Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

tiểu luận ô nhiễm môi trường nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.56 KB, 9 trang )

Đề tài: Ô nhiễm môi trường nước tại các khu đô thị và khu công nghiệp
I. Đặt vấn đề
Tính đến hiện nay, theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nước ta
có hơn 300 khu công nghiệp, cụm khu công nghiệp nằm rải rác ở nhiều tỉnh thành,
giải quyết việc làm cho hàng triệu người cũng như góp phần lớn vào tình hình kinh
tế chung. Sự gia tăng nhanh của công nghiệp hóa cùng với đô thị hóa đã đóng góp
đáng kể cho sự phát triển kinh tế cũng như tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người
lao động. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa cũng đã bộc lộ những
khiếm khuyết, điển hình là quá trình xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường đặc
biệt là ô nhiễm môi trường nước một cách nghiêm trọng.
Mặc dù hiện nay ở Việt Nam, các cấp các ngành đã có nhiều cố gắng trong
việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường nhưng tình trạng ô
nhiễm môi trường nước ở các khu đô thị và khu công nghiệp hiện rất đáng lo ngại.
II. Nội dung
1. Khái niệm
- Ô nhiễm môi trường:
Theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, ô nhiễm môi trường là sự biến đổi
của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường
và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.
Có nghĩa là ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị bẩn,
đồng thời các tính chất Vật lý, Hóa học, Sinh học của môi trường bị thay đổi gây
tác hại tới sức khỏe con người và các sinh vật khác.
- Ô nhiễm môi trường nước:
Ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi theo chiều tiêu cực của các tính chất
vật lý- hóa học- sinh học của nước với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm
1


cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng
sinh học trong nước.
Tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường nước là rất


lớn.
2. Thực trạng ô nhiễm môi trường nước ở các khu đô thị và khu công nghiệp
- Tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa khá nhanh cùng với sự gia tăng dân
số đã gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên nước tại các đô thị và các
khu công nghiệp, cụm khu công nghiệp. Môi trường nước tại các khu vực này ngày
càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và các loại chất thải rắn. Ở các thành phố
lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do
không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước ở các khu công
nghiệp là rất nặng; có thể kể đến ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp
sản xuất giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu
cầu oxy sinh hóa (BOD) và nhu cầu oxy hóa học (COD) có thể lên đến 700mg/l và
2500mg/l; hàm lượng các chất rắn lơ lửng… cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84
lần, H2S vượt 4.2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô
nhiễm nặng nề các nguồn nước trong vùng dân cư.
- Mức độ ô nhiễm môi trường nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất,
cụm công nghiệp tập trung là rất lớn:
+ Tại cụm công nghiệp Tham Lương (TP. Hồ Chí Minh) nguồn nước bị
nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính
500.000m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt.
+ Ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản
xuất giấy (nhà máy sản xuất giấy Hoàng Văn Thụ) , luyện gang thép (Khu Gang
thép Thái Nguyên) , luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn, tổng lượng nước
2


thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước
thải từ nhà máy sản xuất giấy có độ pH từ 8.4- 9 và hàm hượng NH 4 là 4mg/l, hàm
lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chiu…
+ Hàm lượng căn lơ lửng trong nước thải của các khu công nghiệp thường

xuyên vượt ngưỡng cho phép theo Quy chuẩn Việt Nam. Kết quả phân tích mẫu
nước ở các khu công nghiệp cho thấy hàm lượng các chất lơ lửng cao gấp 2 lần quy
chuẩn (khu công nghiệp Hòa Khánh), đến hàng chục lần (Khu công nghiệp Điện
Nam- Điện Ngọc), thậm chí có nơi đến hàng trăm lần.
+ Nước thải ở các khu công nghiệp cũng góp phần làm cho tình trạng ô
nhiễm ở các sông, hồ, kênh rạch trở nên trầm trọng hơn. Những nơi tiếp nhận nước
thải ở các khu công nghiệp đã bị ô nhiễm nặng nề, nhiều nơi nguồn nước không thể
sử dụng được cho bất kỳ mục đích nào. Tình trạng ô nhiễm không chỉ dừng ở hạ
lưu các con sông mà còn lan lên tới cả phần thượng lưu theo sự phát triển của các
khu công nghiệp. Kết quả quan trắc chất lượng nước cả ba lưu vực sông Đồng Nai,
sông Nhuệ- Đáy và sông Cầu đều cho thấy bên cạnh nguyên nhân do tiếp nhận
nước thải sinh hoạt từ các khu đô thị trong lưu vực, những khu vực chịu tác động
của nước thải từ các khu công nghiệp có chất lượng nước sông suy giảm mạnh,
nhiều chỉ tiêu đều cao hơn quy chuẩn cho phép.
Đối với hệ thống sông Đồng Nai, ô nhiễm nước mặt tập trung chủ yếu dọc
các đoạn sông chảy qua các tỉnh thuộc vùng kinh tế phía Nam, nơi các khu công
nghiệp phát triển mạnh.
Đối với lưu vực sông Nhuệ- Đáy, hiện tại nước của trục sông chính đã bị ô
nhiễm ở các mức độ khác nhau.
- Khảo sát một số làng nghề sắt, thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt, nhuộm
ở Bắc Ninh cho thấy lượng nước thải hàng nghìn mét khối/ ngày không qua xử lý
gây ô nhiễm nguồn nước trong khu vực.
3


- Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ
thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương).
Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, các bệnh viện và cơ
sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành

phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm môi
trường nước. Hiện nay mức độ ô nhiễm ở các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là
rất nặng.
Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000400.000m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải,
chiếm 25% lượng nước thải từ các bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước
thải; lượng rác thải sinh hoạt chưa được thu gom khoảng 1200m 3/ngày đang xả vào
các khu đất ven hồ, kênh, mương trong nội thành. Chỉ số BOD, oxy hòa tan, các
chất NH4, NO2, NO3… ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho
phép.
Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới 400.000 tấn/ ngày, chỉ có
24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3000 cơ sở sản xuất gây ô
nhiễm thuộc diện phải di dời.
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải
Phòng, Hải Dương, Nam Định, Huế, Đà Nẵng… nước thải sinh hoạt cũng không
được xử lý. Độ ô nhiễm nơi tiếp nhận nước thải đều gấp nhiều lần quy chuẩn cho
phép.
3. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước ở các khu đô thị và khu công
nghiệp
- Trong khi các ngành nghề sản xuất ở các khu công nghiệp đang có những
sự dịch chuyển nhất định để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống thì số lượng chất thải
4


mà các khu công nghiệp này thải ra cũng thay đổi theo. Rất nhiều chất thải là hóa
chất, chất độc hại đã được tạo ra khi ngành nghề sản xuất thay đổi trong khi quy
trình xử lý chất thải vẫn giữ nguyên như cũ. Điều này đồng nghĩa với việc những
hóa chất mới này hầu như không được xử lý hoặc sau khi xử lý, chúng vẫn giữ
nguyên yếu tố độc hại và việc thải ra môi trường là vô cùng nguy hiểm. Có lẽ, đây
chính là nguyên nhân mà khu công nghiệp nào khi kiểm tra cũng có những dây
truyền xử lý chất thải nhưng tại các khu vực xung quanh khu công nghiệp, bằng

mắt thường cũng có thể thấy tình trạng ô nhiễm đã tăng đột biến, làm biến đổi hoàn
toàn môi trường ở khu vực đó. Thiết nghĩ, tình trạng những khu xử lý chất thải bị
“chết” hay không theo kịp cơ cấu hàng sản xuất cần phải được chấm dứt ngay.
- Sự thiếu ý thức nghiêm trọng của người dân: Nhiều người nghĩ rằng việc
mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường, một số người khác lại
cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của Nhà nước, của chính quyền mà
không phải trách nhiệm của mình. Số khác lại nghĩ rằng môi trường đã bị ô nhiễm
thì có làm gì đi chăng nữa cũng không đáng kể và việc ô nhiễm môi trường cũng
không ảnh hưởng gì tới mình nhiều.
Việc phá hoại môi trường của một người tuy chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng tập
hợp nhiều người lại là lớn. Trách nhiệm bảo vệ môi trường tuy cũng có một phần là
của Nhà nước nhưng đa phần phải là của toàn dân.
- Sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp: Do đặt nặng mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận, không ít các doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần
đáng kể gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, các doanh nghiệp tối thiểu hóa chi phí
đầu tư đã cắt xén quy trình xử lý nước thải, thậm chí xả thải thẳng ra môi trường
nước, gây ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng.
- Sự chưa chặt chẽ trong việc quản lý bảo vệ môi trường của Nhà nước cũng
đã tiếp tay cho hành vi phá hoại môi trường: Việt Nam vẫn còn thiếu những chính
sách và quy định bảo vệ môi trường nghiêm ngặt do chúng ta đang muốn thu hút
5


được càng nhiều các nguồn vốn đầu tư nước ngoài càng tốt nên khâu kiểm soát đầu
tư nới lỏng và nhượng bộ, đôi khi tiếp nhận nhiều ngành công nghiệp gây ô nhiễm
môi trường nước nặng nề.
- Hạn chế của cơ chế chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường và việc tổ
chức thực hiện của các cơ quan chức năng:
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về
bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động

kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy
nhiên hệ thống các văn bản này còn chưa thực sự hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ,
thiếu chi tiết và tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa
lâu đã phải sửa đổi bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh
hành vi của các chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực gây ảnh hưởng đến môi
trường.
- Quyền hạn pháp lý của các tổ chức bảo vệ môi trương, nhất là lực lượng
Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm
tình hình, phát hiện kịp thời, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường.
- Các cơ sở pháp lý, chế tài xử phạt đối với các hành vi gây ô nhiễm môi
trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh dẫn đến
hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đói với các hành vi xâm hại môi
trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường nước bị
xử lý hình sự; còn các biện pháp xử lý khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực
gây ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉ hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm không
được áp dụng dụng nhiều hoặc có được áp dụng nhưng các cơ quan chức năng
thiếu kiên quyết, doanh nghiệp chây ì nên cũng không có hiệu quả.

6


- Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mực đối với
công tác bảo vệ môi trường dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong
kiểm tra, giám sát. Công tác thanh tra, kiểm tranh về môi trường của các cơ quan
chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức. Công tác
thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại
nhiều bất cập chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách
hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê
duyệt không cao.

- Công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn
chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác của tổ chức, cá nhân, cộng đồng
trong việc gìn giữ môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng.
4. Giải pháp
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó chế
tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lý hình sự) phải thực sự đủ mạnh để đủ
sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống
quản lý môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn
quốc tế.
- Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi
trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát
môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những
hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân.
Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để
phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.

7


- Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp,
các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng,
toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy
hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa
qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói chung, quản lí môi trường nói riêng.
Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng
phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được
phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ.
- Cần chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác

động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham
mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp
giấy phép đầu tư.
Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kĩ lưỡng giữa lợi ích
đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực
hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi
tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của
các quy hoạch và dự án đó.
- Ngoài ra, việc quy hoạch, dịch chuyển các khu công nghiệp, vùng công
nghiệp tới những khu đất biệt lập, nằm xa khu dân cư, vùng ngoại thành xa xôi
chính là yếu tố cần thiết để bảo vệ và có biện pháp cách ly, xử lý an toàn môi
trường khi cần thiết. Biện pháp này còn khiến cho môi trường quanh khu công
nghiệp, môi trường sống của người dân trong tương lai được an toàn, bền vững
hơn. Việc thay đổi liên tục những quy trình xử lý chất thải môi trường ở những khu
công nghiệp cũng là việc làm hết sức cần thiết. Tất cả phải ưu tiên những dây
truyền sản xuất thân thiện, xanh sạch với môi trường sống để đảm bảo rằng môi
trường tại các khu công nghiệp không làm ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường sống
xung quanh của các khu dân cư khác.
8


- Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục về môi
trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức
chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm của người dân, doanh nghiệp
trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi
người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự
nhiên- con người- xã hội.
III. Kết luận
Ô nhiễm môi trường nước đang là vấn đề mang tính thời sự hiện nay. Tình
trạng môi trường nước ở các khu đô thị và các khu công nghiệp tuy nghiêm trọng

nhưng vẫn có thể cứu vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo
vệ môi trường.

9



×