Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu nông sản của nước CHDCND Lào đến năm 2010.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.19 KB, 21 trang )

i

LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGUYÊN CỨU
Hiện nay, vấn đề XNK cũng như các doanh nghiệp khác của CHDCND
Lào đang gặp nhiều khó khăn về vốn, thị trường tiêu thụ sảm phẩm, công
nghệ sản xuất lạc hậu, thông tin chưa kịp thời, trình độ sản xuất, trình độ quản
lý của cán bộ còn nhiều yếu kém chưa bắt kịp với cơ chế thị trường. Các
doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng, nên lãi suất ngân
hàng chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí kinh doanh. Điều đó làm cho chi phí
kinh doanh tăng lên, hiệu quả thấp, không chủ động trong việc thực hiện các
dịch vụ kinh doanh, nhiều khi thực hiện xong các thủ tục vay vốn thì đã mất
thời cơ kinh doanh.
Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi theo
nguyên tắc hạch toàn kinh doanh lấy thu bù chi, nếu thua lỗ kéo dài sẽ làm
cho đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn, dẫn đến mất vốn, mất
khả năng thanh toán, làm cho sự tồn tại của doanh nghiệp bị đe doạ và phá
sản, giải thế là điều khó tránh khỏi. Xuất phát từ những điều trên em chọn đề
tại nghiên cứu này là: “ Thúc đẩy xuất khẩu nông sản của CHDCND Lào đến
năm 2010 ’’ làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn được kết cấu thành
3 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ XUẤT KHẨU NÔNG
SẢN CỦA NƯỚC CHDCND LÀO
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA NƯỚC
CHDCND LÀO
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT
KHẨU NÔNG SẢN CỦA NƯỚC CHDCND LÀO ĐẾN NĂM 2010


ii



CHƯƠNG 1
CƠ SƠ LÝ THUYẾT VỀ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN CỦA NƯỚC CHDCND LÀO

1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NÔNG SẢN

1.1.1. Khái niệm thúc đẩy xuất khẩu nông sản
Thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản là làm tăng hoạt động trao đổi mua
bán hàng hoá nông sản với nước ngoài dưới hình thức mua bán thông qua
quan hệ hàng hoá tiền tệ, nhằm tăng mục đính lợi nhuận.
1.1.2. Nội dung của thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
1.1.2.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng nông sản
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng nông sản là quá trình thu thập,
xử lý và phân tích số liệu thị trường một cách hệ thống làm cơ sở cho các
quyết định quản trị. Khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng nông sản cần
trả lời được các câu hỏi sau: Nước nào là thị trường mục tiêu? Quy mô thị
trường ra sao? Sản phẩm nào có thể xuất khẩu sang thị trường đó...
1.1.2.2. Tổ chức thu mua và tạo nhiều nguồn hàng nông sản xuất khẩu
Tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu là toàn bộ hình thức, phương thức
mà doanh nghiệp tác động đến lĩnh vực sản xuất nông sản, khai thác để tăng
nguồn hàng nông sản phù hợp với nhu cầu khách hàng.
Tổ chức tăng thu mua hàng nông sản là một hoạt động của doanh
nghiệp sau khi xem xét chất lượng hàng hoá, giá cả chào hàng cùng với người
bán thoả thuận điều kiện mua bán, giao nhận, thanh toán bằng hợp đồng.
1.1.2.3. Công tác giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng
nông sản
Để thực hiện ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng nông sản, hai bên xuất
khẩu và nhập khẩu thường phải trải qua một quá trình giao dịch, thương



iii

lượng với nhau về các điều kiện giao dịch. Trong buôn bán quốc tế, những
bước giao dịch đàm phán chủ yếu đối với hàng hoá nói chung và hàng nông
sản nói riêng thường diễn ra như sau:
- Hỏi giá: Đây là việc nhà nhập khẩu đề nghị nhà xuất khẩu báo cho
mình biết giá cả và điều kiện để mua hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách
nhiệm của nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu có thể hỏi giá nhiều nhà xuất khẩu
để nhận được nhiều bản chào.
- Phát giá: Phát giá là chào hàng, là việc nhà xuất khẩu thể hiện rõ ý
định bán hàng của mình.
- Đặt hàng: Là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, xuất phát
từ phía nhà nhập khẩu được đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
- Hoàn giá: Là việc mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện giao dịch. Khi
nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu nhận được chào hàng không chấp thuận hoàn
toàn chào hàng đó, mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị này là trả giá.
- Chấp nhận: Đây là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào
hàng hoặc đặt hàng mà phía bên kia đưa ra.
- Xác nhận: Đây là khâu cuối cùng của giao dịch, sau khi nhà nhập
khẩu và nhà xuất khẩu thống nhất thoả thuận với nhau về điều kiện đã thoả
thuận, gửi cho đối phương. đó là văn kiện xác nhận.
1.1.2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng nông sản
Sau khi hợp đồng nông sản được ký kết, nghĩa vụ, quyền lợi và trách
nhiệm của nhà NK và nhà XK được thiết lập, cả nhà NK và XK phải xác định
rõ nội dung và trình tự công việc phải làm đúng như hợp đồng đã ký kết.
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
1.1.3.1. Nguồn hàng nông sản xuất khẩu
Phần lớn nguồn hàng nông sản của nông dân là ở dạng tươi hoặc sơ

chế, chưa thể xuất khẩu ngay được. Thêm vào đó là do đặc điểm sản xuất
nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ trong khi xuất khẩu hàng nông sản thường
những với lô hàng lớn nên người dân không thể trực tiếp xuất khẩu sản phẩm


iv

ra thị trường nước ngoài được mà phải qua các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu hoặc các doanh nghiệp sản xuất chế biến hàng nông sản xuất khẩu,
các doanh nghiệp này sẽ thu mua hàng của nông dân để chế biến, sản xuất
xuất khẩu hoặc xuất khẩu tươi.
1.1.3.2. Cầu hàng nông sản xuất khẩu
Cầu hàng nông sản xuất khẩu là lượng hàng nông sản mà khách hàng
nước ngoài có khả năng mua và sẵn sàng mua ở các nước giá khác nhau trong
một thời điểm nhất định. Cùng với sự phát triển kinh tế của toàn thế giới như
hiện nay, nhu cầu hàng nông sản đặc biệt là hàng nông sản chế biến ngày
càng tăng và sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản.
1.1.3.3. Giá cả hàng nông sản
Giá hàng nông sản xuất khẩu thu mua trong nước phụ thuộc vào chi phí
sản xuất nông sản phẩm xuất khẩu như: Chi phí thuê lao động, chi phí giống,
phân bón, vận chuyển, chế biến và bảo quản...
Giá hàng nông sản xuất khẩu phụ thuộc vào sự biến động giá hàng
nông sản thế giới. Nếu giá xuất khẩu tăng thì các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh hàng nông sản có thể thu mua hàng nông sản của nông dân với giá cao
hơn, nhưng nếu giá xuất khẩu giảm thì buộc các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh hàng nông sản phải giảm giá thu mua nông dân.
1.1.3.4. Chất lượng và thương hiệu hàng nông sản
Ngày nay, người tiêu dùng có nhu cầu ngày càng cao về chất lượng,
mẫu mã, chủng loại và vệ sinh an toàn. Do đó, hàng nông sản muốn xuất khẩu
được phải đảm bảo được các yêu cầu của khách hàng (mà còn phải đạt cao

hơn với yêu cầu của khách hàng). vì vậy, các nhà sản xuất và các nhà xuất
khẩu nông sản phải làm sao để hàng nông sản xuất khẩu đạt được các yêu cầu
của khách hàng.
1.1.3.5. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị tương đối giữa các
ngoại tệ và từ đó có tác tộng như một công cụ cạnh tranh trong quan hệ kinh


v

tế quốc tế. Sự thay đổi tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng lớn tới mức cầu sản
phẩm của công ty, người dân trong và ngoài nước.
Khi tỷ giá hối đoái tăng, có nghĩa là đồng tiền nội tệ có giá trị giảm
xuống so với đồng ngoại tệ, điều này sẽ bất lợi cho nhập khẩu nhưng lại có lợi
cho xuất khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ làm hạn chế xuất
khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít hơn
đồng nội tệ, khi đó sẽ không kích thích được xuất khẩu.
1.1.3.6. Năng lực sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của doanh nghiệp
Năng lực sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của doanh nghiệp sẽ
quyết định lượng hàng nông sản xuất khẩu ra thị trường. Năng lực sản xuất
của doanh nghiệp thể hiện ở trình độ công nhân lao động; trình độ công nghệ
sản xuất, thu hoạch và chế biến; trình độ quản lý... Như vậy, nếu một doanh
nghiệp có năng lực sản xuất cao sẽ cung ứng được nguồn hàng lớn ra thị
trường nước ngoài và ngược lại. Tuy nhiên, bên cạnh đó các doanh nghiệp
phải có năng lực xuất khẩu.
1.2. ĐẶC ĐIỂM NHU CẦU, THỊ HIẾU TIÊU DÙNG HÀNG HOÁ CỦA
NHỮNG NƯỚC NHẬP KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA LÀO

1.2.1. Đặc điểm nhu cầu, thị hiếu tiêu thụ nông sản
1.2.1.1. Đặc điểm thị trường của các nước Asean

ASEAN là một thị trường lớn và đầy tiềm năng với số dân 520 triệu.
ASEAN là thị trường gần, có nhiều nét tương đồng, chi phí cho quảng cáo và
tiếp thị thấp. Hơn nữa khi xuất khẩu vào thị trường này, Lào sẽ được hưởng
nhiều ưu đãi hơn.
1.2.1.2. Đặc điểm của thị trường EU
 Tập quán, thị hiếu tiêu hàng và kênh phân phối.
Tập quán thị hiếu tiêu thụ.
EU là một thị trường rộng lớn, với 461,1 triệu người. EU là một trong
những thị trường lớn trên thế giới. Họ có thu thập, mức sống cao và khá đồng
đều, yêu cầu rất khắt khe về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm nói chung,


vi

còn đối với thực phẩm thì chất lượng và vệ sinh là hàng đầu. Yếu tố quyết định
tiêu thụ của người Châu Âu là chất lượng hàng hóa chứ không phải là giá cả.
Kênh phân phối
Hệ thống phân phối EU gồm: mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ.
Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở Tây Âu đã dẫn tới sự thay đổi cơ cấu
ngành kinh tế, kéo theo là trào lưu “ Nhất thể hóa” và “Tổ chức lại” các Công
ty xuyên quốc gia.
1.2.2. Chính sách ngoại thương của nhà nước nhập khẩu sản phảm nông
sản của Lào
- Chính sách giá thâm nhập vào các thị trường.
- Chính sách phát triển mạnh dựa vào hiệu ứng kinh nghiệm và lợi thế quy mô.
- Chính sách phân biệt rõ rệt đổi với đổi mới sản phẩm và dịch vụ khách
hàng trên các thị trường khác nhau.
- Chính sách tiêu chuẩn hoá nhất định trên cơ sở hạn chế lượng các nông
sản phẩm cho phép thực hiện đa đạng hoá các mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm.
1.3. KINH NGHIỆM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA THẾ GIỚI

VÀ BÀI HỌC CHO NƯỚC CHDCND LÀO

1.3.1. Kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu nông sản của thế giới
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam khẳng định rõ rằng: muốn đẩy mạnh xuất khẩu
hàng nông sản phải phát triển nông nghiệp một cách toàn diện và vững mạnh.
1.3.1.2. Kinh nghiệm Trung Quốc
Trung Quốc thực hành chính sách “Duyên biên khai phóng”, “Hỗ thị dân
biên”, “Thắp sáng đường biên”, các cửa khẩu biên giới trên bộ được khuyến
khích phát triển, lấy đa dạng hóa thương mại làm khởi điểm để tích lũy phát triển
hạ tầng đô thị biên giới và một số xí nghiệp công nghiệp địa phương linh hoạt
mạnh về lắp ráp, sơ chế, bảo quản … thực hiện “Tam khứ nhất bổ”, tức là xuất
khẩu ba thứ: hàng hóa, lao động, thiết bị kỹ thuật.


vii

1.3.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
- Chính phủ Thái Lan đã hợp tác chặt chẽ với khu vực tư nhân để tạo điều
kiện cho hàng hoá từ Thái Lan xâm nhập vào những thị trường mới.
- Thái Lan đã lập kế hoạch cắt giảm, miễn thuế đối với nguyên liệu thô,
miễn và giảm thuế nhập khẩu, thuế kinh doanh đối với các thiết bị máy móc.
- Thái Lan khuyến khích sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân phục
vụ sản xuất hàng xuất khẩu vào việc phát triển xuất khẩu.
1.3.1.4. Kinh nghiệm một số nước khác
1.3.2 Bài học cho nước CHDCND Lào
Thứ nhất: Sản xuất nông nghiệp cần hướng tới xuất khẩu, nhân thức rõ
vai trò của sản xuất nông nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội,
từ đó có những đầu tư cho lĩnh vực hết sức đặc thù và quan trọng này.
Thứ hai: Phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, và

khai thác lợi thế so sánh của mình.
Thứ ba: Cải tiến hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp.
Thứ tư: Cần gắn chặt khâu sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm và
lập thành hệ thống.
Thứ năm: Tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất chế biến NS.
Thứ sáu: nhà nước cần có chính sách phát huy tiềm năng lợi thế của nông
nghiệp, thể hiện rõ vai trò hỗ trợ của các ngành đối với nông nghiệp.


viii

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN
CỦA CHDCND LÀO

2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA NƯỚC
CHDCND LÀO

 Đặc điểm kinh tế - xã hội của nước CHDCND Lào
Trong vài năm gần đây GDP trên đầu người ngày càng được cải thiện,
năm 2004 là 402 USD và năm 2005 là 492 USD/đầu người.
Tỉ lệ lạm phát có sự tăng lên một chút nhưng vẫn giữ được mức giao
động đồng đều năm 2004/2005 tỷ giá là khoảng 10.500 - 10.600 Kíp/USD.
Trong những năm qua cơ cấu kinh tế đã chuyển đổi theo hướng công
nghiệp hóa gắn liền với dịch vụ từng bước được hiện đại.
 Khái quát đặc điểm sản xuất nông nghiệp của nước CHDCND Lào
Lào là một nước có 3/4 là diện tích đồi núi và cao nguyên, đồng bằng
chỉ chiếm 1/5 lãnh thổ nằm hoàn toàn ở phía tây. Khí hậu của Lào thuộc khu
vực nhiệt đới gió mùa. Do vậy, Lào chỉ phát triển mạnh các hàng nông sản
như: Gỗ các loại, Cà phê, Cao su, Gạo, ngô, đậu là chủ yếu. Các mặt hàng

nông sản này là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Lào, và chúng chiếm một tỷ
lệ lớn trong kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản.
2.2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA CHDCND LÀO

2.2.1. Thực trạng xuất khẩu nông sản của CHDCND Lào GĐ 2000 - 2007
2.2.1.1. Xuất khẩu hàng hóa của CHDCND Lào GĐ 2000 - 2007
Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ năm 2001 - 2007 đạt gần 2,6 tỷ USD
(theo kế hoạch là trên 2 tỷ USD). Tăng bình quân gần 5,6%/năm. Thấp hơn so
với kế hoạch đặt ra (8,7%/năm). Nhìn chung tổng kim ngạch xuất khẩu của
Lào trong những năm vừa qua đều có xu hướng tăng dần qua các năm. Trong
đó kim ngạch xuất khẩu đạt thấp nhất là năm 2002 đạt gần 232 triệu USD, cao
nhất là 2007 đạt khoảng 570 triệu USD thể hiện qua bảng .


ix

Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2002 đạt khoảng 69
USD/người, là mức thấp so với các nước trong khu vực: Inđônêsia là
270USD/người, Việt Nam 208 USD/người.Cămpuchia là 130 USD/người...
Thị trường xuất khẩu chính của Lào là ASEAN và EU, Năm 2003 Lào
xuất khẩu sang 2 thị trường ASEAN và EU chiếm tới 79,6% tổng kim ngạch
xuất khẩu, trong đó ASEAN chiếm 54,2%, EU chiếm 25,3%.
2.2.1.2. Kim ngạch XK hàng nông sản của CHDCND Lào GĐ 2000 - 2007
Do cơ cấu mặt hàng chưa đa dạng và còn hạn chế, các mặt hàng nông
sản xuất khẩu chủ yếu của Lào là mặt hàng Cà phê, ngô, gạo và một số mặt
hàng nông sản khác.
Năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản chỉ đạt được
24.787,1 ngàn USD thì đến năm 2004 đã đạt tới 42.858,2 ngàn USD, tăng
70,51% so với năm 2001, nhưng đến năm 2007 con số này đã đạt 63.075,5
ngàn USD, tăng 49,24% so với năm 2004 và tăng hơn so với năm 2001 là

154,47%, sự tăng của kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản thể hiện rõ trong
hình 3. Trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Lào thì mặt hàng Cà
phê chiếm tỷ trọng lớn nhất và có xu hướng tăng đều trong các năm gần đây.
Cụ thể, năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê chỉ đạt 11.030,8 ngàn
USD đến năm 2007 con số này đã đạt 29.750,1 ngàn USD.
Đứng thư hai là mặt hàng ngô, với tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2001
chỉ đạt được 7.832,6 ngàn USD thì đến năm 2004 là 13.866,2 ngàn USD và
năm 2007 là 18.665,4 ngàn USD. Đứng tiếp theo là mặt hàng gạo và các mặt
hàng nông sản khác.
Chủng loại cà phê còn là vấn đề đáng lo trong các năm tới, nếu như Lào
muốn vươn rộng ra thị trường thế giới. Cụ thể, tỷ lệ cà phê loại I tăng cùng
với sản lượng qua các năm, nhưng tỷ lệ cà phê loại II cùng tăng theo. Năm
2001 giá trị xuất khẩu cà phê loại I là 10.162,3 ngàn USD và cà phê loại II là
868,5 ngàn USD, nhưng đến năm 2004 con số này lần lượt là 11.882,1 ngàn
USD và 1.139,1 ngàn USD.


x

Cũng như mặt hàng cà phê đã nói ở trên, mặt hàng ngô của Lào cũng
đang ở tình trạng tương tự. Tỷ lệ ngô loại II tăng nhanh hơn so với tỷ lệ ngô
loại I. Cụ thể năm 2001 kim ngạch xuất khẩu ngô loại I đạt 7.521,2 ngàn USD
và ngô loại II là 311,4 ngàn USD. Tuy nhiên đến năm 2007 tỷ lệ này là
17.794,1 ngàn USD và 871.3 ngàn USD. Như vậy, qua đây ta thấy được yêu
cầu về hàng nông sản của khu vực và thế giới ngày càng cao. Quan trọng hơn
nữa nó cho chúng ta biết được ngành sản xuất mặt hàng nông sản để xuất
khẩu và khâu chế biến các mặt hàng này của Lào là rất yếu, cần phải tập trung
phát triển trong những năm tới.
2.2.1.3. Xuất khẩu hàng nông sản của CHDCND Lào theo thị trường các
nước giai đoạn 2001- 2007

Do các mặt hàng nông sản của Lào chưa được phong phú và đa dạng so
với tiềm năng của đất nước. Vì vậy, phần lớn các thị trường xuất khẩu hàng
nông sản của Lào là các nước láng giềng chiếm phần lớn và một số nước khác
chỉ chiếm một phần nhỏ.
Một trong những mặt hàng xuất khẩu nông sản chủ yếu và là thế mạnh
của Lào là cà phê. Đây là mặt hàng mang lại ngoại tệ đáng kế cho Lào. Trong
giai đoạn 2001-2007, Lào đã xuất khẩu Cà Phê sang hơn 40 quốc gia và vùng
lãnh thổ trị giá gần 81 triệu USD. Ngoài hai thị trường truyền thống là Thái
Lan và Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong nhập khẩu Cà Phê của Lào tương
ứng khoảng 16% và 14%, Lào đã chuyển hướng xuất khẩu Cà Phê sang các
thị trường khó tính (như châu Âu) và đòi hỏi chất lượng cao hơn như Ba Lan,
Poland, Thuỵ sĩ...
Trong số mặt hàng xuất khẩu thì mặt hàng ngô được xuất khẩu sang Thái
Lan với khối lượng lớn, với trị giá xuất khẩu là gần 12 triệu USD, trong khi
đó Việt Nam chỉ xuất khẩu được với trị giá là gần 2,6 triệu USD, đứng thứ
hai xuất khẩu các mặt hàng qua Thái Lan và Việt Nam là Cà Phê với trị giá
xuất khẩu qua Thái Lan đạt được hơn 5,5 triệu USD, còn Việt Nam là hơn 1,2
triệu USD, đứng thứ ba và thứ tư xuất khẩu các mặt hàng là Gạo và Đậu vàng


xi

trong đó Gạo trị giá xuất khẩu qua Thái Lan là 684,73 ngàn USD và Đậu vàng
là 147,74 ngàn USD, còn Gạo trị giá xuất khẩu qua Việt Nam là 331,1 ngàn
USD, Đậu vàng trị giá xuất khẩu là 697,4 ngàn USD.
2.2.1.4. Cơ chế, chính sách của CHDCND Lào về thúc đẩy xuất khẩu hàng
nông sản
(1). Chính sách thương nhân
Năm 1996 Nhà nước đã bãi bỏ giấy phép xuất khẩu chuyến. Chính phủ
cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được xuất khẩu

hàng hóa thuộc đăng ký kinh doanh mà không cần giấy phép xuất khẩu, trừ
một số mặt hàng cần quản lý đặc biệt của Nhà nước theo Kiến nghị của Bộ
trưởng Bộ Tài chính về hướng dẫn thực hiện miễn phi thuế hải quan và thuế
quan, số 230/BTBTC, ngày 04/03/1995.
(2). Chính sách xuất khẩu
Nghị định số 205/NĐ-CP ngày 11/10/2001 về quản lý các mặt hàng
xuất nhập khẩu. Theo đó, tất cả các loại hàng hóa, trừ hàng hóa thuộc danh
mục hàng hóa cấm xuất khẩu đều được xuất khẩu.
Công tác điều hành xuất khẩu của Chính phủ cũng từng bước được đổi
mới. Hàng năm, cơ chế điều hành xuất khẩu chỉ đưa ra mục tiêu và các biện
pháp lớn, các mặt hàng cần kiểm soát thông qua hạn ngạch, quôta, danh mục
hàng cấm xuất khẩu và các mặt hàng chịu sự quản lý chuyên ngành. Đến nay,
các mặt hàng có hạn ngạch xuất khẩu hầu như đã giảm tới mức tối thiểu.
(3). Chính sách phát triển thị trường
Trong những năm qua, Lào đã dần dần khôi phục lại thị trường truyền
thông đặc biệt chú ý tới các thị trường nằm trong các nước Châu Á.
Thực hiện chính sách mở cửa, thị trường xuất khẩu hàng nông sản được
mở rộng theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa.
Tuy nhiên, chính sách phát triển thị trường còn nhiều hạn chế như:
- Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu nhập và xử lý thông tin đã có
những tiến bộ đáng kể nhưng còn rời rạc, chậm thời gian, thiếu hệ thống từ cơ


xii

sở vật chất đến phương thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, chưa thực sự trở
thành một công cụ mạnh để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất.
- Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản
còn xem nhẹ công tác tiếp thị, đầu tư cho hoạt động này chưa đáp ứng được để
thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản.

- Tầm vĩ mô, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc
xây dựng và phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng các quan hệ
song phương và đa phương, tạo điều kiện xuất khẩu hàng nông sản còn rất
hạn chế, thiếu chủ động.
(4). Chính sách ruộng đất
Nhà nước Lào đã tạo ra sự ưu tiên hàng đầu cho người dân để tạo ra động
lực khuyến khích nông dân phát triển sản xuất làm cho người dân gắn với ruộng
đất hơn, yên tâm đầu tư sản xuất, cải tạo và bảo vệ đất đai được giao.
(5). Chính sách đầu tư
Chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn tiếp tục được điều chỉnh
theo hướng đầu tư tập trung, cắt giảm các khâu đầu tư kém hiệu quả hoặc chưa
bức xúc. Điểm mới trong chính sách đầu tư của Nhà nước ở giai đoạn này là
ngoài các khâu đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước đã có thêm nhiều
nguồn vốn khác được huy động vào khu vực nông nghiệp và nông thôn.
(6). Chính sách khuyến nông, chuyển giao công nghệ sản xuất
Để chuyển sang sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật, chất
lượng và tiêu chuẩn, chính phủ không ngừng củng cố, nâng cao về mặt kiến
thức cũng như kinh nghiệm sản xuất, nhu cầu cung cấp thông tin về khoa học
công nghệ đối với người sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Trong thời gian
ngắn chính sách khuyến nông đã được triển khai rộng rãi, mạng lưới khuyến
nông đã được hình thành từ Trung ương tới cơ sở.
(7). Chính sách quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu
Bước đổi mới đầu tiên về chính sách xuất nhập khẩu là đổi mới quyền kinh
doanh xuất nhập khẩu. Nhà nước đã mạnh dạn thay đổi quan niệm về Nhà nước


xiii

độc quyền ngoại thương. Đến nay, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đã mở rộng
cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện đã được quy định. Nhà nước chỉ ban hành

chính sách, biện pháp và thực hiện quản lý thông qua hành lang pháp lý.
2.2.2. Đánh giá về thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của
CHCDND Lào
2.2.2.1. Những thành tựu đạt được
- Xuất khẩu hàng nông sản đã đạt được mục tiêu đề ra và đóng góp một
phần đáng kể vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ
2001 - 2005. Hoạt động xuất khẩu nông sản chính là yếu tố phát huy nội lực
rất quan trọng, tạo thêm vốn đầu tư công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy
quá trình công nghiệp hóa đất nước.
- Mặt hàng nông sản đã chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Cơ cấu xuất khẩu hàng
nông sản đã được thay đổi theo phương hướng tích cực, tăng tỷ trọng các mặt
hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định.
- Thị trường xuất khẩu được mở rộng, đã tạo lập được thị trường, những
bạn hàng truyền thông tin cậy hiểu biết lẫn nhau ở nước ngoài để xuất khẩu
hàng nông sản. Đã tạo lập được nguồn hàng để cung cấp cho xuất khẩu.
- Bộ máy quản lý năng động, có năng lực và trình độ quản lý kinh tế,
kinh doanh tốt, có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, nhanh nhạy trong nắm
bắt thông tin về thị trường, giá cả mặt hàng.
- Xuất khẩu của CHDCND Lào đã được đổi mới một cách cơ bản về cơ
chế quản lý xuất - nhập theo hướng xóa bỏ chế độ độc quyền ngoại thương,
- Chính sách đổi mới quản lý xuất nhập khẩu đã giúp Chính phủ tốt hơn
trong quản lý và điều hành những hàng hóa nhập khẩu thiết yếu, góp phần ổn
định giá cả, thúc đẩy sản xuất phát triển và thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ
cấu xuất - nhập khẩu. Các công cụ tiền tệ vĩ mô như: lãi suất tín dụng, tỷ giá
được sử dụng nhuần nhuyễn hơn để khuyến khích xuất khẩu và định hướng
nhập khẩu; hành lang pháp lý được hoàn thiện từng bước đặc biệt là lần đầu


xiv


tiên thông qua luật thương mại, chế độ tối huệ quốc, mã hàng hóa, giảm dần
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tiến tới chế độ đãi ngộ quốc gia.
2.2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
(1). Những hạn chế
Thứ nhất: Một số chính sách của Nhà nước nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp tham gia sản xuất, chế biến hàng nông sản xuất khẩu chưa thực sự phù
hợp, xa rời thực tiễn, chưa kích thích được sự quan tâm đầu tư của các doanh
nghiệp vào lĩnh vực nông sản. Có một số chính sách Nhà nước triển khai
chậm, trong quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc.
Thứ hai: Hoạt động xuất khẩu chưa mang tính tổ chức cao, nguồn hàng
dự trữ mỏng, thiếu ổn định, luôn bị động khi giá cả trên thế giới sụt giảm.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa rõ nét, diện mặt hàng
xuất khẩu còn hẹp, chi phí đầu vào cho xuất khẩu còn cao.
Thứ ba: Việc chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu chưa bám sát
tín hiệu của thị trường thế giới, do đó nhiều sản phẩm sản xuất ra không tiêu
thụ được, năng suất, chất lượng, giá thành không đủ sức cạnh tranh
Thứ tư: Sự hiểu biết về thị trường bên ngoài còn bị hạn chế, các cơ quan
quản lý trong nước lẫn các cơ quan đại diện ở ngoài nước chưa cung cấp
thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp, ngược lại các doanh nghiệp lại ỷ lại
trông chờ vào nguồn thông tin của Nhà nước. Việc chuẩn bị hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới còn lúng túng, chưa hình thành được chiến lược
tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi thuế quan dài hạn.
Thứ năm: Bộ máy quản lý về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để
theo sát tình hình thực tiễn nhưng nhìn chung vẫn khá thụ động và trì trệ. Sự
phối hợp giữa các Bộ các ngành, địa phương, giữa các định chế quản lý đã có
những chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa được tốt, có khi còn triệt tiêu lẫn
nhau, chưa tạo được sức mạnh tổng hợp, cán bộ quản lý còn thiếu và yếu.
Thứ sáu: Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của Lào là 70
USD/người, trong khi bình quân khu vực ASEAN năm 2003 là hơn 800

USD/người. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân thấp hơn cả tốc độ tăng


xv

trưởng GDP bình quân, trong khi xuất khẩu thế giới có mức tăng trưởng cao
hơn gấp đôi tăng trưởng GDP.
Thứ bảy: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu tuy có thay đổi nhưng chủ yếu vẫn
lạc hậu. Tuy có đa dạng hóa nhưng không thật rõ nét theo chiều hướng tích
cực. Các sản phẩm chủ lực về cơ bản vẫn thuộc nhóm nguyên - nhiên - liệu
khoáng sản, trên cơ sở khai thác tài nguyên sẵn có.
Thứ tám: Thị trường xuất khẩu tuy có sự đa dạng hóa, nhưng sự thay đổi
này mang tính đột biến, thiếu bền vững.
(2). Những Nguyên nhân
* Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất: Lào là quốc gia không có cảng biển, xuất khẩu phải qua quá
cảnh làm tăng giá thành hàng hóa xuất khẩu.
Thứ hai: Do cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nặng nề ở Đông Nam
Á năm 1997 đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, nên xuất khẩu
của Lào đã giảm xuống.
Thứ ba: Các quy định của các nước, các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan, với các quy định chặt chẽ và chứng nhận xuất xứ, tiêu chuẩn chất
lượng, vệ sinh và môi trường….
* Nguyên nhân chủ quan:
Một là: Lào đang trong giai đoạn đầu hội nhập vào thị trường thế giới
với xuất phát điểm về kinh tế rất thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, thiếu nguồn lực
về tài chính, nhân lực, công nghệ… để đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu.
Hai là: Nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, đang từng bước chuyển
sang cơ chế thị trường còn bỡ ngỡ khó khăn, đội ngũ cán bộ chưa có kinh nghiệm
cần bổ sung và đào tạo cho kịp yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường.

Ba là: Do sản xuất trong nước chưa phát triển, sản xuất kiểu tự nhiên,
trình độ công nghệ thấp, thiếu tập trung, quy mô nhỏ nên các mặt hàng của
Lào chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của các bạn hàng. Hơn nữa, hệ
thống doanh nghiệp xuất khẩu còn yếu và hạn chế, khả năng tiếp cận thị
trường, và năng lực tài chính còn hạn chế.


xvi

Bốn là: Hệ thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn yếu kém lại
phân bổ thiếu hợp nhất, chất lượng chế biến còn ở mức thấm, chưa đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng.
Năm là: Việc xây dựng chiến lược xuất khẩu dài hạn, toàn diện mới ở
bước đầu, chưa có chiến lược xuất khẩu rõ ràng, nhất là chiến lược thị trường
và chiến lược sản phẩm, thiếu kinh nghiệm.
Sáu là: Sự hiểu biết về thị trường nước ngoài còn hạn chế, hệ thống
thông tin thị trường yếu và thiếu tin cậy, do thiếu số liệu thống kê, phân tích,
đánh giá tình hình thị trường để dự báo thị trường xuất khẩu.
Bảy là: Chủ trương chính sách quản lý xuất khẩu nhập còn chậm triển
khai thực hiện, kết quả chỉ đạo thực hiện còn kém hiệu quả, thiếu sự phối hợp
giữa các Bộ ngành trong nước. Công tác quản lý nhập khẩu còn gặp nhiều
khó khăn, thiếu cán bộ có nghiệp vụ.


xvii

CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN CỦA CHDCND LÀO ĐẾN NĂM 2010


3.1. PHƯƠNG HƯỚNG THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA
CHDCND LÀO ĐẾN NĂM 2010

Thứ nhất: Tập trung nguồn lực cho phát triển sản xuất, thu hút lao động để
tăng sản lượng xuất khẩu. Cùng với chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ
cấu thị trường nhằm đảm bảo xuất khẩu ổn định và hiệu quả.
Thứ hai: Chú trọng đổi mới cơ chế quản lý xuất khẩu phù hợp với yêu cầu
của nền kinh tế trong nước và bối cảnh thương mại thế giới, hoàn chỉnh khung
pháp lý và nâng cao năng lực quản lý và điều hành xuất khẩu.
Thứ ba: Cần gắn kết thị trường xuất khẩu và sản xuất trong nước, sản xuất
phát triển là cơ sở cho việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ tư: Tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế
tham gia hoạt động xuất khẩu.
Thứ năm: Chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, xây dựng kế
hoạch tổng thể và lộ trình với các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển
của đất nước và quy định của các tổ chức mà Lào tham gia.
Thứ sáu: Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp; nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ bảy: Tập trung phát triển một số thị trường xuất khẩu trọng điểm như:
Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ…
3.2. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA CHDCND
LÀO ĐẾN NĂM 2010

3.2.1. Giải pháp đổi mới nghiên cứu thị trường nông sản
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần nắm vững được các thị
trường, hiểu biết được các quy luật của thị trường, nghiên cứu thị trường . Trên
cơ sở khái quát tình hình thị trường thế giới và khu vực. Một mặt phải giữ vững


xviii


thị trường đã hình thành nhất là Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc. Mặt khác
phải chủ động tìm kiếm thị trường mới như: Các nước Châu Âu, Châu Mỹ, thị
trường các nước như: Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc…
3.2.2. Giải pháp về tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu của nước Lào.
- Cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ chế biến sau
thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển…
- Trong thời gian tới phát triển đối với những hàng nông, lâm, thủy sản cần
đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm.
3.2.3. Giải pháp về khoa học công nghệ trong nông nghiệp
- Trong nhập khẩu và đầu tư nghiên cứu phát triển các công nghệ, cần
chánh nhập những máy móc và công nghệ không sử dụng được hoặc là đã quá
lạc hậu, gây ra tổn thất không nhỏ đối với nền kinh tế. Cần lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn.
- Nhà nước đầu tư thành lập Ngân hàng dữ liệu công nghệ, tạo lập thị trường
công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ trong nước được phát triển và
được trả giá đúng mức, để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp.
- Thi hành nghiêm túc luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghệ cũng là biện
pháp quan trọng khuyến khích đầu tư nghiên cứu khoa học phục vụ công cuộc
đổi mới và cải tiến công nghệ.
Đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp, tạo nhu cầu
thực sự thúc đẩy chuyển giao và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
vào sản xuất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần chủ động hình thành các tổ
chức nghiên cứu, đổi mới sáng tạo công nghệ tại các doanh nghiệp.
- Phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ thông qua hình thức
tổ chức các chợ công nghệ và thiết bị, các loại hình tư vấn, môi giới, dịch vụ
chuyển giao công nghệ. Xây dựng các trung tâm giao dịch khoa học và công
nghệ tại các vùng kinh tế lớn trong cả nước.
- Ưu tiên phát triển nghiên cứu và ứng dụng công nghệ như công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, tự động hóa, công nghệ và vật liệu. Phát triển dịch



xix

vụ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực tiêu chuẩn chất lượng, sở hữu trí tuệ, tư
vấn và chuyển giao công nghệ.
- Xây dựng chiến lược, chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ, sử dụng và trọng dụng nhân tài nhằm khuyến khích và
phát huy sáng tạo, tăng nhanh các phát minh sáng chế, cải tiến kỹ thuật phục vụ
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.
3.2.4. Giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản
- Nhà nước cần lập các Viện nghiên cứu trong nước và nước ngoài để cung
cấp thông tin cho các nhà xuất khẩu.
- Đào tạo cán bộ, chuyên gia giúp các nhà xuất khẩu.
- Nhà nước cũng cần sắp xếp thành lập và đổi mới hoạt động của các bộ
phận thương vụ, đại diện thương mại của Lào ở nước ngoài, nhằm xúc tiến các
cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Lào, gắn với nhu cầu tiếp thị và hiệu quả
của các doanh nghiệp.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các Bộ, ngành liên quan nhằm đáp
ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu, có quy chế phù hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan quản lý, điều hành hoạt động xuất nhập khẩu nhằm thực hiện
tốt luật kinh doanh.
- Bộ Thương mại cần nâng cao vai trò quản lý về hoạt động thương mại,
trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu,
nhất là hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường ASEAN, EU thì Bộ Thương mại
cần khẳng định hơn nữa vai trò của mình. Tăng cường hoạt động tài trợ xuất
khẩu sang thị trường trong khu vực và thế giới.
3.2.5. Giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với nông nghiệp
- Nhà nước cầu chú trọng đến hàng rào thuế quan và phi thuế quan để thúc
đẩy sản xuất xuất khẩu, cần giảm thiểu tối đa các quy định về thủ tục hành chính,

hướng tới chính sách một cửa.
- Áp dụng chế độ thưởng xuất khẩu bằng các hình thức phù hợp đối với các


xx

doanh nghiệp thâm nhập được thị trường mới, xuất khẩu được mặt hàng mới,
nhất là đối với thị trường nhập siêu lớn. Vận động các nhà đầu tư trong khu vực
đầu tư sản xuất và bao tiêu sản phẩm, đa dạng hóa các phương thức mua bán.
- Cần tạo ra thị trường bình đẳng, để doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong
việc nghiên cứu, đầu tư đề xuất các giải pháp pháp triển sản xuất, nâng cao chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm nhằm chủ động hơn trong tiếp cận, tìm kiếm, mở
rộng thị trường, bồi dưỡng kiến thức về luật pháp, thương mại quốc tế, tự tin hơn
trong hoạt động xuất khẩu.
Thành lập các công ty tài chính để đầu tư vốn cho các doanh nghiệp theo
phương thức kinh doanh vốn; Tiến tới xóa bỏ các hình thức bao cấp vốn đối với
các doanh nghiệp.


xxi

KẾT LUẬN

Xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng nông sản nói riêng đã phát triển và
đóng góp rất lớn vào phát triển kinh tế chung của đất nước, cải thiện đời sống
nhân dân. Một số mặt hàng nông sản đã tạo thế mạnh cho CHDCND Lào như:
Gỗ, các sản phẩm gỗ, cà phê, gạo v.v.. các chính sách xuất khẩu của Chính phủ
trong thời gian vừa qua cũng đã có tác dụng to lớn.
Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa việc tăng cường đầu tư chế biến,
khai thác nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu chính sách, sửa đổi một

số chính sách, luật pháp cho phù hợp hơn với điều kiện mới.
Xuất khẩu nông sản trong thời gian vừa qua chủ yếu vẫn còn ở dạng thô
chưa qua chế biến, chưa chủ động được thị trường, vẫn còn dựa vào lợi thế tự
nhiên, chưa bám sát thị trường.
Các chính sách về thuế, hải quan, tài chính, tín dụng ngân hàng cần có sự
bổ sung và hoàn chỉnh hơn để từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế.
Chính phủ cần có các chính sách về giao đất, giao rừng để đảm bảo cho
việc khai thác nông sản được thuận lợi.
Cần phải đẩy mạnh và kiên quyết hơn nữa việc thực hiện các chính sách
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sửa đổi luật pháp, nâng cao năng lực hoạt động của
một số quỹ hỗ trợ, đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hàng hóa xuất khẩu
nông sản của CHDCND Lào.



×