Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGUYỄN THỊ
THU HẢO
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC GIÁO DỤC
HÀ NỘI, NĂM 2016
NGUYỄN THỊ THU HẢO
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC
CHO HOC SINH CÁC TRƯỜNG TIÊU HOC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số :
60140114
LUÂN VĂN THAC sĩ KHOA HOC GIÁO DUC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phó Đức Hòa
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô Ban Giám hiệu trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2, quý Thày, Cô phòng sau đại học, khoa Quản lý giáo dục và quý Thầy,
Cô đã tham gia giảng dạy lớp Cao học Quản lý giáo dục của trường Đại học sư phạm
Hà Nội 2 đã tận tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phó
Đức Hòa - người Thầy đáng kính đã bỏ nhiều công sức tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
tác giả trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên phòng Giáo
dục & Đào tạo Quận Hai Bà Trưng, các đồng chí trong Ban Giám hiệu, các đồng chí
giáo viên, Bí thư Đoàn TNCS HCM, Tổng phụ trách Đội, giáo viên giảng dạy các
trường tiểu học Quận Hai Bà Trưng đã giúp đỡ, động viên tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất để tác giả hoàn thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chắc chắn luận văn không sao tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót, tác giả mong nhận được sự thông cảm, đóng góp ý kiến của
các nhà khoa học, quý Thầy Cô và bạn bè đồng nghiệp.
Xỉn trăn trọng cảm ơn !
Hà Nội, tháng 06 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Hảo
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu ừong luận văn này là
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự
giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn
ừong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Hảo
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
CBGV
Cán bộ giáo viên
CBQL
CMHS
Cán bộ quản lý
Cha mẹ học sinh
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
ĐĐ
Đạo đức
GD
Giáo dục
GD&ĐT
Giáo dục và đào tạo
GDĐĐ
Giáo dục đạo đức
GV
Giáo viên
GVCN
Giáo viên chủ nhiệm
HS
Học sinh
KH-CN
Khoa học - công nghệ
KT-XH
TDTT
Kinh tế - xã hội Thể dục thể thao
TH
Tiểu học
THPT
Trung học phổ thông
MỤC LỤC
Trang
1.4.1...........................................................................................................................................
1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, sơ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.16. Nhận xét của cán bộ quản lý về mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân đến
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta luôn tập trung mọi nguồn lực xã hội để thực hiện mục tiêu xây dựng
những con ngưòi Việt Nam thiết tha với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện
công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị
độc lập dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy được tiềm
năng của dân tộc, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân để làm
chủ tri thức khoa học và công nghiệp hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực
hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tổ chức kỷ luật, có sức khoẻ, kiên định với
Chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ xa xưa, cha ông ta vẫn luôn đề cao vấn đề đạo đức của con người “Tiên học
lễ, hậu học văn”. Tiếp bước các bậc tiền bối, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm
đến thế hệ trẻ, Bác nói “Có đức mà có không có tài thì làm gì cũng khó, có tài mà
không có đức là người vô dụng” Bác cũng dạy “ công tác giáo dục đạo đức trong nhà
trường là một bộ phận quan ttọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường
xã hội chủ nghĩa, dạy cũng như học phải biết cả đức lẫn tài”.
Giáo dục đạo đức là trách nhiệm của toàn xã hội mà nhà trường giữ vai trò
quan trọng. Nhà trường là nơi tạo nguồn nhân lực cho đất nước, nhiệm vụ của nhà
trường là phải làm thế nào để tìm ra được những biện pháp quản lý hoạt động ừong đó
có quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh nhằm góp phàn tạo ra lớp ngưòi
phát huy trí tuệ và đạo đức có năng lực để xây dựng và làm chủ xã hội mới.
Học sinh tiểu học ở trường tiểu học là lớp thiếu niên đang trong giai đoạn hình
thành nhân cách, bộc lộ về tính cách, các em có xu hướng thích tìm hiểu xung quanh,
thích tham gia các hoạt động tập thể. Trong bối cảnh xã hội phức tạp hiện nay, mặt trái
của nền kinh tế thị trường với những tác động tiêu cực của nó đã làm ảnh hưởng
9
không nhỏ đến tàng lớp thiếu niên. Nhà trường noi bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng nhân
cách, hoài bão ước mơ, trí tuệ ... của học sinh nhưng cũng không tránh khỏi sự xâm
nhập tấn công của các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực, nhất là hiện nay việc
sử dụng facbook tràn lan, các em dễ bị lôi cuốn vào các hoạt động có hại và nguy
hiểm cho bản thân và xã hội. Hơn bao giờ hết chúng ta những người làm công tác giáo
dục đều nhận thức rằng: Nhà trường đóng vai ừò quan ừọng trong việc giáo dục đạo
đức cho học sinh. Những người làm công tác quản lý nói chung và chỉ đạo công tác
giáo dục đạo đức trong nhà trường nói riêng phải nhận thức rõ trách nhiệm tạo nên
những tác động giúp học sinh hình thành nhân cách để tạo ra lớp người mói là chủ đất
nước.
1.2. Hà Nội là thủ đô là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của cả nước, bên
cạnh những mặt tích cực về một nền kinh tế năng động, môi trường văn hóa văn minh,
xã hội phát triển tạo thuận lợi cho việc học tập sinh hoạt của học sinh, thì những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, những ảnh hưởng của phim ảnh bạo lực, của
tệ nạn xã hội, mạng xã hội ít nhiều đang tấn công vào gia đình và trường học của các
học sinh. Nó làm cho một số học sinh chưa nhận thức được đúng hướng đi của mình,
dễ làm lệch lạc nhân cách của các em. Là một quận nội thành của Hà Nội, nơi tập
trung nhiều đàu mối kinh tế, văn hóa, giao thông của Thủ đô, quận Hai Bà Trưng cũng
chịu nhiều ảnh hưởng của sự sa sút về đạo đức của giói trẻ. Trách nhiệm đầy lùi sự
suy thoái về đạo đức đó đầu tiên phải thuộc về những người làm công tác giáo dục.
Muốn làm được điều đó đòi hỏi người cán bộ quản lý giáo dục phải đánh giá đứng
thực trạng việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, tìm ra biện pháp tháo gỡ, khắc
phục để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức tại môi trường mình quản lý.
Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục đạo đức và
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh; Tuy nhiên việc nghiên cứu cụ thể về
thực hạng và các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh nói
chung và cho học sinh tiểu học quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội nói riêng đến
1
nay vẫn chưa có công trinh khoa học nào cụ thể.
1.3. Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài:
“Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học quận Hai
Bà Trưng - thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức ở các trường tiểu học quận Hai Bà Trưng - thành phố
Hà Nội từ đó đề xuất biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học quận Hai Bà Trưng - thành
phố Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiền cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức ở trường tiểu học.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức ở các trường tiểu học quận Hai
Bà Trưng thành phố Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học ừên địa
bàn quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội hiện nay đã có đổi mói và thu lại một số kết
quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định. Nếu đề xuất được các
biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức phù họp với thực trạng hiện nay của địa
bàn quận sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
các trường tiểu học trên địa bàn quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh tại các trường tiểu học.
5.2.
Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh các trường
tiểu học và thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
1
trên địa bàn quận Hai Bà Trưng thảnh phố Hà Nội.
5.3.
Đẻ xuất biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
các trường tiểu học tại quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội.
6.
Giới hạn phạm vỉ nghiền cứu
6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh các trường tiểu học ừên địa bàn quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội của
Hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội.
6.2. Giới hạn đĩa bàn nghiên cứu
Khối các trường tiểu học ừên địa bàn quận Hai Bà Trung thành phố Hà Nội.
6.3. Giới hạn khách thể khảo sát
Trong đề tài này tác giả chỉ nghiên cứu để đề xuất các biện pháp quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học trên địa bàn quận Hai Bà
Trưng thành phố Hà Nội.
Trong điều tra thu thập số liệu, tác giả tập trung vào những kết quả giáo dục
đạo đức của 03 trường tiểu học trong các năm học 2013 - 2014 đến 2015-2016:
- Trường tiểu học Lương Yên - quận Hai Bà Trung;
- Trường tiểu học Lê Ngọc Hân - quận Hai Bà Trưng;
- Trường tiểu học Tô Hoàng - quận Hai Bà Trưng;
7. Phương pháp nghiền cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Bằng việc nghiên cứu đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước phát triển
giáo dục nói chung và phát triển giáo dục tiểu học nói riêng trong giai đoạn hiện nay;
các công trình khoa học về giáo dục, giáo dục đạo đức cho học sinh, các công trình
khoa học về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý trường học, quản lý giáo dục đạo đức
cho học sinh; phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa, khái quát
hóa được sử dụng với mục đích xác định cơ sở lý luận về hoạt động quản lý giáo dục
1
đạo đức cho học sinh các trường tiểu học.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cơ sở thực tiễn
7.2.1.
Phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát
Phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát là một phương pháp rất hiệu quả
nhằm nắm rõ những nhìn nhận về công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của
phòng Giáo dục & Đào tạo, Ban Giám hiệu, Tổng phụ trách Đội, một số giáo viên và
đại diện CMHS các trường tiểu học trên địa bàn quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà
Nội, để từ đó có những điều chỉnh sát thực, kịp thời trong luận văn.
7.2.2.
Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp này được sử dụng để thu thập thêm thông tin về thực trạng công
tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh của Lãnh đạo, chuyên viên phòng
GD&ĐT quận, Hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà
Nội.
7.2.3.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Bằng phương pháp xin ý kiến chuyên gia, trao đổi, thu nhập các số liệu thực
tiễn; các phương pháp này được sử dụng với mục đích đánh giá thực trạng đạo đức và
thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của Hiệu trưởng các
trường tiểu học quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội; đồng thời xem xét mức độ
cần thiết và khả thi của các biện pháp mà tác giả sẽ đề xuất trong luận văn.
7.3.
Phương pháp thống kê toán học trong quản lý giáo dục
Bằng việc sử dụng phương pháp thống kê toán học, một số phần mềm tin học;
các phương pháp này nhằm xử lý các số liệu đã điều tra và ý kiến chuyên gia trong
luận văn.
8. Ý nghĩa của đề tài
8.1.
Ỷ nghĩa khoa học.
Góp phần hệ thống hóa các quan điểm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức trong dạy học ở trường tiểu học.
1
8.2.
Ỷ nghĩa thực tiễn.
Đe xuất các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức ở các trường tiểu học
trên địa bàn quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, các phụ lục, luận
văn còn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
các trường tiểu học.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường tiểu học quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội.
Chương 3 ĩ Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường tiểu học quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội.
Chương 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VÈ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Đạo đức là một hiện tượng xã hội - một hình thái ý thức đặc biệt, giáo dục đạo
đức cho các thế hệ con người luôn là mối quan tâm của cả xã hội và đặc biệt các nhà
giáo dục, từ xã hội cổ đại tới xã hội hiện đại ngày nay.
Ở phưomg Đông thời cổ đại, Khổng Tử (551 - 479 TCN) nhà tư tưởng, nhà
chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng, đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề đạo đức và giáo dục
đạo đức cho con người. Tư tưởng về đạo đức, giáo dục đạo đức của ông thể hiện rõ
ừong các tác phẩm: “Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc Xuân Thu”. Ông xây dựng học thuyết
“Nhân- Lễ- Chính danh”, trong đó, “Nhân”- Lòng thương người - là yếu tố hạt nhân,
là yếu tố cơ bản nhất của con người. Đứng trên lập trường coi trọng giáo dục đạo đức,
Ông có câu nổi tiếng truyền lại đến ngày nay “Tiên học lễ, hậu học văn”.[2].[3].
1
Ở phương Tây thời cổ đại, nhà triết gia Hy Lạp Socrates (469-399 TCN) cho
rằng cái gốc của đạo đức là tính thiện. Bản tính con người vốn thiện, nếu tính thiện ấy
được lan tỏa thì con người sẽ có hạnh phúc. Muốn xác định được chuẩn mực đạo đức,
theo Socrate, phải bằng nhận thức lý tính với phương pháp nhận thức khoa học.
Aritstốt (384-322 TCN) là một nhà triết học, bác học Hy Lạp cổ đại cũng
khẳng định rằng, phải giáo dục con người ta về đạo đức, phát triển ý chí, giảng dạy
văn hóa để phát triển lý trí, giảng dạy thể dục thể thao để phát triển thể lực. Ông xem
đạo đức là cái thiện của cá nhân, còn chính trị là cái thiện của xã hội. Ông cho rằng
không phải hy vọng vào Thượng đế áp đặt để có người công dân hoàn thiện về đạo
đức, mà việc phát hiện nhu càu trên ừái đất, phát triển những quyền lợi chính trị, khoa
học mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức..
Trong xã hội cận đại, J.A. Comenxki (1592-1670) nhà sư phạm lỗi lạc, nhà
giáo dục nổi tiếng phương Tây thế kỷ XVII cho rằng con người là một tác phẩm hoàn
thiện nhất, đẹp đẽ nhất của thiên nhiên - là tiểu vũ trụ và phải giáo dục con người để
tạo ra nhân đạo, chế tạo ra hạnh phúc, chế tạo ra con người chân chính. Những quy tắc
trong ứng xử, trong sinh hoạt đối với mọi người, trong cách nói năng và im lặng chính
là những giá trị đạo đức mà ông muốn mọi người đều phải đạt được.
Ông đã có nhiều đóng góp cho công tác giáo dục đạo đức qua tác phẩm: “Khoa
sư phạm vĩ đại”. Ông đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể trong việc giáo dục làm cơ sở
cho nền giáo dục hiện đại sau này. Ông nhấn mạnh việc tôn trọng con người phải bắt
đầu từ sự tôn trọng trẻ em. Những trẻ em ý thức kém về học tập và hạnh kiểm giống
như những trái chín muộn. Chính vì vậy, nhà giáo phải có thái độ trân ừọng, kiên nhẫn
thì mới có thể xoá bỏ những thói xấu ở học sinh và khơi dậy tiềm năng của các em.
[23].
Theo quan niệm của học thuyết Mác - Lênin: đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội, nó phản ánh
và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Nếu tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng
1
thay đổi theo. Do vậy, đạo đức mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh, sinh viên ở Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục quan tâm
nghiên cứu, chúng ta cũng biết rằng đạo đức xuất hiện từ buổi bình minh của lịch sử
loài người, nó là một hình thái ý thức xã hội. Nó được phát triển song hành cùng với
xã hội đồng thời nó giúp xã hội loài người tiến cao hơn. Chính vì vậy đã có nhiều
công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức của nhiều tác giả trong và ngoài nước từ
nhiều góc độ khác nhau.
Tác giả Hà Thế Ngữ [34] đã nghiên cứu về vấn đề tổ chức quá trình giáo dục
đạo đức thông qua giảng dạy các môn khoa học đặc biệt là các môn khoa học xã hội
và nhân văn, giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức cách
mạng, hướng dẫn các hành vi đạo đức cho học sinh;
Nhà Tâm lý học Phạm Minh Hạc [20] đã nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc
nhân cách, thực hiện giáo dục trong phát triển nhân cách. Công trình nghiên cứu của
ông và các cộng sự về phát ữiển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đã dành một chương cho vấn đề đạo đức,
giáo dục đạo đức, các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong giai đoạn
hiện nay nhằm tìm ra các giải pháp về giáo dục đạo đức các tác giả đã tìm những cách
tiếp cận khác nhau tạo nên sự phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu giáo
dục đạo đức trong các công ừình nghiên cứu của mình;
Cố tác giả Hà Nhật Thăng [40] đã đề cập đến những vấn đề chung như phương
pháp luận của giáo dục đạo đức, xây dựng các chuẩn mực đạo đức của con người Việt
Nam ừong thời kỳ CNH - HĐH, các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung các tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa nhận thức khoa học
với giáo dục đạo đức, những biểu hiện nhân cách trong lối sống và đưa ra dự báo mô
1
hình nhân cách thanh niên. Đặc biệt những năm gàn đây nhiều nhà nghiên cứu, nhà
hoạt động xã hội đã hết sức nhức nhối trước những hiện tượng suy thoái đạo đức của
một số thanh niên đã có những bài viết đáng quan tâm.
Một số tác giả khác đã nghiên cứu về giáo dục đạo đức và các thành quả
nghiên cứu được thể hiện tại các sách, bài báo khoa học, luận án tiến sĩ và
luận văn thạc sĩ. Cụ thể:
Tác giả Huỳnh Khái Vinh đã nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề cơ
bản của lối sống, đạo đức, chuẩn giá tri xã hội; mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức với
phát triển văn hóa và con người; sự tác động của những nhân tố chính trị, kinh tế, xã
hội tới lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội truyền thống và cách mạng; những kinh
nghiệm và bài học về xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá tri xã hội và một số nước;
thực trạng phương hướng, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn
giá trị xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông đã có một số
tác giả đã nghiên cứu về giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
phổ thông như Lê Trung Trấn, Nguyễn Dục Quang, Tràn Đình Chiến, Nguyễn Tấn
Giao,... đã khẳng định vai trò của GVCN trong quá trình giáo dục đạo đức cho học
sinh (HS) và đưa ra các định hướng cho GVCN ừong việc đổi mới nội dung, phương
pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ừong nhà trường phổ thông.
Nghiên cứu về giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên đã được các tác giả
Mạc Văn Trang, Phạm Đình Đức,... đề cập đến. Một số tác giả như Cao Đình Trúc, Võ
Tuấn Hiệp, Nguyễn Thanh Hòa,... đã nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo đức cho sinh
viên các trường đại học và cao đẳng; trong đó đã xuất một số nguyên tắc và giải pháp
giáo dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật quân đội như:
nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên (GV) về tổ chức giáo dục đạo đức; xác định
rõ hơn mô hình tổ chức, chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức; tổ chức tốt việc kết họp
dạy học các môn ừên lớp và các hoạt động ngoài giờ lên lớp; thực hiện nghiêm minh
1
điều lệnh quân đội, nội quy, chế độ sinh hoạt trong học tập; tổ chức tốt các đợt thi đua,
kịp thời tuyên dương những tập thể và sinh viên tốt; phối họp chặt chẽ giữa nhà
trường và gia đình, xây dựng môi trường văn hóa đạo đức lành mạnh; nâng cao vai trò
và hiệu quả hoạt động của GVCN; xây dựng phong trào tự học tự tu dưỡng trong học
sinh sinh viên.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của nước nhà, do nhận thức được
tầm quan ừọng đặc biệt của nhân tố con người cho nên đã có nhiều nghiên cứu đi sâu
vào nghiên cứu giáo dục đạo đức, đặc biệt là giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông
thể hiện tại những luận văn thạc sĩ liên quan đến vấn đề giáo dục đạo đức, quản lý vấn
đề giáo dục đạo đức ở tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Ngoài ra, còn có
nhiều đề tài khác đi sâu và nghiên cứu giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức cho học sinh, sinh viên ở các trường , trường Đại học, Cao đẳng, Trung
cấp,...Nhưng đề tài nghiên cứu về vấn đề này tại quận Hai Bà Trưng còn rất ít. Nhất là
trong giai đoạn hiện nay khi việc nghiên cứu các biện pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học vẫn còn bỏ ngỏ. Vì vậy nghiên cứu
cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
trong các trường tiểu học; Tìm hiểu thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
tại các trường tiểu học trên địa bàn quận Hai Bà Trưng từ đó tìm ra những biện pháp
quản lý phù hợp, có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học
sinh các trường tiểu học trên địa bàn quận Hai Bà Trưng là rất cần thiết.
1.2. Một số khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
1.2.1.
Quản lý
1.2.1.1.
Khái niệm quản lý
Thuật ngữ “quản lý” (Tiếng Việt gốc Hán) bao gồm hai quá trình tích hợp vào
nhau. Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”. Quá
trình “lý” bao gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ thống vào thế “phát triển”.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động
1
của một đơn vị, một tổ chức”[ 42 - tr.1363]
Quản lý là một công việc gắn liền với cuộc sống, với hoạt động của con người,
vì thế nó rất đa dạng và phức tạp. Nhận thức của con người về quản lý vì thế cũng rất
phong phú, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm
quản lý.
Theo tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt, “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái
mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”.[ 36].
Theo tác giả Nguyễn Văn Lê: Quản lý là một công việc vừa mang tính khoa
học vừa mang tính nghệ thuật. Ông viết “Quản lý một hệ thống xã hội là khoa học và
nghệ thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào những con người nhằm đạt
hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra”.[ 33].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là nhằm phù họp nỗ lực của nhiều người,
sao cho mục tiêu của tùng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội”. [ 30].
Theo C.Mác, quản lý là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao
động, nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt
động của con người và thông qua quản lý. C.Mác đã khẳng định: “tất cả lao động xã
hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều
nó cũng càn đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động của toàn bộ cơ chế sản
xuất... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì
cần phải có nhạc trưởng” [9].
Khái niệm quản lý phản ánh một dạng lao động trí tuệ của con người có chức
năng bảo đảm và khuyến khích những nỗ lực của những người khác để thực hiện
thành công công việc nhất định. Quản lý là công tác phối họp có hiệu quả hoạt động
của những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức... Quan niệm hiện đại về quản
lý thừa nhận đó là toàn bộ các hoạt động huy động, tổ chức, thực thi các nguồn lực vật
chất và tinh thần, sử dụng chúng nhằm tác động và gây ảnh hưởng tích cực đến những
1
người khác để đạt được những mục tiêu của tổ chức hay cộng đồng.
Trong luận văn này tác giả sử dụng khái niệm:“Quản lý là một quá trình tác
động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên khách thể và các đối tượng quản
lý nhằm sử dụng hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục
tiêu đặt ra ừong điều kiện biến động của môi trường”.
1.2.1.2.
Bản chất quản lỷ
Bản chất quản lý đó chính là các hoạt động của chủ thể quản lý tác động lên
các đối tượng quản lý để đạt được mục tiêu đã xác định.
1.2.1.3.
Chức năng quản lỷ
Quản lý gồm 4 chức năng cơ bản: Dự báo và lập kế hoạch; tổ chức thực hiện
kế hoạch; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện kế hoạch; kiểm tra, đánh giá.
Sơ đồ 1.1. Các chức năng quản lý
Lập kế hoạch là quá trình xác định mục tiêu và quy định những biện pháp tốt
nhất để thực hiện mục tiêu đó.
Tổ chức là sắp xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con người,
những hoạt động thành một hệ thống toàn vẹn nhằm đảm bảo cho
chúng tác động với nhau một cách hợp lý.
Chỉ đạo là chỉ dẫn, động viên, điều chỉnh và phối hợp các lực lượng để thực
hiện kế hoạch đã đề ra.
Kiểm tra là chức năng dùng để kiểm tra: trạng thái của hệ thống; kết quả thực
2
hiện kế hoạch; phát hiện sai sót để kịp thời uốn nắn, sửa chữa.
TT ịthông tin) được coi là sợi dây, là huyết mạch liên kết với cả 4 chức năng
quản lý.
1.2.2. Giáo dục đạo đức 1.2.2.1. Đạo đức
Trong xã hội, con người bao giờ cũng phải có những quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp với những người xung quanh. Các quan hệ đó vô cùng phức tạp. Nó đòi hỏi
con người phải có những ứng xử, giao tiếp và thường xuyên điều chỉnh những hành vi
của mình cho phù hợp với yêu cầu và lợi ích chung của mọi người. Trong trường hợp
đó con người được xem là có đạo đức. Ngược lại, những cá nhân biểu hiện hành vi vì
lợi ích riêng mình làm tổn hại lợi ích chung của cộng đồng, bị xã hội phê phán thì cá
nhân đó bị xem là vô đạo đức.
Đạo đức phản ánh những giá trị, những quan hệ tốt đẹp giữa người và người;
mặt khác đạo đức còn phản ánh ý thức và hành vi tự nguyện, tự giác của con người
trong mối tương quan giữa cá nhân và xã hội, giữa con người với nhau, đạo đức xuất
hiện từ khi có loài người và nó không bao giờ biến mất, nó tồn tại vĩnh viễn cùng với
sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Vì vậy, con người càng vươn tới và sáng
tạo ra những giá trị đạo đức mới.
Đạo đức là một phạm trù được rất nhiều lĩnh vực khoa học nghiên cứu như:
triết học, đạo đức học, giáo dục học, xã hội học, tâm lý học, giá trị học... mỗi lĩnh vực
có một cách tiếp cận riêng và kết quả đã tạo ra một hệ thống rất
phong phú và sâu sắc.
Theo giáo trình “ Đạo đức học ” (NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội - Năm
2000) “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập họp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [18. tr 8]
Đạo đức là một hình thái ý thức XH, là một mặt của đời sống XH con người và
2
là một hình thái chuyên biệt của quan hệ XH, thực hiện chức năng XH, quan trọng là
điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống XH.
Theo quan điểm học thuyết Mác - Lê Nin: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội. Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Vì vậy tồn tại
xã hội thay đổi thì ý thức xã hội (đạo đức) cũng thay đổi theo. Và như vậy đạo đức xã
hội luôn mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc”.
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lý, những
quy định và chuẩn mực ứng xử ừong quan hệ của con người. Nhưng bên trong điều
kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm
những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với công
việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống.
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính ữị,
pháp luật đời sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt
nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hoá. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống
tinh thần lành mạnh trong sáng, ở hành động giải quyết họp lý, có hiệu quả những
mâu thuẫn.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học XH) thì: “Đạo đức là những tiêu
chuẩn, những nguyên tắc quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối
với xã hội. Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn
đạo đức của một giai cấp nhất định” [42.tr 211]
Theo tác giả Phạm Khắc Chương: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là
tổng họp những quy tắc, nguyên tắc chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình sao cho phù họp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến
bộ xã hội trong quan hệ xã hội giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.”
[12.tr 51]
Như ừên đã trình bày, có nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức. Tuy nhiên ta
2
có thể hiểu khái niệm này dưới hai góc độ:
Một là góc độ xã hội: ĐĐ là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh
dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh hoặc chi phối hành vi
của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự mhiên, giữa con người với
xã hội và với chính bản thân mình.
Hai là góc độ cá nhân: ĐĐ chính là những phẩm chất, nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ
trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ với
người khác và với chính bản thân mình.
ĐĐ biến đổi và phát triển cùng với sự biến đổi và phát triển của các điều kiện
kinh tế xã hội, cùng với sự phát triển của xã hội. Khái niệm ĐĐ ngày càng được hoàn
thiện đầy đủ hơn. Các giá trị ĐĐ trong XH của chúng ta hiện nay là thể hiện sự kết
hợp sâu sắc truyền thống ĐĐ tốt đẹp của dân tộc với xu thế tiến bộ của thời đại, của
nhân loại. Lao động sáng tạo, nguồn gốc của mọi giá trị là một nguyên tắc đạo đức có
ý nghĩa chỉ đạo trong giáo dục và tự giáo dục của con người hiện nay.
ĐĐ có ba chức năng: Nhận thức, giáo dục và điều chỉnh hành vi. Trong đó,
điều chỉnh hành vi hết sức quan ừọng vì nó điều chỉnh hành vi con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chức năng nhận thức: Nhận thức ĐĐ đem lại tri thức ĐĐ, ý thức ĐĐ cho chủ
thể, các cá nhân nhờ tri thức ĐĐ, ý thức ĐĐ xã hội đã nhận thức mà tạo thành ĐĐ cá
nhân. Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng, giá trị ĐĐ xã hội trở thành cơ sở
để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện ĐĐ.
Chức năng giáo dục: Trên cơ sở nhận thức ĐĐ, chức năng giáo dục giúp con
người hình thành những phẩm chất nhân cách, hình thành hệ thống định hướng giá trị
và các chuẩn mực ĐĐ, điều chỉnh ý thức hành vi ĐĐ. Hiệu quả giáo dục ĐĐ phụ
thuộc vào điều kiện KT- XH, cách thức tổ chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể
và đối tượng giáo dục ừong quá trình giáo dục.
2
Chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức: Sự điều chỉnh hành vi ĐĐ làm cho cá
nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, đảm bảo quan hệ lợi ích cá nhân và cộng
đồng. Chức năng này thể hiện bằng hai hình thức chủ yếu. Trước hết là bản thân chủ
thể ĐĐ phải tự giác điều chỉnh hành vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực ĐĐ xã
hội. Thứ hai là tập thể cần tạo ra dư luận để khen ngợi, khuyến khích, đánh giá hoặc
phê phán những biểu hiện cụ thể của hành vi ĐĐ trên cơ sở những chuẩn mực giá trị
ĐĐ. Đây là chức năng xã hội cơ bản, hết sức quan họng của ĐĐ: “Mục đích điều
chỉnh của đạo đức nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội bằng việc tạo nên sự
hài hoà quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu tiên lợi ích cộng
đồng)” [18. tr 41]
về bản chất, đạo đức là những quy tắc, những chuẩn mực xã hội, nó được hình
thành, tồn tại và phát triển trong cuộc sống, được xã hội thừa nhận và tự giác thực
hiện. Đạo đức chính là văn hóa trong cuộc sống, là biểu hiện của trình độ nhận thức
của cá nhân và trình độ dân trí xã hội.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, khái niệm đạo
đức cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên, không có nghĩa là các
giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá trị đạo đức mới. Theo quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta, các giá trị đạo đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân
loại. Đó là tinh thần càn cù lao động, sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có tinh thần nhân
đạo và tinh thần quốc tế cao cả.
Như vậy, từ các quan niệm trên ta có thể hiểu: "Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy
tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã
hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người
với con người, giữa cá nhân với xã hội" [30].
2
1.2.2.2.
Giáo dục đạo đức
“Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ
thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục (học sinh) để bồi
dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực, hành vỉ đạo đức) phù họp với
yêu cầu của xã hội” [26].
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức “Giáo dục đạo đức là quá trình
biến các chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân
thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của
người được giáo dục” [22].
Giáo dục đạo đức là quá trình hai mặt, mặt tác động của nhà sư phạm và mặt
tiếp nhận tích cực của người được giáo dục, đó là sự chuyển hoá những nhu càu của
xã hội thành những phẩm chất bên trong của cá nhân. Giáo dục đạo đức được thực
hiện trong gia đình, nhà trường và trong môi trường xã hội, với những hình thức đa
dạng và những phương pháp phong phú, trong đó giáo dục trong nhà trường có một vị
trí đặc biệt quan trọng.
Bản chất giáo dục đạo đức là chuỗi tác động có định hướng của chủ thể giáo
dục và yếu tố tự giáo dục của học sinh, giúp học sinh nhận thức đúng, tạo lập tình cảm
và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù
họp với chuẩn mực xã hội. Trong cuộc sống, trong hoạt động, thông qua giao lưu nhân
cách con người mới được hình thành và phát triển.
Ngày nay, giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, pháp luật, làm cho học sinh có tinh
thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thật sự say mê học tập, có ý
thức tổ chức kỷ luật, kính thày, yêu bạn, có nếp sống lành mạnh, biết tôn trọng pháp
luật.
1.2.3. Hoạt động giáo dục đạo đức
Hoạt động giáo dục đạo đức là hình thành cho con người những quan điểm cơ
2
bản nhất, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội. Nhờ đó, con người
có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như tự
đánh giá suy nghĩ về hành vi của bản thân mình. VI thế, công tác giáo dục đạo đức
góp phần vào việc hình thành phát triển nhân các phù hợp với từng giai đoạn phát
triển. “Giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến người học để hình thành cho họ ý
thức, tình cảm và niềm tin đạo đức, đích cuối cùng quan trọng nhất là lập được những
thói quen hành vi đạo đức”.
Quá trình giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế
hoạch nhằm biến những chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội
với cá nhân thành những đòi hỏi bên ừong của cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói
quen của người được giáo dục.
Giáo dục đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục tư tưởng chính trị. Từ đó là cơ
sở hình thành thế giới quan Mác- Lênin và định
hướng chính trị theo quan điểm và đường lối của Đảng cộng sản, cho ý thức và hành
động đạo đức.
Giáo dục đạo đức còn gắn bó chặt chẽ với việc giáo dục pháp luật. Giáo dục
pháp luật giúp cho người học nắm được chuẩn mực của pháp luật, các quyền lợi và
nghĩa vụ của người công dân Việt Nam. Luật pháp bản thân nó cũng đã bao hàm
những yếu tố đạo đức. Thực hiện pháp luật một cách tự giác góp phàn vào cuộc sống
bình yên của xã hội chính là thể hiện những phẩm chất đạo đức chân chính.
Quá trình giáo dục đạo đức giúp cho mỗi cá nhân nhận thức đúng các giá trị
đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, công bằng và nhân đạo, biết sống vì mọi người,
vì gia đình, vì sự tiến bộ và sự phồn vinh của đất nước. Trong đó mục tiêu quan trọng
nhất của giáo dục đạo đức là hình thành được những thói quen hành vi đạo đức.
Như vậy giáo dục đạo đức là một nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ
hoạt động của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và phát triển nhân cách,
giáo dục đạo đức trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, là vấn đề của mọi vấn đề