của các
ngành Lao động, Thương binh và Xã hội, ngành Nông nghiệp & PTNT, các đoàn
thể… Tuy có nhiều ngành lo nhưng không vì thế bài toán việc làm được giải quyết
tốt mà còn có sự chồng chéo, mạnh ai nấy làm, thiếu sự phối hợp hiệu quả.
Có lẽ chính vì những nguyên nhân trên mà trong mấy năm qua, tỷ lệ nông dân
được
học
nghề
và
có
việc
làm
mới
rất
thấp.
PHẦN V. KẾT LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ơ VIỆT NAM VÀ
CÁC Ý KIẾN XÂY DỰNG TẠO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG XÃ HỘI.
Đô thị hóa là một quá trình tất yếu của bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, đô thị hóa tự phát, thiếu quy hoạch khoa học sẽ làm nảy sinh và để lại
nhiều hậu quả tiêu cực và lâu dài, cản trở sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy,
chiến lược đô thị hóa của Việt Nam phải hướng tới mục tiêu bền vững giữ tự
nhiên,
con
người
và
xã
hội.
Muốn vậy cần: Tăng cường công tác giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người
dân. Song song với việc nâng cao dân trí là tiến hành quy hoạch phân bố đồng đều
các khu công nghiệp, khu đô thị tại các thành phố trên cả nước. Tăng cường giáo
dục nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới đối với cư dân đô thị.
Hạn chế và quản lý tốt hơn đối với dân nhập cư, góp phần lập lại trật tự xã hội đảm
bảo cho việc xây dựng xã hội đô thị ổn định, bền vững. Có chiến lược, lộ trình quy
hoạch đô thị đồng bộ. Hoàn thiện và và phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng đô thị,
giao thông đường bộ thuận tiện, không ách tắc và hạn chế gây ô nhiễm môi trường.
Tăng cường nâng cao nhận thức cho cộng đồng về tầm quan trọng của môi trường
đối với sức khoẻ và chất lượng cuộc sống. Tích cực thực hiện các biện pháp tuyên
truyền, khuyến khích cộng đồng sử dụng các nhiên liệu sạch trong sinh hoạt thay
cho các loại nhiên liệu gây ô nhiễm không khí và nguồn nước sinh hoạt.
19
Ưu tiên phát triển giao thông công cộng, đặc biệt là các phương tiện giao thông
công cộng hiện đại không gây ô nhiễm. Cần xem việc phát triển phương tiện vận
chuyển công cộng là giải pháp trọng tâm để giảm nguy cơ tắc nghẽn giao thông và
ô nhiễm môi trường đô thị. Có thể nói, đô thị hoá tự phát, thiếu quy hoạch khoa
học sẽ làm nảy sinh và để lại nhiều hậu quả tiêu cực và lâu dài, cản trở sự phát
triển của đất nước.
20